Nhiều tác giả
Bìa: Đoàn Duy Hiệp
Tranh: Đinh Cường
Ảnh: Trương Trọng Trác
Trình bầy: Lê Giang Trần
Tủ sách Văn Học Nhân Chứng in lần thứ nhất tại California, tháng 4 năm 1998
Tác giả giữ bản quyền
Nội dung
Nguyên Sa
trên ngọn tình sầu
“Tôi biết thơ Du Tử Lê thật hay lúc ở Việt Nam, tôi thấy Du Tử Lê làm được thơ những năm đầu ở Mỹ, tôi thấy thơ Lê hay hơn trước. Bây giờ tôi nghĩ rằng Du Tử Lê đã đi xa hơn những người làm thơ cùng thời với anh một quãng đường trông như gang tấc, mà trong thơ, xa vạn dậm.”
NS, 1991.
tôi nghe hắt hiu từ mắt em ngát tạnh
con dế buồn tự tử giữa đêm sương
bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ
em ở đó bờ sông còn ấm cát
con sóng tình vỗ mãi một âm quên
Bài Trên Ngọn Tình Sầu mà tôi nghe là một bài thơ của Du Tử Lê, Từ Công Phụng phổ nhạc. Tiếng hát mang đến cho tôi con dế buồn, bầy sẻ cũ, bãi cát còn ấm chỗ, con sóng tình vỗ mãi một âm quên, là tiếng hát tuyệt vời của Xuân Sơn. Nhiều người cho rằng tiếng hát Xuân Sơn hay nhất là thời ở Việt Nam, trong cuốn Ngô Thụy Miên một, Văn Phụng hòa âm. Một số người khác nghĩ rằng Xuân Sơn của thời kỳ Giọt Nắng hồng, thời kỳ Nhìn Những Mùa Thu Đi, thời kỳ Việt Nam, là bông hoa hé nụ, là vầng trăng thượng tuần. Xuân Sơn thời kỳ hải ngoại với Thoi Tơ, với Cô Hàng Nước của tiếng hát Xuân Sơn, Trung Nghĩa hòa âm mới là vầng trăng ngày rầm, là bông hoa nở nhụy. Tôi thì tôi vẫn thích nhất Trên Ngọn Tình Sầu, Xuân Sơn hát tác phẩm của nhà thơ bạn tôi và của nhạc sĩ họ Từ. Trong bài thơ phổ nhạc này có tiếng cello đi theo giọng ca của Xuân Sơn. Tiếng cello dầy đặc thung lũng, vực sâu, bóng đêm, đáy biển tương phản với tiếng lục huyền cầm sắc, trong veo trời không mây, nắng thủy tinh của Trung Nghĩa. Chính ở giữa biển sâu tưởng chừng không đáy và trời cao đến ngoài trời đó, nghẹn ngào, nức nở giọng ca của Xuân Sơn. Nhiều người về sau cũng hát Trên Ngọn Tình Sầu, nhưng không có ai mang vào được giọng ca tâm sự của con dế mèn buồn đã phải chọn giờ khắc đêm sương lạnh để tự tử. Không ai diễn tả được sự im lặng của bầu trời buổi bình minh lúc bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ. Không ai dấu chứa được trong thanh quản nỗi ngậm ngùi của Du Tử Lê khi em ở đó, bờ sông còn ấm cát, con sóng tình vỗ mãi một âm quên...
Giọng hát của Xuân Sơn vẫn được những người trong nghề xếp vào loại giọng đồng. Giọng đồng ấm áp, giọng kim sắc và mỏng. Tôi không phải là một người của âm nhạc, cho nên tôi vẫn nghe thấy có nhiều kim loại khác lạ hơn chất đồng trong giọng hát Xuân Sơn. Có những âm thanh ấm áp và dầy. Nhưng sao nhiều lúc tiếng hát của Xuân Sơn như dao cắt cả thịt da, gan ruột, có lúc nhọn hoắt đâm thấu suốt vào tim. Tiếng đàn lục huyền cầm của Trung Nghĩa thích hợp lắm cho tiếng hát Xuân Sơn, cũng chính vì những nét sắc của giây tơ có tính chất của đàn lục huyền cầm, Trung Nghĩa sử dụng tới mức được đời tặng cho danh hiệu mười ngón tay vàng.
Tại sao nhiều người hát Trên Ngọn Tình Sầu mà chỉ có Xuân Sơn làm cho tôi rung động? Vì bản hòa âm với nhạc cụ chính yếu lục huyền cầm của Trung Nghĩa? Vì Xuân Sơn đã đến với Tình Sầu trong một giờ hứng khởi? Vì trong thớ cổ của Xuân Sơn cũng có bầy chim sẻ đã lặng lẽ bỏ đi, cũng có con dế mèn tự tử trong một đêm sương nào đó? Phải chăng nhạc của Từ Công Phụng vốn dĩ kén người hát, kén người hòa âm? Phổ thơ Du Tử Lê, nhạc Từ Công Phụng cũng kén cả người thưởng ngoạn? Xúc động vì một thương tóc để đuôi gà, hai thương em ăn nói mặn mà mà lại có duyên... là một xúc động đến ngay. Mười Thương là ca dao, nhạc Phạm Đình Chương, đi ngay vào tâm hồn người ta. Tâm hồn nào cũng mở lớn để tiếp đón tóc đuôi gà, má lúm đồng tiền. Thật ra, cánh cửa tâm hồn không cần phải mở ra. Mười Thương từ ngoài đi vào không cần cửa mở vì nó đã ở sẵn bên trong. Thoáng thấy tóc đuôi gà, người ta đã thấy tiếng nói mặn mà, tiếng nói vừa cất lên, mới nghe thấy, chưa kịp nhìn đã thấy má lúm đồng tiền, thấy em dịu hiền như sao hiền mùa thu. Nhưng con dế tự tử trong đêm sương, bầy sẻ cũ qua đời lặng lẽ, người thiếu nữ bỏ đi, vừa bỏ đi, bờ sống còn ấm cát, con sóng tội nghiệp vỗ về một âm thanh bị bỏ quên. Thi sĩ đã tới bờ sông nơi Nhỏ, (tiếng của Du Tử Lê,) đã bỏ đi, sờ tay lên mặt cát biết nàng vừa bỏ đi, cùng với sóng vỗ về âm thanh bị ruồng bỏ, âm thanh gì đó, lời hứa hẹn ngàn đời, tiếng yêu anh hay lời khởi đầu tình tự?
Bài thơ của Du Tử Lê, Từ Công Phụng phổ nhạc là một bài thơ tám chữ. Từ Công Phụng cũng phổ những bài thơ năm chữ của Du Tử Lê. Nhưng tôi thì tôi thích nhất bài thơ tám chữ này. Phạm Đình Chương phổ nhạc thơ bảy chữ và lục bát tuyệt vời. Mộng Dưới Hoa của Đinh Hùng, bảy chữ; Mười Thương, ca dao lục bát. Ngô Thụy Miên phổ nhạc thơ tám chữ và bảy chữ Aùo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Tháng Giêng và Anh, Tình Khúc Tháng Sáu, tám chữ; Paris Có Gì Lạ Không Em, bẩy chữ. Không thấy lục bát. Phạm Duy phổ thơ đủ thể loại, sao bắc đầu trên bầu trời thơ phổ nhạc của Phạm Duy là lục bát. Lục bát Huy Cận, lòng anh mở với quạt này, trăm con chim mộng về bay đầu giường; lục bát Phạm Thiên Thư, áo hồng đào rơi, mùa thu em mặc áo da trời... Và năm chữ, năm chữ Ngày Xưa Hoàng Thị; năm chữ Tiễn Em, lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế...
Tôi không biết Từ Công Phụng phổ bài tám chữ này của Du Tử Lê vào thời điểm nào. Nhưng tôi nghĩ là lâu rồi, ít nhất cũng thời kỳ Tan Theo Ngày Nắng Vội. Tôi cũng không biết Du Tử Lê làm Trên Ngọn Tình Sầu vào thời điểm nào. Tôi biết Du Tử Lê làm thơ thật hay lúc ở Việt Nam. Tôi thấy Du Tử Lê làm được thơ những năm đầu ở Mỹ, tôi thấy thơ Du Tử Lê hay hơn trước. Bây giờ tôi nghĩ rằng Du Tử Lê đã đi xa hơn những người làm thơ cùng thời với anh một khoảng cách trông như gang tấc, mà trong thơ xa vạn dậm. Du Tử Lê càng lúc càng sáng tác thi ca thật khỏe, anh in ra số lớn. Những quý kim loại trung như bạc, như vàng, hiện ra như những bày biện làm sáng chói những viên kim cương quý giá không thể không nhìn thấy bởi những người sành điệu. Thời kỳ ở Việt Nam, thơ Du Tử Lê nhiều năm chữ. Du Tử Lê làm thơ năm chữ thật tới; một phần lục bát, thời kỳ Huy Cận. Mười lăm năm ở xa quê hương này, Lê sáng lên với cả năm chữ, tám chữ, bảy chữ. Lục bát của Lê đã bước sang thời kỳ sau Huy Cận, tôi muốn gọi là vượt Huy Cận. Du Tử Lê làm thơ đủ thể loại, không mệt mỏi, nhắm tới những kỹ thuật kỳ khu để vượt lên, giữ theo tốc độ cao của những tay sáng tạo có cả đường trường lẫn nước rút. Trên ngọn tình sầu chắc không phải thời kỳ Lê Uyên, càng không thuộc về thời gian sau này. Xuân Sơn ca Trên Ngọn Tình Sầu vào năm 1984. Tám tư thì chưa có Lê Uyên. Đó còn là thời kỳ Thục Ngạn, thời kỳ Thụy Châu. Thời kỳ Thục Ngạn và thời kỳ Thụy Châu của thơ Du Tử Lê và của đời Du Tử Lê thật khó phân định. Một thời gian tôi nhìn thấy Thụy Châu. Một thời gian khác tôi nhìn thấy Thục Ngạn. Rồi Thục Ngạn đang đứng đó bỗng biến mất. Thụy Châu không thấy đâu bỗng nhiên lại hiện ra, tươi vui, đoàn tụ, Tay Trái, Tay Phải...
Tôi muốn giữ lấy mãi mãi trong trí nhớ tên và khuôn mặt của những người trẻ tuổi đã một lần ngồi trước mặt tôi ở Chu Văn An, ở Đông Tây, Văn Lang, Văn Học, Hưng Đạo, Nguyễn Bá Tòng, Nguyễn Thượng Hiền, Lê Bảo Tịnh... Tôi không đủ khả năng làm việc này. Rất may, có những người trẻ thuộc loại dễ nhớ, tức là khó quên. Tại sao? Tôi không biết. Điều tôi biết là Hoàng Thụy Châu đi tới và ở lại trong trí nhớ của tôi cho tới hôm nay. Hoàng Thụy Châu trong thơ Du Tử Lê, với độc giả báo chí Việt Nam nơi hải ngoại là Hoàng Dược Thảo. Hoàng Thụy Châu là dược sĩ, theo học dược tại Đại học Dược Khoa Saigòn thời ông Trương Văn Chôm làm Khoa trưởng, lấy bút hiệu Dược Thảo phải chăng vì kỷ niệm xa xưa? Tên của Thụy Châu và Dược Thảo mà tôi biết đầu tiên là tên khai sinh. Tên của Hoàng Thụy Châu là Huỳnh Lô Brigitte. Thời kỳ 63, 64 số học sinh theo học tú tài toàn phần tương đối còn thưa vắng so với những năm sau, vì hàng rào cản tú tài một vẫn còn tồn tại. Huỳnh Lô Brigitte theo học tại trường Văn Học đường Phan Thanh Giản. Số học sinh theo học tú tài không đông. Số nữ sinh còn ít hơn. Cái tên có cả âm Pháp, có cả âm Việt làm thành một tổng hợp độc đáo. Huỳnh Laure Brigitte không thể không làm tôi chú ý. Tôi có hỏi chuyện Huỳnh Laure Brigitte một hai lần ngoài giờ học. Cuối năm đó, Huỳnh Laure Brigitte thi đậu tú tài 2, tên được kẻ trên tấm bảng treo trước cửa trường. Những sự việc này đã làm cho cái tên Huỳnh Laure Brigitte trở thành khó quên với tôi. Tên Huỳnh Laure Brigitte trở thành không thể quên được khi tôi gặp lại Brigitte, khi Brigitte đã thành hôn với nhà thơ Du Tử Lê. Có lần tôi gặp Brigitte một mình, không nhớ về chuyện gì, có lần gặp Brigitte đi với Du Tử Lê. Hơn một lần Brigitte trách tôi: tại thầy làm con khổ. Tôi hỏi tại sao? Huỳnh Lô Brigitte than lấy chồng thi sĩ mệt quá thầy ơi. Tôi không bình luận. Lần khác, Huỳnh Lô Brigitte cho tôi biết rõ hơn, đại khái hình ảnh ông thầy chân phương kiêm thi sĩ thơ tình Aùo Lụa Hà Đông đã tạo ra trong trí tuệ thơ ngây của cô nữ sinh Huỳnh Laure Brigitte hình ảnh thi sĩ được lý tưởng hóa, được tô hồng. Và ảnh hưởng nơi học đường, thời thơ ấu đã là mồi thắp lên ngọn lửa tình cảm, có chứa đầy chất nổ, khi Huỳnh Laure Brigitte gặp Du Tử Lê.
Tôi không biết những lời trách móc lỗi tại thầy của Brigitte là thật hay đùa, nhưng khi gặp lại Du Tử Lê ở trại tỵ nạn Pendleton năm 1975, tôi biết nếu Huỳnh Laure Brigitte có trách tôi thật sự, tôi cũng không lấy làm phiền. Không có tòa án nào xử ta về những tội mà mình không làm. Nhưng tôi thực sự không biết liệu mình có hoàn toàn không trách nhiệm về những việc mà mình không làm không? Nguyễn Thừa Dzu, Thành Cao, Trần Tam Tiệp sáng tinh sương đã đứng chờ những chuyến xe bus của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ xuống những người mới tới, được di chuyển từ Guam, từ Phi Luật Tân đến Pendleton. Ngày nào tôi cũng ra đứng đấy với các anh em. Sáng tinh khôi đã đứng đó. Đêm khuya những ngọn đèn vàng đã mờ đi trong lớp sương mù của đồi núi Pendleton chúng tôi còn đứng ở đó.
Một hôm Du Tử Lê dắt tới một thiếu nữ giới thiệu là vợ của Du Tử Lê. Người vợ của Du Tử Lê tên là Thục Ngạn. Tôi không muốn hỏi ai, càng không muốn hỏi Lê sao tôi thấy người vợ của Lê hôm nay không có vẻ giống người tôi gặp cách đây mấy năm khi còn ở quê nhà. Ngày tôi dời trại Pendleton đi Pháp định cư, tôi mang theo hình ảnh Du Tử Lê dắt Thục Ngạn đi trên những con đường bụi đỏ của trại Thủy Quân Lục Chiến Pendleton. Thục Ngạn đã có bầu.
Tôi sang Pháp sinh sống hai năm, khi trở lại California, tôi ghé thăm Du Tử Lê. Lê vừa đi làm về, trên ngực áo còn mang thẻ của sở. Tôi vào nhà, Du Tử Lê vui tươi gọi: Có anh Nguyên Sa ghé thăm em ơi... Tiếng dạ và tiếng chân bước xuống thang. Tôi đinh ninh người đang đi xuống là Thục Ngạn. Không phải. Thụy Châu đã tiến đến trước mặt tôi. Từ đó cho tới nay tôi thường gặp lại Thụy Châu, chỉ thấy Thục Ngạn một lần với hai cháu nhỏ ở Văn phòng Cộng Đồng Việt Nam.
Mỗi lần nghe Trên Ngọn Tình Sầu tôi liên tưởng đến một Du Tử Lê khác biệt của Du Tử Lê đồng nhất và biến dạng. Lần gần đây, cách chừng hai tuần, tôi thấy Du Tử Lê ở quán Lup. Con chim sẻ nhẩy nhót vui tươi đứng gần cửa đón bạn bè thân hữu, con dế mèn trên sân khấu giới thiệu chương trình. Nhà thơ ngồi ở bàn Mai Thải rồi sang bàn Cò Dzu, dừng lại những người sáng tạo trẻ, những Trần Duy Đức, Trầm Phục Khắc, dục người hầu bàn mang la de cho Kiêm Thêm. Thứ Bảy nào cũng có họp mặt. Họp mặt đón Trần Văn Trạch từ Pháp qua. Họp mặt ngâm thơ Tô Thùy Yên, trên sân khấu có Cao Đông Khánh, đọc mà như ngâm vụng về đầy hào sảng, Lê Uyên ca Chiều Trên Phá Tam Giang, Trần Thiện Thanh phổ nhạc. Tôi rất thích Chiều Trên Phá Tam Giang, Kiều Nga song ca với Vũ Khanh, nhưng tôi thích nhất bài thơ phổ nhạc này của Tô Thùy Yên do Lê Uyên trình bày. Quỳnh Như nhiều lần đến Lup ngâm thơ. Có cả Hùng Cường, Vũ Khanh, Tuấn Vũ làm quen với ánh đèn sân khấu nơi đây. Một tối, Hải Lý, lúc đó đã là một ngôi sao, đến ca bài Tiễn Biệt, thơ Nguyên Sa, Trọng Nghĩa phổ nhạc. Suốt thời gian dài, có lẽ tới ba năm, chắc chắn trên hai năm, Lup đóng vai trò của một phong trà cộng với vai trò của một Club Litteraire, vai trò sân chơi của bày chim sẻ, bãi cỏ của những con dế mèn thích phiêu lưu. Lup mang đậm mầu sắc Du Tử Lê.
Mỗi khi tiếng hát của Xuân Sơn mang đến cho tôi những ngày tháng Lup, tôi đều có cảm xúc hân hoan, thời kỳ Lup trong kỷ niệm hiện ra rõ ràng là một thời hạnh phúc. Trước khi Du Tử Lê chọn sân chơi Lup, tôi không thấy có nơi chốn họp mặt văn nghệ nào văn nghệ như thế, ngoại trừ Doanh Doanh của Thái Tú Hạp trên Los Angeles. Sau khi Du Tử Lê bỏ Lup, tôi thấy bức màn hạ xuống một thời kỳ tuyệt với, thời kỳ hạnh phúc trôi đi, bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ. Lup có phải là thời hạnh phúc của Du Tử Lê không? Lup đã mang lại hạnh phúc, dù ngắn, dù lá vàng gió thổi bay, người phu quét đường vun lại thành từng đống, dù vậy trước sau, vẫn là những tờ lá mến yêu. Nhưng với Du Tử Lê, Lup có phải là một thời kỳ hạnh phúc không? Một lần, có thể vội vàng, chắc chắn thành thực, tôi nói đến Lup, đến Du Tử Lê và mối tình của Lê trong thời điểm đó, như một cuộc mạo hiểm, một chuyến đi băng qua sa mạc.
Chuyến đi của Phạm Lãi và Tây Thi, quay lưng lại xã hội, quay lưng lại phong tục tập quán. Tôi vẫn có xu hướng đó. Xu hướng dễ bị lôi cuốn bởi những trạng huống của những bi kịch Hy Lạp, có Remeo và Juliet tình yêu vũ bão. Tình yêu bất chấp. Tình yêu vượt qua sa mạc. Tình yêu tận cùng bằng cái chết. Cuộc tình giữa Du Tử Lê và Lê Uyên đã trôi qua, không có kết luận bi kịch nào cả, chỉ có, ở đó cũng vậy, gió thổi, rừng đã thổi sương khuya..., rồi em bỏ tôi đi, rồi em bỏ tôi đi...; con dế mèn tự tử giữa đêm khuya, bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ, em ở đó bờ sông còn ấm cát, con sóng tình vỗ mãi một âm quên...
Du Tử Lê tôi gặp nhiều nhất trong những cơn mê sảng Trên Ngọn Tình Sầu là Du Tử Lê của những ngày tháng ở Việt Nam. Du Tử Lê, Lê Cự Phách, người thầy giáo việt văn hiền hòa đi chuyển trên chiếc xe vespa chân phương. Du Tử Lê nhà thơ mới bước vào chốn gió tanh mưa máu lãnh những quả nặng, không lý do. Du Tử Lê đã lập gia đình với Thụy Châu, chạy đôn dáo làm nghề xuất bản.
Bây giờ thì tôi biết chất men nào trong bài thơ phổ nhạc đưa tôi tới những cơn say kỳ lạ đó. Nhạc trỗi lên, đoạn intro vừa dứt, giọng hát của Xuân Sơn vừa khởi đi với Hạnh phúc tôi, hạnh phúc tôi... là trí tưởng tượng cất cánh bay. Thật ra, đó không phải là trí tưởng tượng chính thống, tưởng tượng sáng tạo. Đó là loại tưởng tượng liên tưởng bay lượn trên vùng đất của ký ức. Cũng phải nói rõ tưởng tượng liên tưởng này là một tưởng tượng rời. Thưởng ngoạn âm nhạc đó cũng là một thưởng ngoạn rời. Như hai nhánh nhập vào nhau làm thành một dòng lớn. Tưởng tượng đưa tới đêm Võ Phiến ở Lup. Giọng ca mang lại bầy chim sẻ, nhưng cánh chim mang tôi đi thả vào vào nụ cười trong mắt của Thụy Châu. Bây giờ tôi biết thơ phổ nhạc khác hơn. Nó càng không phải là nhạc. Nó là một thực thể độc lập. Thơ có để dành chỗ cho trí tuệ, nhất là những người biết rõ nghề lựa chữ. Trí tuệ mang lại sự sửa soạn chính xác, biết lục bát này tới, biết tám chữ kia đã vượt qua thời kỳ tình thứ nhất. Nhưng thơ phổ nhạc không có chỗ nào cho trí tuệ ý thức. Nó làm cho người thưởng ngoạn bị bốc đi, mang trên đôi cánh liên tưởng bay qua những biển cả, những núi non, những bình nguyên mỗi lần mỗi khác. Cơn say mang lại bởi thơ phổ nhạc giống như say khi ngâm thơ. Gọi đọc thơ trong lặng im, thưởng ngoạn đầy trí tuệ là ý thức, thì ngâm thơ và nghe ngâm thơ đã là con đường đưa vào tiềm thức. Thơ phổ nhạc Trên Ngọn Tình Sầu trong đó, giống như thơ ngâm. Nghe thơ phổ nhạc giống như nghe ngâm thơ. Làm say, làm mơ hồ, làm trôi xuôi theo dòng liên tưởng, làm nhập đồng, làm mê sảng trong một cường độ mạnh, trên một kích thước to rộng hơn nhiều.
NGUYÊN SA
(Trích Âm Nhạc Và Tôi,)
Tạp chí Thế Kỷ 21, số 29, Tháng Chín, 1991.
khánh trường
nghĩ rời, khởi từ ở chỗ nhân gian không thể hiểu
“Riêng với cá nhân tôi thì xuyên qua tất cả mọi chuyện, bao giờ, lúc nào tôi cũng vẫn thấy ở Du Tử Lê một trái tim, một tài hoa hiếm quý. Trái tim để rung động, và tài hoa để biến rung động thành thơ.”
KT
Hạ Lào, 1970,
Kéo tấm chăn bằng nỉ mỏng phủ kín ngực. Vẫn lạnh. Hơi lạnh từ đất bốc lên, thẩm thấu qua lớp nylon của chiếc võng cá nhân, nhức tê cột sống; hơi lạnh từ núi rừng trùng điệp bên ngoài lùa qua lỗ châu mai, buốt cóng da mặt. Một trái hỏa châu từ Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn phóng lên, nổ bung, ánh sáng chập chờn tỏa rộng, phủ chụp lên cánh rừng âm u bọc quanh chân đồi, ngọn đồi thoai thoải đã được khai quang trống lốc. Từ lưng chừng đồi bên ngoài giao thông hào, là lớp kẽm gia chằng chịt, ngang dọc, đan thành mắt lưới thấp lè tè sát mặt dất. Trái hỏa châu thấp dần, thấp dần..., rồi tắt ngấm trong trùng điệp của rừng. Cảnh vật lại chìm vội vào màu đêm. Trăng hạ tuần mù trong sương, ánh sáng yếu ớt không soi nổi vào căn hầm thăm thẳm đặc quánh mực xạ. Góc hầm, người lính truyền tin chốc chốc trở mình sột soạt. Đêm hun hút. Tiếng côn trùng rỉ rả, tiếng cú rúc, tiếng đại bác cầm canh dội âm trong không gian. Người Trung sĩ đốc canh đi ngang qua bên ngoài, báng súng đập vào giây nịt đạn kêu lách cách. Tôi đưa tay xem đồng hồ, cây kim ngắn dạ quang sáng lóa sắp vượt qua con số hai. Lại một ca gác mới.
Vẫn không thể ngủ.
Buổi chiều, khi trở lại căn cứ sau một ngày sục sạo chung quanh khu vực đóng quân. Rã rời. Tưởng sẽ nằm xuống là có thể ngủ được ngay. Nhưng lá thư của Th. từ hậu cứ chuyển lên theo chuyến tiếp tế lương thực ban sáng, do người Thượng sĩ Thường vụ trao lại, đã đẩy tôi vào tình trạng thức tỉnh hoang mang. Th. trốn gia đình vào Nam tìm tôi. Mười tám tuổi, tình yêu đầu, đam mê và liều lĩnh! Nàng đang ra sao? Đất lạ, quê người, tuổi đời non yếu, bất trắc nào sẽ đến với nàng? Mảnh giấy nhỏ của người bạn: Cô ấy đang ở nhà tôi. Bình yên mọi mặt. Bạn yên tâm. Làm sao có thể yên tâm khi tôi đang ở đây, cách Saigòn trên một nghìn cây số, giữa rừng núi điệp trùng. Cuộc hành quân chỉ mới ở giai đoạn đầu. Nếu mọi chuyện êm ả, cũng phải ít nhất ba tháng nữa chúng tôi mới trở lại hậu cứ. Ba tháng, chín mươi ngày... đâu phải một giờ, một khắc! Tôi thật không ngờ! Người con gái nhút nhát, chỉ một cái nắm tay đã run. Người con gái yêu văn chương, thuộc thơ hơn thuộc bài... Người con gái, trong bất cứ lá thư nào cho tôi cũng chép nguyên một bài thơ, hay ít nhất cũng một vài câu, vài đoạn của một thi sĩ nào đó. Lá thư chiều nay, là hai câu thơ của Du Tử Lê:
tình muôn thuở nên suốt đời vẫn mới
môi đam mê nên vẫn nụ hôn đầu.
Người con gái tưởng chừng như lau sậy, có thể ngã rập bất cứ lúc nào, dưới một con gió lớn, đã vượt ra khỏi vòng lễ giáo của gia đình, phó thác bản thân cho rủi may, để ru mình vào một tình yêu đầy bất trắc...
Làm sao tôi có thể yên tâm?
Gần hai mươi năm trôi qua. Người con gái đó, bây giờ, đã có với tôi ba đứa con, đã là người đàn bà nhận chịu bao nhiêu cơ cực thăng trầm, nhưng luôn luôn, và mãi mãi, vẫn là người vợ thủy chung, vẫn là tình muôn thuở nên suốt đời vẫn mới / môi đam mê nên vẫn nụ hôn đầu.
Hai câu thơ của thi sĩ Du Tử Lê, biết đâu đã góp thêm chút lửa cho ngọn đuốc tình kia còn rực rỡ cháy?
Nhưng Du Tử Lê, ông ấy là ai? Nghe nói đang làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến. Nghe nói là một tay rong chơi mê đắm trong tình trường. Nghe nói đã có nhiều người nữ đi qua đời ông. Những người nữ yêu chữ nghĩa. Những người nữ yêu thi ca. Những người nữ xem mộng mơ là lẽ sống còn. Tập thơ thứ nhất Đời Mãi Ở Phương Đông, dường như đã nằm trong ba lô tôi trong suốt một thời gian dài. Tôi mê thơ, bên cạnh những ngông nghênh ngạo ngược của Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, những băn khoan về thân phận, về đất nước, về tuổi trẻ... trong chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, Cao Thọai Châu, Phù Hư, Lâm Chương, Lâm Hảo Dũng, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Quốc Thái, Dương Phù Sao..., bao giờ thơ tình của Du Tử Lê cũng chiếm cứ một vị trí quan trọng trong trái tim tôi. Có thể nói không ngoa, những bài thơ đó, một phần nào, đã vun bồi cho tình yêu tôi, đã mở ra cho tôi những cửa khác. Những cánh cửa dẫn về miền vĩnh củu ngan ngát hương hoa. Bao nhiêu đêm, từ vùng hành quân trở về, trên cánh tay tôi là mái tóc dài óng mượt của Th., là hai vành tai mở rộng đón nghe, tôi đã đọc, đã ngâm những bài thơ mới nhất vừa được khai sinh từ Sứ Giả của Tình Yêu này. Nàng nghe, say sưa. Nàng nghe, như uống từng chữ, từng dòng. Nàng nghe, và với nụ cười phảng phất trên môi, bình yên trôi vào giấc ngủ.
Tôi thầm mong một ngày nào, cơ duyên đưa đẩy sẽ được gặp tác giả.
Nhìn xuống bãi cát vàng co dãn bởi những con sóng trắng xóa ngoài đại dương cuốn vào, rút ra từ mỏm núi, vào những buổi chiều, là thói quen gần như đã thành nếp trong suốt gần ba tháng tạm cư ở đảo. Và gần như không sót chiều nào, qua chiếc loa phóng thanh đặt tại văn phòng trại, những bài hát từ lâu không còn được nghe, những bài hát của một thời, đã được phát ra bềnh bồng giữa không gian lồng lộng, khuất chìm vào tiếng sóng âm âm. Trong số đó, một nhạc phẩm của Từ Công Phụng phổ thơ Du Tử Lê đã bao lần làm chúng tôi quặn xót ruột gan. Từng dòng nhạc, từng lời thơ chảy trong huyết quản tôi, gợi nhớ xót xa người con gái thuộc thơ hơn thuộc bài, người đàn bà đầu gối tay ấp bao nhiêu năm:
Hạnh phúc tôi...Hạnh phúc tôi...
Hạnh phúc đó bây giờ đã xa, tít tắp trong mù, ở phía bên kia mạt biển thẫm xanh, ở lại với bao nhiêu lo toan cho người chồng ra đi không biết sống chết thế nào. Ở lại với những đứa con đã bắt đầu khôn lớn mà sinh kế thì vật vã lao đao. Ở lại với chờ đợi mòn mỏi. Ở lại như bày sẻ cũ hom hem giữa bão giông cuộc đời.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Đó không là thơ?
Đó là tiếng gào tuyệt vọng của kỷ niệm! Tiếng gào dựng lên, dựng lại cổng trường Phan Chu Trinh. Những hàng phượng thưa lá không đủ bóng mát. Những trái phượng dài ngoằng như kiếm. Đại lộ Thống Nhất với hai hàng kiền kiền cao vút, dập dìu áo trắng sau giờ tan học. Trong rừng áo trắng đó, có Th.: con chim trắng nhỏ mang đôi cánh xanh mùa đông, như thơ của Nguyễn Nho Sa Mạc, tặng nàng. Có tôi, từ Bao Vinh, vùng hành quân của đơn vị, hai tay trái M.26, lội qua sông, tìm ra quốc lộ, đón xe vượt đèo Hải Vân, trốn chui trốn nhủi bao nhiêu trạm Quân Cảnh để chỉ vào được Đà Nẵng, đứng trước cổng trường phì phèo thuốc lá nhìn Th. thướt tha với cặp sách ôm trước ngực, ríu rít cùng bạn bè... Chỉ như thế rồi lại vội vã lên xẻ đò trở về đơn vị, nghênh ngang trình diện Tiểu đoàn trưởng: bỏ nhiệm sở trong lúc hành quân. Trọng tội. Hai mươi ngày trọng cấm. Ký ngay. Không thắc mắc khiếu nại. Đáng tội là cái chắc. Binh nghiệp coi mòi không khá! Cũng chẳng sao. Tôi đâu có ý định tiến thân bằng đường kiếm cung. Vả lại, cái giá phải trả cho một vài phút đắm say, như thế, đâu phải là đắt? Ông Du Tử Lê mang cả cuộc đời mấy mươi năm thành bại để trả, còn được kia mà.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Căn phòng nhỏ thấp hơn mặt lộ dễ có gần nửa thước, tiền thân là một...chuồng heo, chủ nhà sửa lại thành phòng để cho thuê. Căn phòng chỉ vừa đủ để kê một chiếc giường, một kệ gỗ làm chỗ nấu nướng, một giá sách máng trên tường, một giá vẽ dựng trong góc, nơi nhiều ánh sáng nhất, thứ ánh sáng bần tiện hắt dội vào phòng từ đường hành lanh tối tăm chạy dọc bên hông nhà chủ, qua khung cửa sổ chấn song lỏng lẻo, chỉ được đóng lại hoặc mở ra bằng một tấm nylon giăng ngang phía trên. Tấm nylon dãi dầu bao nhiêu năm tháng, màu xanh dã ngả thành màu xám bẩn, rách nát, te tua. Căn phòng vào mùa đông, nước mưa từ cống thoát nước ngoài con hẻm chạy không kịp, tràn vào, như thác, ngập mấp mé đầu gối. Muốn ra ngoài, phải nhún nhẩy trên một tấm ván dài bắc từ thành giường tới bậu cửa! Mưa dứt, là lập tức hì hục dùng thau, dùng nồi cong lưng tát... Căn phòng đó, căn phòng ba năm đầu tiên của vợ chồng, ở xóm Đạo Tân Việt, khốn khó là thế, nhưng vẫn chưa bao giờ thiếu vắng tiếng cười, vẫn ăm ắp hạnh phúc tôi.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Chiếc xe lăn cọc cạch, gò bụng Th. căng cao, bốn vách tường nhà hộ sinh lạnh lẽo, tiếng quạt trần quay nhanh trên đầu...Tiếng khóc sơ sinh... Con trai đầu lòng. Lần bị thương sau cùng, từ giã vũ khí!
Những ngày dài lang thang trong thành phố... Bắt đầu những ngày khốn đốn áo cơm, bắt đầu những ngày những bữa ăn rau mắm... Và lại tiếng khóc sơ sinh, rồi lại tiếng khóc sơ sinh... Mái tóc xanh óng mượt ngày nào bắt đầu còi cọc, đôi má hóp, hố mắt trũng sâu, hai bàn tay xương đã cụt ngủn những móng dài, lược gương son phấn xếp xó từ lâu. Con chim trắng nhỏ mang đôi cánh mùa đông đã trở thành con gà mái rũ rượi ướt mưa... Không phải sức tàn phá thô bạo của thời gian, mà chỉ là tấm lòng của một người mẹ với con, một người vợ với chồng. Tấm lòng đó, giữa lao đao cơm áo, còn cần gì má phấn môi son? Nhưng đêm đêm, trên cánh tay tôi vẫn là đôi vành tai mở rộng, lắng nghe và ngày ngày, trên khung bố góc phòng vẫn bàng bạc với thơ, là những tảng màu tươi rói.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Khung cửa sổ nhìn ra bờ tường vàng bẩn nham nhở. Những nụ hoa mười giờ. Mái ngói nâu thẫm phía xa. Tàng cây trứng ca xanh mướt lấm tấm trái đỏ... Anh nhớ viết thư ngay cho mẹ con em khi đến được... Th. không dám dùng chữ nếu. Lẽ ra phải, nếu đến được mới hợp lý chứ. Nàng sợ. Nàng muốn khẳng định một điều: sẽ không thể có thất bại. Canh bạc tử sinh. Ván bài cuối. Trò chơi đen đỏ mà láng tẩy là sinh mệnh của chồng, an nguy của vợ con. Một canh bạc không được phép thua, không thể nào thua. Sau tháng 4-75, bao nhiêu canh bạc như thế đã bày ra, cho bao nhiêu gia đình. à bao nhiêu người đã thắng (thực sự thắng không?) Và bao nhiêu người đã thua? Cho dến ngày hôm nay, bước đi tàn nhẫn của l;ịch sử vẫn tiếp tục không ngừng! Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn xót xa tự hỏi, có thực sự cần thiết để chọn cho mình, cho vợ con một định mệnh đòi đoạn, chia tan như thế? Nửa vòng địa cầu, một đại dương dầy phản trắc, làm sao ngờ được giữa khoảng không gian và thời gian thăm thẳm đó, cái gì đã xẩy ra và sẽ xẩy ra ngày mai, ngày mốt, tuần sau, tháng tới? Tôi biết, sẽ chẳng còn cơ hội nào sống lái cái hạnh phúc tôi đã thực sự vùi sâu dưới lớp lớp địa tầng dĩ vãng. Tôi cũng biết thêm, sẽ đầy dẫy bất trắc tai ương cái hạnh phúc tôi bây giờ và mai sau. Kinh nghiệm này, tôi nghĩ, không ai bằng Du Tử Lê, cảm thụ tron vẹn hơn. Sự phân ly của tôi, của chúng ta, một phần nào, bắt nguồn từ hoàn cảnh bên ngoài. Sự phân ly của Du Tử Lê do bản chất nhậy cảm và tài hoa, đã khởi di từ bên trong. Có thể nói, mỗi mối tình là một cuộc phân ly. Mỗi rung động mới là một khởi đầu chi tan tác cũ:
bạn bảo van tim tôi bị hở
có lẽ. Nên dời mới lún sâu.
Đó là con đường, làsố phận của thisĩ, của những bậc tài hoa. Còn tôi? Cớ sao không thoát được cuộc phân ly này?
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Du Tử Lê, ông ấy là ai? Sao định mệnh tôi cứ mãi gắn liền với những dòng thơ của ông ta? Nghe nói bây giờ đang ở tại Mỹ, ông mở quán cà phê. Nghe nói ông đang làm báo, và dĩ nhiên tiep tục làm thơ. Nghe nói đời sống ông đã có những đổi thay buồn thảm...
Tôi vẫn thầm mong một ngày nào, nếu có cơ duyên, sẽ được gặp ông.
Quận Cam, 1987,
Những ngày đâu tiên sống trên đất Mỹ, bơ vơ, lạc lõng, chưa biết phải an ở sinh sống như thế nào! Tháng tháng ngửa tay nhận những đồng tiền trợ cấp! Tủi nhục và buồn...Một người bạn làm báo tình cờ nhắc đến Du Tử Lê, tình cờ nói ông ấy cần người. lay out Lay out là công việc gì? Tôi hỏi. Người bạn giải thích sơ qua rồi kết luận: chỉ cần một chút khéo tay là OK. Để tôi giới thiệu... Tôi rất mừng. Thứ nhất, tránh được những ngày dài ăn không ngồi rồi, chờ cuối tháng lãnh tiền bố thí. Thứ hai công việc báo chí rất hợp với sở thích. Thứ ba điều mong ước từ nhiều năm qua đã có cơ duyên thành tựu. Như thế, qua người bạn, tôi đã gặp Du Tử Lê. Đã làm việc chung. Đã những sáng thức muộn. Đã cùng nhau bù khú, cà phê, thuốc lá dông dài đến xế chiều mới bắt tay vào việc. Đã những đêm thức trắng với giây bài lòng thòng còn ướt thuốc mà Du Tử Lê vừa chạy ra từ dàn computer. Đã những tháng mùa đông lạnh cóng, chiếc máy sưởi cá nhân không đủ hơi ấm cho căn phòng tiền thân là một garage, hoàn toàn thiếu mọi tiêu chuẩn bảo hộ. Đã khói thuốc mù mịt liên tu. Đã hamburger thay cơm nhiều bữa. Đã vất vả tăng trang khi có “mặt trận” mới. Đã mệt nhoài sụt trang khi thân chủ quảng cáo “nghỉ chơi.” Đã thấy làm báo ở hải ngoại, nếu không có một tấm lòng yêu mến tột cùng, người ta không thể nào đủ kiên nhẫn “ăn cơm nhà vác ngà voi” một cách bền bỉ bất tận như vậy được!
Sống gần Du Tử Lê, tôi có dịp hiểu thêm nhiều mặt khác của người thơ này. Nhậy cảm và chí tình với bạn bè. Đó là lý do khiến Du Tử Lê thường xuyên gây nên những trận bút chiến đã biến ông thành một người... đáng sợ! Sự thật tâm hồn ông như một sợi tơ mỏng, chỉ cần chạm nhẹ là đã rung. Dĩ nhiên, trong vô số những lần rung đó, có nhiều lần đúng, nhưng cũng không ít lần sai. Dù sai, dù đúng với Du Tử Lê, xong rồi là quên, là hết... Ngày mai, tuần sau, tháng sau, gặp nhau, lại cười...trừ. Lại bù khú cà phê thuốc lá. Và nếu cần lại đi chùa một cái quảng cáo. Rất trang trọng, rất đàng hoàng, rất tình nghĩa... Một điều nữa, tôicho là quan trọng nhất ở Du Tử Lê, đó là tấm lòng của ông với văn chương và chữ nghĩa. Chưa bao giờ tôi nghe Du Tử Lê chê bai, phê phán một đồng nghiệp nào, dù đó là những người đi trước, cùng thời, đi sau. Khám phá ra một tài năng mới, ông mừng như chính mình đã thành công. Một thi sĩ ngày nay đã thành danh, có kể cho tôi nghe về trường hợp của bản thân anh: Ngày còn ở đảo, anh có gửi cho Du Tử Lê một số thơ. Những bài thơ đó được đăng rất trang trọng, kèm theo báo biếu và thư riêng khích lệ hết lòng.
Đó là một trong những động cơ lớn giúp anh thêm tự tin khi chọn thi ca như một nghiệp dĩ. Tấm lòng đó, không chỉ với vị thi sĩ kia, mà còn với rất nhiều người khác.
Hết lòng với bạn bè, thủy chung với văn chương..., nhưng còn tình yêu, chất xúc tác, lực đẩy, cái sườn của thơ ông thì sao? Theo chủ quan tôi, tình yêu, với thơ, ở Du Tử Lê, là một. Đó là hai mặt hỗ tương tạo thành nhân cách thơ Du Tử Lê:
ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi là cánh cửa mở trăm năm
chờ em tìm tới: -cài then lại
chỉ rõ: - này đây, nhé chỗ nằm.
Tôi là cánh cửa mở trăm năm. Mở hoài. Mở cho tình yêu đầu, mở cho tình yêu cuối, cuối? Chắc chắn, với Du Tử Lê, không bao giờ có trong tình yêu, và không bao giờ không có tình yêu, nên hạnh phúc thường đến vội vàng, để rồi ra đi cũng vội vàng không kém. Hạnh phúc ra đi, thi sĩ chết lặng:
tay tôi lạnh muôn đời không ấm nữa
môi cũng khô vì mãi gọi tên người
dòng sông cũ đã đôi bờ suôi, ngược
chỉ ngôi mồ là mãi của riêng tôi...
......
ngồi đây tôi ngó đời tôi héo
từng cánh hoàng lan đã tả tơi.
Từ tình yêu, bởi tình yêu, do tình yêu, Du Tử Lê đã bao lần sống chết vì nó, rơi xuống đáy cùng của khổ đau và nhục nhã cũng vì nó:
ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi đui mù như con kiến hôi
quẩn quanh miệng chén đời trây trúa
vì chẳng ai làm râu do tôi
Tôi có thể trích hàng trăm câu như thế. Hàng trăm câu thơ buốt xé ruột gan. Hàng trăm câu thơ khởi nguồn từ nỗi đau thương tột cùng của trái tim không ngừng bàng hoàng kinh ngạc trước tình yêu, không ngừng mê đắm vì tình yêu, không ngừng mù lòa bởi tình yêu:
tôi muốn cất ngôi nhà trong trí nhớ
để muôn đời suy tụng một dung nhan
Chúa linh hiển trên bàn tay than củi
bão giông em xin cứu một linh hồn.
Cái giá Du Tử Lê đã trả để nẩy sinh được những vần thơ có sức tác động mãnh liệt vào tâm can của người đọc là cái giá khá đắt với một số người, nhất là với những nhà đạo đức hay những kẻ tưởng rằng mình là người... đao đức. Riêng với cá nhân tôi thì xuyên qua tất cả mọi chuyện, bao giờ, lúc nào tôi cũng vẫn thấy ở Du Tử Lê một trái tim, một tài hoa hiếmqúy. Trái tim để rung động, và tài hoa để biến rung động thành thơ. Tôi chư từng biết một người nào coi trọng, nâng niu, sống chết với tình yêu đến độ coi thường cả bản thân mình, hệ lụy mình, ném tung cả cuộc đời mấy mươi năm vào đắm say đến độ tan hoang như Du Tử Lê! Giữa một xã hội mà tình yêu được “cân đong, đo đếm” hết sức chi li, điều đó không đáng để chúng ta ngưỡng mộ sao? Và nhất là từ điều đó, thi ca Việt Nam có thêm những hạt trân châu qúy báu, không đáng cúi đầu cảm ơn sao?
đời muôn cửa tôi chọn về địa ngục
thiên đàng em bỏ lại đã hoang tàn
ai nắng, gió trên cảnh đời kẻ đó
mà tôi ngồi điếng lặng giữa tro than.
Cho nên, cái giá Du Tử Lê đã trả đắt lắm với cuộc đời, với lề thói dung tục thường tình; nhưng xứng đáng vô cùng với thi ca, với chữ nghĩa. Vầng trăng chỉ tỏa sáng khi mọc giữa lòng đêm. Thác ghềng chỉ hùng vĩ khi đổ xuống từ vách núi cheo leo...
Du Tử Lê đắm say cùng tình yêu, trân trọng cùng chữ nghĩa..., nhưng trên hết, vượt cao, vượt xa, vượt lên, ngạo nghễ, là tấm lòng của ông với mẹ.
Mẹ, người đàn bà tám mươi lăm năm làm người, tám mươi lăm năm xuôi ngược lầm than, tám mươi lăm năm chỉ thờ chồng, nuôi con, miếng ngon không ăn, mảnh vải đẹp không mặc. Mẹ, người đàn bà đã cố làm cho mình xấu đi, như một vũ khí tự vệ trước bao nhiêu cám dỗ để thủy cung với người chồng quá cố, lúc tuổi xuân còn phơi phới. Mẹ, người đàn bà đã can trường sống non một thế kỷ, để chứng kiến những đứacon lần lượt ra đi theo chồng, về bên kia thế giới, trong bối cảnh đầy khổ lụy của một đất nước tan hoang vì chiến tranh, chủ nghĩa. Mẹ, người đàn bà nhất định không chịu vào Nam, nhất định đòi ở lại với mồ mả chồng con không người hương khói. Mẹ, người đàn bà dù đã vươt nửa vòng địa cầu, đi trên thảm êm, xem phim bộ Hồng Kông, uống sữa tươi như chớp, ngồi xe luớt êm trên xa lộ... vẫn không chịu tin rằng mình đã ra ngoài đất nước. Vẫn những khuya tỉnh dậy, cứ băn khoan một điều: cửa nẻo đã cài then cẩn thận? Kẻo trộm sẽ đột nhập lấy gạo, lấy cơm! Mẹ, tiếng gọi đơn sơ, mộc mạc, trần trụi nhưng dung chứa cả trời đất, vũ trụ, dựng lên thật rõ nét, hình ảnh một người mẹ Việt Nam điển hình nhất, cái hình ảnh không ai trong chúng ta, đã chưa từng gặp, đâu đó, đầy rẫy trên quê hương, trong những cuốn sách tập đọc lớp Năm, và có thể trong mỗi mái nhà... Tôi vẫn còn nhớ, như mới hôm qua, tâm trạng của tôi khi lần đầu tiên, được đọc Trường Khúc Mẹ Về Biển Đông, mà chính tôi là người lay out trên tờ Tay Phải. Đó là một buổi tối, sau gày bà cụ thân sinh của Du Tử Lê qua đời độ một tuần. Trước dàn máy computer, với đôi vai so, chiếc lưng còng, nhưng ngón tay run run, ông đã làm một mạch trên ngàn câu thơ - gần năm chục trang in - khóc mẹ. Bài thơ làm xong, ông in ra và đưa cho tôi. Cũng như ông, tôi đã đọc một cạch từ câu đầu đến câu cuối. Đọc say sưa như nuốt từng chữ, từng lời. Sự xúc động trong tôi cứ tăng dần, tăng dần...
Rất hiếm hoi trong đời, tôi được sống cái cảm giác bàng hoàng kinh ngạc như thế, trước một tác phẩm văn chương. Thật kỳ diệu! Khác hẳn loại ngôn ngữ Du Tử Lê vẫn xử dụng từ trước đến nay, ngôn ngữ trong Trường Khúc Mẹ Về Biển Đông là một thức ngọn ngữ rất trần trụi, rất mộc mạc, thứ ngôn ngữ Nói chúng ta xử dụng hàng ngày. Nhưng chính vì thế đã tạo cho người đọc một hấp lực lạ lùng. Nó làm người đọc rung động đến từng sợi thần kinh nhỏ nhất. Nó như máu huyết của một người vừa trúng thương, trào ra, tươi rói! Có thể tôi đã quá chủ quan. Có thể do hoàn cảnh riêng, tôi bất hạnh thiếu đi một tấm lòng từ mẫu khi vừa lên sáu. Có thể do tình thân và sự gần gụi, đã khiến sự thẩm định của tôi có phần lệch lạc. Nhưng cho đến bây giờ, khi tác phẩm đã được in ra thành sách, đọc lại, cảm giác của tôi, với bài thơ, vẫn là cái cảm giác cũ: bàng hoàng, kinh ngạc! Một người nào đó đã viết rằng, tất cả những bài thơ khóc mẹ, của bất cứ dân tộc nào, của bất cứa tác giả lớn bé nào, dù vụng dại, vẫn là những bài thơ đáng trân quý, nâng niu. Tôi hoàn toàn đồng ý nhận xét đó. Những bài thơ khóc mẹ, dù dở, vẫn đáng trân quý, nâng niu. Còn những bài thơ khóc mẹ mà hay thì sao? Ngôn ngữ Việt Nam còn từ nào trân trọng hơn để tán dương? Không cần phải ngoa ngôn, tôi dám quả quyết, Trường Khúc Mẹ Về Biển Đông là một trong những bài thơ khóc mẹ hay nhất trong kho tàng văn chương Việt Nam.
Tôi sẽ không trích dẫn một câu nào trong Trường Khúc này, ở đây, bởi vì muốn thưởng thức trọn vẹn bài thơ, người đọc phải đọc toàn bài, phải để cho mạch thơ dẫn dắt. Bài thơ là một tổng thể, một khối kết hợp chặt chẽ, một tiếng thét bi thương dội âm không đứt. Từng câu, từng chữ quyện vào nhau, nâng đỡ nhau, đưa đẩy nhau đẫn người đọc đi dần đến đỉnh chóp của rung động.
Chỉ cần một bài thơ như thế, cũng đủ để Du Tử Lê xóa sạch mọi lỗi lầm của ông nếu có, với đời, với người.
Kinh nghiệm của chúng ta, khi đọc một tập thơ, hay thậm chí một bài thơ, thường phải đọc làm nhiều lần, có khi rất nhiều lần. Đọc thơ vốn khó. Tìm thấy những bài thơ hay càng khó. Nhớ được những bài thơ hoặc vài câu thơ hay lại càng khó gấp bội. Tôi đã từng đọc rất nhiều thơ của rất nhiều thi sĩ, xuất hiện cùng khắp trên mặt báo chí trong nước và hải ngoại, hoặc trong các tuyển tập đã xuất bản. Một số không nhiều những bài thơ hay còn đọng mãi trong tôi. Ngược lại, công bình mà nhận xét, một số khá lớn khác tuy không thuộc loại dở, cấu trúc tứ thơ, hình ảnh, chũ dùng, âm điệu..., tất cả đều trung bình. Thế mà lạ quá, cho đến bây giờ vẫn không có cách nào tôi nhớ nổi, dù chỉ một câu. Tại sao? Tôi nghĩ rằng, thơ ca chỉ có thể đi vào lòng người khi nó thực sự phát xuất từ một tấm lòng, từ những xúc động thật. Thiếu hai yếu tố này, thơ chỉ còn là những hình nhân bằng giấy bồi, vô cảm, vô hồn. Đó là những hạt kim cương bằng thủy tinhcũng lóe sáng, nhưng giả! Thơ Du Tử Lê tập nào tôi cũng đọc một mạch từ bài đầu đến bài cuối. Đọc và nhớ. Có khi dai dẳng đến hai mươi năm vẫn chẳng thể quên. Có phải bởi Du Tử Lê đã làm thơ bằng chính máu lệ mình?
Anh Du Tử Lê,
Đây không phải là một bài phê bình văn học. Lãnh vực này hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tôi không có khả năng và kiến thức để làm công việc đó. Dĩ nhiên, bài viết này chỉ là những ý nghĩ rời, hoàn toàn có tính cách chủ quan. Cái chủ quan rất hạn hẹp của một người yêu mến thơ ca, đã tìm được cho mình niềm hoan lạc khi tiếp xúc với một tác phẩm, không dừng được, phải viết ra. Vì vậy, ở đây, sẽ không có những phân tích rạch ròi về cấu trúc của thể thơ, bài thơ, nỗ lực làm mới chữ nghĩa, sự tìm tòi công phu, cái ma lực của từ ngữ, cách chấm câu, ngắt đoạn tạo thêm hiệu năng cho hơi thở của thơ...Mà, hẳn anh, chắc cũng chả bao giờ nghĩ đến; hoặc cố gắng muốn làm thế. Tôi có cảm tưởng mỗi bài thơ của anh là một phần thịt xương anh, máu lệ anh. Mỗi bài thơ là một xúc động thật, khỏi nguồn từ những đau thương, hoan lạc, nhục nhằn, khốc liệt anh đã từng nếm trải... Do đó thơ anh không là một nỗ lực, bởi chính kinh nghiệm của anh đối với cuộc đời, tình yêu, tình người, tình máu mủ, đã là một nỗ lực tuyệt vời rồi. Những nỗ lực đó, cộng với tài hoa cũng thừa là một chất liệu để bật thành tuyệt phẩm; đâu cần mượn chi cái hình thức tân kỳ, câu kéo lạ lẫm, chữ, nghĩa ghê gớm. Dù rằng đầy rẫy trong thơ anh, tôi đã bắt gập nhan nhản cái tân kỳ, cái mới lạ, cái chức năng ghê gớm của chữ nghĩa.
theo gió buồn nong chật mắt nâu
Cai chữ Nong của anh đủ khiến nhiều người chết giấc chứ chẳng chơi! Và nữa:
đôi khi ký ức ta như sáp
bậc lụn còn rung tiếng gọi khuya
nhớ ai mùi tóc thơm hương tối
những bậc thang lên cõi biệt. Lìa
Bộ mấy câu thơ này không đủ để gợi trong đầu người đọc chút hình ảnh sao? Không đủ để những tên cầm cọ như tôi đưa lên thành tranh sao? Đó là tôi chỉ “bốc đại” một đoạn trong vô số những đoạn thơ của anh mà không cần chọn lựa.
Mới chiều qua, quanh bàn nhậu, khi đề cập đến thơ anh, một nhà văn đã bằng những lời rất chân thật, thố lộ: “Tôi cũng làm thơ khá nhiều, những khi đọc xong tập thơ Du Tử Lê gửi tặng, tôi đã không ngần ngại xé bỏ tất cả.” Anh cười, tiếp: “Ít ra mình cũng còn đủ liêm sỉ để xấu hổ chứ, phải không?”
Thiết tưởng, không có lời nhận xét nào về một tài năng cụ thể, rõ ràng hơn.
Anh Du Tử Lê,
Thời gian tôi biết anh không lâu, nhưng có lẽ cũng đủ để anh hiểu, tôi vốn là đứa nóng nẩy, phổi bò. Thích, nói thích. Yêu, nói yêu. Và dĩ nhiên, ghét, nói ghét. Thậm chí, ghét quá, có khi còn thượng cẳng chân, hạ cẳng tay như đã từng...! Cho nên những điều tôi viết, chắc chắn sẽ gây ra nhiều ngộ nhận trong số những người không thích anh. Những người đã ghét thì “ghét từ con dán ghét đi.” Chắc chắn sẽ có nhiều cái nhún vai, nhiều cái cười khẩy khinh mạn, “bạn bè chúng nó đánh bóng nhau ấy mà!” Tôi nghĩ rằng, gần ba thập niên làm thơ, tên tuổi anh, nội lực anh cũng đã quá đủ để bảo chứng cho tác phẩm, cần gì phải nhờ ai đánh bóng. Và tôi, cũng không đủ rộng lòng đến độ phải đánh bóng cho ai; cũng không hèn và bất tài đến độ phải mượn một tí ánh sáng của một định tinh để le lói với đời! Ô hô! Chuyện này đã có nhiều vị độc quyền rồi. Tôi không dại gì cầm nhầm để mất hết nhân cách! Tóm lại, tôi hoàn toàn độc lập trong suy nghĩ, trong yêu ghét khen chê.
yêu ai cứ bảo là yêu
ghét ai cứ bảo là ghét
(Phùng Quán)
Đó là phương châm mà suốt cuộc đời, tôi cố gắng để nói theo. Nhưng cũng chả sao, rồi ra, tôi tin họ sẽ hiểu tôi. Hiểu rằng lòng tôi cả đời, chỉ mong ở với chữ nghĩa một cách đàng hoàng, như lời một nhà văn lão thành thường nhắn nhủ. Văn chương, thời nào cũng thế, cũng dị ứng với sự hẹp hòi, với định kiến chủ quan, với lòng ganh ghét hẹp hòi. Văn chương đâu phải chỉ tồn tại một tháng, một năm, năm năm, mười năm... Nó phải là cái bất tri tam bách dư niên hậu... Tôi không biết rồi ba trăm năm sau anh có còn tồn tại hay chăng... Nhưng ngộ nhỡ... anh lỡ tồn tại thì chắc chắn cái còn lại là thơ anh, chứ chẳng phải cái ông Du Tử Lê mần báo xuất chiêu đánh đỡ giữa chốn giang hồ chánh tà mù mịt; cái ông Du Tử Lê năm thê bảy thiếp, con rơi, con rớt tùm lum; cái ông Du Tử Lê lao đao ngất ngư, tả tơi, thân bại danh liệt vì ở chỗ nhân gian không thể hiểu nó hành hạ tra tấn triền miên.
Và nếu chức năng của văn chương, thi ca, nghệ thuật... là đưa con người đến cái chân, cái toàn, cái thiện, và đẩy con người đến gần nhau, xóa tan những tỵ hiềm nhỏ mọn giữa cá nhân với cá nhân, thì ít nhất qua thơ anh, đã có một người nhận ra điều đó. Một người từng bảo “trông thấy mặt nó là tôi mất vui,” đã tình cờ trong một tiệm sách, cầm tập thơ anh lên, tò mò đọc chơi, để rồi không dừng được, phải đọc... bằng hết.
Cũng người đó, nửa khuya gọi tôi, rủ rê nhau vào quán nhậu, sau vài chai, đã gật gù nói về thơ anh. Ông ta phát hiện ra một điều rằng, cuối cùng sẽ chẳng còn gì đáng kể trên cõi đời này ngoài cái... tuyệt diệu của văn chương. Ông ta còn nói thêm, nếu chỉ sống thuần bằng bản năng, mà không sinh nở được gì hết thì đó là đời sống của một loài sinh vật hạ đẳng! Nhưng nếu từ bản năng, hắn tích lũy, thai nghén, chắt lọc, để khổ nhục sinh thành ra văn chương, thơ ca, nghệ thuật... dâng hiến cho đời thì việc làm đó là của những người tử tế.
Mong sao, mỗi chúng ta sẽ chẳng bao giờ quên được điều giản dị mà ông bạn tôi đã nhắc đi nhắc lại năm lần bẩy lượt: sự xấu rồi sẽ bị triệt tiêu nhưng điều tử tế sẽ tồn tại mãi mãi...
KHÁNH TRƯỜNG
(Trích: Du Tử Lê: Tác Giả và Tác Phẩm, tập 1, Đời, xuất bản, 1992.)
TOÀN PHONG NGUYỄN XUÂN VINH
Đao Pháp Du Tử Lê Trong Thơ Văn
(Bài nói chuyện về thơ văn Du Tử Lê tại Hoa Thịnh Đốn ngày 11 tháng 5, 1997)
........
Tôi là người lúc nào cũng ao ước rằng cộng đồng Việt Nam p hải ngoại của chúng ta mỗi ngày một trù phú trên mọi phương diện, kinh tế, xã hội, cũng như văn hóa, để được các sắc dân khác nhìn chúng ta với sự kính nể, để tiếng nói của chúng ta có ảnh hưởng với chính quyền ở quốc gia chúng ta cư ngụ, và nếu cần thì chúng ta có thể dùng sức mạnh của cộng đồng áp lực để quê hương xưa đỡ lầm than, nhân quyền được tôn trọng, tương lai vận nước dược hanh thông. Vì thế mà mỗi lần được đọc một bài thơ dịch sang Anh ngữ của Du Tử Lê, được tin thơ anh đăng trên New York Times hay Los Angeles Times, hay thấy thơ anh được chuyển dịch sang Pháp ngữ hoặc Anh ngữ để giảng dậy trong chương trình văn học Việt Nam hải ngoại ở các đại học ở Aâu châu, là tôi thấy mừng rộn ràng, trước hết mừng cho Lê khi thấy thơ anh được các nhà văn học ngoại quốc chú ý tới, rồi mừng cho cộng đồng Việt mỗi ngày đạt được một bước tiến hơn lên, vì song song với mọi bộ môn kinh tế, khoa học, kinh doanh đủ mọi ngành chúng ta cũng phải tranh đua với các sắc dân khác về văn học và nghệ thuật.
Đại học Michigan, nơi tôi dây học, là một đại học lớn, tất nhiên có chương trình giảng dậy và nghiên cứu về mọi ngôn ngữ chính; tiếng Á châu đặc biệt có tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa, vân vân... Chính phủ Nhật Bản có lần tặng không vài triệu Mỹ kim để phát triển sự giảng dậy về Nhật học. Vậy mà người Việt mình chỉ tay không mà đã thuyết phục được nhà trường mở chương trình dậy Việt ngữ chính thức, mỗi khóa có hai hoặc ba lớp dậy, đi ngang qua lớp ta nghe thấy sôn sao tiếng Việt nói rộn ràng. Chúng tôi đã giúp Dặi Học Michigan tuyển được một cô giáo dậy theo giao kèo ký từng năm một, mà đã kéo dài được 4 năm liền. Nhờ đó mà có những sinh viên Mỹ và một vài sinh viên Việt ghi tên theo học lớp thơ cổ điển Việt Nam do một giáo sư Mỹ bạn tôi giảng dậy, cốt yếu dùng mấy cuốn thơ dịch Việt sang Anh ngữ của giáo sư Huỳnh Sanh Thông. Tôi cũng có lần nhắc nhở ông giới thiệu thơ của các thi sĩ Việt Nam cận dại.
Cách đây mấy tuần, tôi được Thư Viện Trung Ương liên lạc và nhở tìm hộ cuốn thơ Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà / Your Scented Garden, My Nostalgia của Du Tử Lê; vì có một sinh viên Mỹ muốn đọc mà không có.
Để nhanh chóng và tránh những phức tạp hành chánh tôi nhận lời mua hộ và gủi tặng luôn. Mấy hôm sau, tôi nhận được thiếp cám ơn của ông Giám Đốc Thư Viện, dại diện cho Hội Đồng Nhiếp Chính Đại Học. Tôi xin trao lại thiếp này cho Du Tử Lê, ghi nhận là sáng tác của anh hiện nay đã nằm trên kệ sách thư viện cao, làm tài liệu nghiên cứu chocác sinh viên văn học Á Đông.
Trong những năm xa xứ, Du Tử Lê không ngừng sáng tác. Có thể nói thêm là anh đã sáng tạo, khai phá. Tôi yêu thơ của Du Tử Lê, hay đọc thơ anh, vì qua những dòng chữ mà anh cho là dồn dập như những hạt nước, theo tôi là những hạt ngọc, xô đẩy nhau gợi cho tôi nỗi khắc khoải yêu con người, dù đồng hương hay khác giống, nhớ tổ quốc xa vời, mòn mỏi đếm từng ngày xa xứ.
“đêm nghiêng bình rót ly không đáy
mỗi ngụm buồn, vui trớt tháng năm.”
Nhờ đọc thơ của Du Tử Lê mà nhiều khi tôi đã tưởng chừng vượt được ra ngoài không gian để đi nhìn về địa cầu nhỏ bé, nghĩ rằng đâu đó có quê hương mình. Qua những câu:
“núi thi sĩ phá vòng vây ngụy sử
em trưng bày tâm, tượng, bất an sông
mười thế hệ sạch trơn không dấu vết
trái đất buồn: hạt lệ đứng quay lưng.”
ta thấy con người dù nhỏ bé cũng đã vượt lên từng không xa vời. Tôi thích đọc thơ lục bát, vốn dĩ là do thói quen, thuở nhở đã học thuộc gần hết cuốn truyện Kiều của Nguyễn Du, mà Du Tử Lại ít viết thơ theo thể lục bát. Điều không ngờ là nhà thơ của chúng ta lại đã để rất nhiều tâm trí để có những thử nghiệm đổi mới về thể Lục Bát.
Trải những năm tháng qua, ta đã có lục bát trường thiên của Nguyễn Du, tuy đọc lên có nhiều chữ là, chữ rằng, chữ thì, nhưng vẫn tồn tại là áng thơ tuyệt tác, vẫn sống mãi là gia tài văn học của dân gian, xưq kia người Việt lấy 10 người thì có đến 9 người ít ra cũng thuộc vài đoạn. Sau này lại có thơ lục bát của Phạm Thiên Thư trong “Động Hoa Vàng” ta nghe tha thiết, có những hàng thơ quên dục, chim đi, trang kinh hiện hóa thiên đường. Rồi lại có lục bát của Bùi Giáng phong vận nguy nga, thiên nhiên về thiết lập tòa / mười muôn bến nước giang hà Cửu Long. Với Du Tử Lê, lục bát đã thành siêu lục bát.
Ý kiến sáng tạo để đổi mới thể lục bát của Du Tử Lê thật là độc đáo. Tôi phải thưa trước với quý vị thân hữu là tuy nghiên cứu về khoa học mà về văn học nghệ thuật tôi lại là con người ưa chuộng cổ điển, rất sợ những gì thay đổi một cách táo bạo. Chẳng hạn nếu có người nào cho tôi một bức tranh vẽ theo lập thể, kiểu trường phái Picasso, chắc là tôi không treo ở thư phòng. Có khi tôi lại nghĩ rằng vì không vẽ được những nét hiện thực nên người họa tranh mới quay ra lập thể. Nhưng nếu một hôm nào có người chỉ cho tôi coi một bức tranh cổ kính đẹp tuyệt với và nói rằng đó là tranh của buổi sơ khai của họa sĩ vẽ tranh lập thể đó, thì tất nhiên sự thán phục của tôi sẽ gia tăng gấp bội. Sự đó cũng như là tâm trạng kích động của mình một hôm gặp một con người bình dị, ngồi câu cá ven sông mà có người rỉ tai nói cho hay rằng mới tuần trước con người này đã ký một chi phiếu vài triệu Mỹ kim để tặng một cơ quan từ thiện.
Vì vậy, muốn thật hiểu con người Du Tử Lê, trước hết ta phải đọc thơ lục bát cổ diển của Lê. Trong bài Thấy Bình Minh Trên Sa Măc Utah, Nhớ Mẹ Già,” Du Tử Lê đã viết:
“ọi ai gió nổi bốn trời
chiếc nhau tôi lạnh phía đời bên kia
mẹ nằm lặng lẽ trong khuya
lắng nghe biển dội lời thì thầm quên.
xương tàn một dúm chưa yên
cố lay lắt sống để đền lỗi con.”
Hỏi ai là người xa xứ còn có mẹ già đợi trông ở vòng nửa trái cầu, đọc những lời thơ này mà lòng lại không ray rứt?
Đọc thơ lục bát của Du Tử Lê, có chút dư âm của những nhà thơ nổi tiếng tiền chiến, nhưng nghe lại rất lạ, một cái gì chỉ có ở trong thơ của Du Tử Lê. Như bài “Cõi Tôi” anh viết mới đây:
“cõi tôi, cõi nát, cõi tàn
cõi hoang mang vội, cõi bàng hoàng, qua
cõi vui thân thể, cỗi già
cõi lang thang, mượn mái nhà hư, không.”
Đã viết được lục bát cổ điển để đưa tình cảm người đọc vào cõi siêu việt, giờ đây Du Tử Lê lại tiếp tục tìm tòi, đưa những ý kiến sáng tạo. Ai cũng biết rằng theo thể lục bát, chữ thứ tư ở câu sáu bắt buộc phải là trắc:
“Trăm năm trong cõi người ta
chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
Thơ Nguyễn Đình Chiểu:
“Lênh đênh một chiếc thuyền tình
mười hai bến nước đưa mình về đâu?”
Hay thơ Nguyễn Bính:
“Lang thang anh dạm bán thuyền
Có người trả chín quan tiền, lại thôi.”
Hay thơ Bùi Giáng:
“Cõi phù trầm với phù du
một hàng mở gió thiên thu hai hàng.”
Những câu thơ lục bát của Du Tử Lê đã viết, dù không nhiều cũng dư thừa để anh ngang nhiên ngồi cùng chiếu với những danh tài thơ lục bát thượng thừa. Nhưng anh đã dũng mãnh khai một san đạo khi đề nghị rằng nếu cần diễn tả tâm trạng cho rộn ràng, hay làm cho câu thơ thêm trang trọng thì có thể bỏ âm trắc, như câu anh viết:
“Tôi Lê. Lê. Lê. Lê nào?”
Không những thế anh lại đặt câu 6 này là câu cuối trong bài. Dứt bài thơ một câu ngắn ngủi, lại có âm bằng, tạo cho ta một bâng khuâng, vương vất, trong cái thiếu thốn lại nẩy ra một dư hưởng lê thê, ngập ngừng của du tử. Lê đã vạch ra một con đường rẽ từ thể lục bát, nhưng không phải I cũng đi theo được vì con độc đạo này chưa phải là con đường mòn đã có nhiều chân dẫn lối. Tỷ dụ, tên tôi là Vinh, và tôi có bắt chước Du Tử Lê mà viết lại rằng:
“Tôi Vinh. Vinh. Vinh. Vinh nào?”
thì không phải là thơ mà là tiếng của một người nói lắp. Rồi muốn cố tình để trở thành vần lục bát thì rồi cũng phải đổi chữ thứ tư thành âm trắc, rồi viết thêm một câu 8 chữ với sáo ngữ chẳng han:
“Tôi Vinh. Vinh, biết Vinh nào,
Nhìn trăng viễn xứ dạt dào tình thương.”
Đọc lên dù nghe thấy có vần điệu, nhưng câu thơ thật là giả tạo, và cũng vì thế xưa nay không ai gọi tôi là thi sĩ.
Như một tráng sĩ đi tiên phong, Du Tử Lê đề nghị dùng gạch chéo / Slash/ như một đao pháp để hoán chuyển chữ trong một câu thơ.
Chẳng hạn trong 2 câu:
“còn / rừng / gương / soi cho tôi
bao dung / núi / đợi. Nghiêng vai / sông / chờ.”
có đến 7 gạch chéo để người đọc có thể hiểu và hoán vị thành: tôi soi gương, hay rừng soi gương, hay rừng còn soi gương, hay gương soi rừng... Lối hoán vị này đã cởi những trói buộc cho thơ. Sau này, ở thế hệ tới, tôi tin chắc sẽ có nhiều bạn trẻ khi làm thơ lục bát đổi mới, sẽ thầm cám ơn Lê đã chỉ đường vạch lối cho họ.
Điều sau cùng mà tôi muốn nói là tập Chuyện “Tiếng Kêu Nào / Bên Kia Thời Tiết/” là cuốn sách thứ 33 mới đây của Du Tử Lê. Theo lời tác giả đây không phải là một tập TRUYỆN, mà là tập CHUYỆN , hiểu theo nghĩa tập văn tâm sự của Du Tử Lê, như anh đãviết chuyện của chúng mình theo van xuôi, với tâm hồn của một nhà thơ. Với Du Tử Lê, chúng mình đây không phải chỉ có riêng ta với mình, mà chúng mình thay đổi liên miên bất tận với thời gian và không gian. Tên những người trong chuyện tôi không biết là giữ nguyên hay thay đổi, nhưng qua những bài vừa là hồi ký, vừa là tùy bút, viết chuyện nay, hay chuyện xưa, ta sẽ thấy những Donna, những kỷ niệm thời trẻ ở Indianapolis, ở Chicago, những ngày thơ ấu chạy loạn ở Kim Bảng, Phủ Lý, Nho Quan, những nỗi buồn tang tóc, những ngày tới thăm Song Thành ở Minnesota một buổi sáng, mưa ướt lạnh buốt tận xương. Nhà thơ, mà giờ đây là nhà văn đã kể lại những ngày ở Cali, mảnh vuờn sau ngôi nhà ở Ranchero Way, những kỷ niệm với bằng hữu, những tháng năm đầu tiên di cư, vừa làm khuya vừa viết những bài thơ như “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn” đề tặng Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, bài thơ đã làm nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương để ra nửa năm trời để vật lộn mới phổ nhạc thành một bài hát tuyệt vời, vì trong thơ đã có nhạc rồi, phải gỡ ra rồi mới soạn lại được. Phạm Đình Chương đã thành công với bài “Mộng Dưới Hoa” của Đinh Hùng, lại thành công với “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn” của Du Tử Lê.
Qua những trang sách ta theo anh trong đoạn đời trên đất khách, theo anh từ Seattle miền Tây Bắc tới Houston, Dallas ở miền Nam, cùng chia sẻ với Lê những trăn trở, dằn vặt tâm hồn của con người ly hương, những tâm sự giữa bạn bè.
Qua những trang sách, khi đọc lên ta như vẳng nghe có tiếng hát, có lời thơ, có cung nhạc, và ta cũng thấy đưa ra mùi son phấn, nhìn thấy những ánh tóc vàng, và cũng có cả những khuôn mặt thuần túy Á Đông chưa có vết dao sửa. Đọc cuốn sách này ta sẽ cùng đi với Du Tử Lê con đường anh đi những năm vừa qua.
TOÀN PHONG-NGUYỄN XUÂN VINH.
Bùi Bảo Trúc
Cái tính “lang chạ” thế mà hay
Hoa Thịnh Đốn,
Ngày 3 tháng 12 năm 1993
Bạn ta,
Cách đây mấy ngày, ở thư viện Arlington đã có một buổi nói chuyện về thơ và hát nhạc của Du Tử Lê.
Nhìn danh sách những bài thơ của họ Lê được phổ thành ca khúc, khoảng trên dưới 50 bài, người ta ngạc nhiên vềt con số những bài thơ của ông được – nói theo kiểu Phạm Đình Chương – cho thêm một đời sống mới, đời sống của âm nhạc.
Tại sao có hiện tượng kỳ lạ này, hiện tượng một số khá nhiều bài thơ của một thi sĩ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như vậy?
Các nhạc sĩ nổi tiếng của âm nhạc Việt Nam đều ít nhất đã một đôi lần đưa âm nhạc vào thơ.
Lý do là có những trường hợp phải quay sang với thơ vì tình trạng “khô cạn cảm hứng nhất thời” – Một tình trạng không một người làm công việc sáng tác nào không thỉnh thoảng gặp phải – như mộ nhạc sĩ đã có lần nói.
Nhưng cũng có những trường hợp vì xúc động mà bài thơ tạo nơi người nhạc sĩ.
Những bài thơ gây xúc động nơi người nhạc sĩ khiến ông phải bày tỏ cảm xúc của ông bằng nhạc là những bài thơ phổ nhạc thành công nhất. Có khi chỉ cần một lần. Bài “Đi Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp được Trần Văn Khê phổ nhạc chẳng hạn.
Rất nhiều nhà thơ nổi tiếng đã có thơ được phổ nhạc.
Xúc cảm nhiều khiến người làm nhạc cho bài thơ thêm đời sống âm thanh mới chỉ là một lý do
Một lý do khác nữa là sự gần gũi với nhạc của những bài thơ đó. Những bài thơ đọc lên, người ta chợt thấy nó còn cần pahỉ được hát lên nữa.
Đó là bài “Mộng Dưới Hoa” của Đinh Hùng. “Ngậm Ngùi” của Huy Cận. “Vần Thơ Sầu Rụng” của Lưu Trọng Lư. “Áo Lụa Hà Đông”, “Paris Có Gì Lạ Không Em” của Nguyên Sa. “Khi Cuộc Tình Đã Chết”, “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn” của Du Tử Lê…
Điều này không chỉ đúng cho những bài thơ mới, vì chúng ta thấy có cả mộg bài thơ của Tản Đà – một nhà thơ rất cổ điển – trong số những bài thơ được phổ nhạc, bản “Tống Biệt” bằng nhạc của Võ Đức Thu.
Chắc chắn phải có sự gần gũi với âm nhạc cảu những bài thơ này, vì lẽ có những nhà thơ nổi tiếng và cũng rấ mới, không khác gì Nguyễn Nhược Pháp, Đinh Hùng, Du Tử Lê, Nguyên Sa…nhưng không một bài thơ nào của các ông được phổ thành nhạc. Đó là trường hợp của Vũ Hoàng Chương, Chế Lan Viên…
Điều này chắc phải đúng, vì có khi một bài văn xuôi, nếu nógần với âm nhạc, thì văn xuôi đó cũng được âm nhạc ghé thăm ngay.
Thí dụ một đoạn văn xuôi của Đinh Hùng…”Thu năm nay tôi lại đi trên con đường vắng nay để nghe tiếng lá rơi trên bờ cỏ…Những cây phù dung đứng buồn như những nàng cung nữ,,,”đã trở thành “Hoài Thu” của Văn Trí..” Mùa thu năm ấy, trên đường tới miền Cao Nguyên, Đà Lạt núi rừng thâm nghiêm…những cây phù dung trắng xóa…”
Trong khi những bài “Ông Đồ Già” của Vũ Đình Liên, “Thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử…tuy chất thơ thì rất nhiều, nhưng đến nay vẫn chỉ có một đời sống nguyên thủy, đời sống của thơ.
Âm nhạc đặc biệt ghé thăm Du Tử Lê, nhiều hơn nó đến với các nhà thơ khác. Đinh Hùng có “Mộng Dưới Hoa” với Phạm Đình Chương, “Mái Tóc Dạ Hương” tức “Một Tiếng Em” với Nguyễn Hiền, “Chiều Tím” với Đan Tho, “Hoài Thu” với Văn Trí.
Phạm Thiên Thư,Hoàng Cầm, Phạm Lê Phan, Nguyễn Tất Nhiên, Ngô Đình Vận đã được âm nhạc của Phạm Duy ghé lại mỗi người trên dưới 10 bài.
Nhưng âm nhạc đến với Du Tử Lê không chỉ ở con số 1 mà là con số gấp 5 hay 6 lần như thế.
Tại sao?
Tôi nghĩ thơ họ Lê có thể là một thứ thơ “lang chạ”
Thơ Phạm Thiên Thư chí “chung thủy” với Phạm Duy. Hoàng Cầm, Phạm Lê Phan, Ngô Đình Vận cũng thế. Đó là trường hợp “Mười Bài Đạo Ca”, “Tình Cầm”, “Tình Khúc Chiến Trường”, “Chiến Ca Mùa Hè”…
Nhưng thơ Du Tử Lê thì khác. Chúng không ở riêng với ai hết. Chúng có nhiều người tình khác nhau. Chúng không có sự “chung thủy”
Thơ Vũ Hoàng Chương chỉ ở với Kiều Thu. Thơ Đinh Hùng cũng chỉ ở với một người. hay cũng có thể là nhiều người, nhưng vẫn có những nét chung như “Liên, những Liên, và Liên” của Thanh Tâm Tuyền.
Những người trong tơ Du Tử Lê thì đã không phải là một, cũng không là hai, mà còn rất nhiều người khác nhau nữa.
Vì thế, thơ của Du Tử Lê cũng “đi” với Phạm Duy. Với Phạm Đình Chương. Với Từ Công Phụng. Với Vũ Thành An, Châu Đình An, Trần Duy Đức, Việt Dzũng, Anh Bằng, Hoàng Xuân Giang, Nguyễn Hiền, Phan Nguyên Anh, Ngô Anh Quang, Đăng Khánh…
Mà cũng có thể nói ngược lại là những nhạc sĩ này, ai cũng muốn “đi” với thơ Du Tử Lê cả.
Sau khi nó trở thành ca khúc thì nó lại còn “lang chạ” cả với những giọng hát.
“Khi Cuộc Tình Đã Chết” với Thái Thanh, Lệ Thu. “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn” với Thái Thanh, Quỳnh Giao, Lệ Thu.
Nó “đi” với giọng Sĩ Phú, Duy Trác, Kim Tước, Mai Hương, Tuấn Ngọc, Thái Hiền…
Và ví thế mà những đời sống mơi của Du Tử Lê được âm nhạc mang lại đặc biệt phong phú.
Những nhạc khúc phổ từ thơ Du Tử Lê là để được hát lên. Nó không yên nghỉ ở phần phụ trang như nhiều bài thơ được phổ nhạc một cách thù tạc, đi lại, xã giao, trao đổi giữa thi sĩ và nhạc sĩ. Rất nhiều bài thơ phổ nhạc nằm trong loại này.
Thơ Du Tử Lê khi được phổ nhạc thì thường không như thề.
Nó được sống dậy, lôi ra khỏi trang giấy, những giọng trang giấy, những giòng kẻ của bài nhạc. Nó sống sót rất lâu sau những buổi ra mắt thơ khi nó được hát lêntheo lời yêu cầu của tác giả bài thơ. Nó chịu thử thách của thời gian, và nhất là của người nghe.
Nó là “Ơn Em”, là “Trên Ngọn Tình Sầu”. là “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển”, là “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn”, là “Khi Cuộc Tình Đã Chết” là “Tình sầu Du Tử Lê”…
Và vi thế, nếu có nói Du Tử Lê có đóng góp với âm nhạc và là những đóng góp lớn thie chắc cũng đúng.
Tất cả, lý do chỉ vì cái tính “lang chạ” của nó
Bùi Bảo Trúc
(Nhật Báo Người Việt ngày 6 tháng 12-1993)
Phạm Đình Long
“Ngổn ngang trăm mối bên lòng”
(Không có bài)
Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm
chuẩn bị và bất chợt về...du tử lê
“Cũng nên đưa Du Tử Lê ra tòa vì tội đã đồng tình cho người ta hành hạ con mình. Nếu như coi bài thơ là con đẻ với mệnh hệ riêng, như chính Du Tử Lê đã viết:
‘Mỗi bài thơ một mệnh hệ riêng’.”
NH-NĐT.
LGT: Trên 130 người mến mộ văn chương, chọn lọc, chưa hề thấy ở Chicago đã thích thú tham dự Đêm Du Tử Lê tổ chức tại Hội Người Việt Illinois ngày mồng 8 tháng 9-1996. Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm, người dạy học và viết lách quen thuộc của Thành Phố Gió, điều khiển chương trình và giới thiệu Du Tử Lê. Những ý kiến của ông có chuẩn bị và bất chợt nay được viết thành bài.
Hội Người Việt Illinois.
- Tại sao Du Tử Lê là Nhà thơ mà không là Nhà văn?
Mai Thảo đã có lần sắp hạng Du Tử Lê là một trong 7 vì sao bắc đẩu thi ca của văn chương Việt Nam hậu bán thế kỷ thứ 20, bên cạnh Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền....
Vào năm 1952, Lê Cự Phách 10 tuổi đã viết văn đăng báo, khỏi đầu nghiệp dĩ văn chương của mình. Di cư vào Nam năm 1954, di tản khỏi nước năm 1975. Sau hơn bốn thập niên viết văn và làm thơ, với tập thơ mới nhất Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà / Your Scented Garden, My Nostalgia (Nhân Chứng 1996,) Du Tử Lê đã cống hiến cho đời 32 tác phẩm. Tác phẩm văn là số lớn, gồm 20 truyện dài, truyện ngắn, truyện tuổi thơ và đặc biệt là tùy bút. Chỉ có 12 tập thơ mà thôi. Thế nhưng, người đời biết Du-Tử-Lê-người-làm-thơ-thứ-thiệt chứ không là Du-Tử-Lê-nhà-văn. Cũng dễ hiểu. Cho đến thời điểm này, Du Tử Lê thành công ở thơ hơn. Nói thời điểm này vì không chắc còn đúng ở vào một lúc khác sau này. Bởi vì, trong nỗ lực sáng tạo, không ngừng đi tìm một đổi mới cho văn chương, đổi mới về cấu trúc hành văn, về ý tưởng và liên tưởng, về xử dụng ngôn và từ...văn thơ Du Tử Lê luôn thay đổi hình dạng, trăn trở lột xác để có một-cái-gì-đó cho đời: để không ăn gian điếu thuốc hút mỗi ngày, không ăn gian ly cà phê uống mỗi ngày, không ăn gian nơi trọ mỗi ngày,..., như lời Du Tử Lê thường nói với bạn bè.
Du Tử Lê đang là một ngạc nhiên thích thú và chưa thích thú được, hứa hẹn nhiều ngạc nhiên khác.
Trở lại, Du Tử Lê thành công về thơ vì chính-thức-được-thừa-nhận, tác phẩm Thơ Du Tử Lê 1967-1972 đã được Giải Thưởng Văn Học Toàn Quốc, 1973, về bộ môn thơ. Nhưng quan trọng hơn, chính là những vần thơ trong thời gian này, viết về tình yêu, về chiến tranh, về con người... rất xúc động cho người đọc thơ. Đây mới là sự xác quyết đáng tin cậy về giá trị và danh xưng Nhà-thơ-Du-Tử-Lê.
Đọc lại một hai đoạn thơ trong bài Khúc Thụy Du, bài thơ đầu trong tập thơ vừa dẫn:
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được
Hoặc:
mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé mở
trên ngọn cờ không bay
......
Vào lúc đó, lúc mà thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền còn là một khám phá mới (như Du Tử Lê bây giờ,) thì ý thơ và lời thơ đó rất lạ.
Khi ra khỏi nước, Du Tử Lê làm thơ hay hơn, làm thơ nhiều hơn. Nhớ nước, nhớ nhà, nhớ vợ con. Những thao thức khắc khoải, nỗi đau dằn vặt là những chất liệu nuôi dưỡng cho những bài thơ hay, cảm động, có hồn của Du Tử Lê. Có thể nói thơ Du Tử Lê hay nhất về thân phận lưu vong. Trong đó có bài Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển. Bài thơ rất xúc động và buồn. Bài thơ được nhiều người biết đến, cả trong lẫn ngoài nước. Ngoài nước thì rõ rồi. Ở trong nước, người Cộng Sản dùng bài thơ này để vẽ nên một hình ảnh thảm thương của người Việt di tản, nhằm chặn bớt những bước chân hốt hoảng ồ ạt bỏ nước ra đi. Một anh thuộc diện H.O. trong khi tâm sự với Du Tử Lê và tôi, cho biết, vì đọc bài thơ đó, anh đã có ý định bỏ đi Mỹ. (Mừng cho anh!)
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
(nhảy 4 đoạn)
khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
Phải ở trong hoàn cảnh nếu không tan nát thì cũng mất mát gần hết, khánh tận cả đến những hoài vọng cỏn con, nhẫn nhục sống trên đất nước quê người, mới thấm trọn bài thơ.
Cho nên tôi không đồng ý với Đỗ Quý Toàn khi cho rằng...đó là một bài thơ bình thường. Ai cũng có thể làm được. Cái đó không khó... (Đêm Du Tử Lê Montreal 1994.) Nếu nói bài thơ đó không lạ thì hoàn toàn đồng ý. Tôi cũng có ý này khi đọc bài Cõi Tôi... Nhưng nếu cho rằng ‘khi tôi chết...’ là bài thơ ai cũng có thể làm được, không khó thì quá đáng. Một bài thơ đọc nhiều lần vẫn cảm động, rõ ràng là một bài thơ hay.
Nói gọn lại. Du Tử Lê là nhà thơ. Từ đầu đến cuối, Du Tử Lê cũng chỉ muốn mình như thế: Khởi đầu cũng như cuối chót, tôi muốn được là một người làm thơ. Ở con người này, tôi thấy nó mang nhiều cái tôi chân thật hơn cả. (Trả lời Nguyễn Mạnh Trinh, trích Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra, DTL.)
Đam mê, dằn vặt, vất vưởng, lận đận, bệnh đau dày vò, để chung thủy với thơ. Du Tử Lê là một trong những trường hợp hiếm thấy.
- Về, một bài thơ của Du Tử Lê được phổ nhạc: Khúc Thụy Du.
Thơ phổ nhạc có lẽ là một thể loại sáng tác đặc biệt của Việt Nam. Có thể vì bản chất thơ Việt Nam là vần điệu. Trong thơ đã có nhạc. Các nhạc sĩ đã làm cho các bài thơ được đại chúng hóa. Sự phối hợp giữa thơ và nhạc nhiều khi đã năng giá trị bài thơ lên cao hơn về mức độ thưởng ngoạn. Ngậm Ngùi của Huy Cận, Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư... được Phạm Duy phổ nhạc; Chiều, thơ Hồ Dzếnh, nhạc Dương Thiệu Tước..., là những thành tựu tuyệt vời. Thơ, không bị đổi hay thêm lời cho đúng theo nhịp điệu và âm độ, đã nhờ nhạc mà hay hơn. Nhạc có thơ mà ngôn từ hóa, chuyên chở cảm xúc trực tiếp, cụ thể đến người nghe.
Thế nhưng, không hiếm khi chính các bài nhạc phổ đã giết chết bài thơ tức tưởi. Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan do Dzũng Chinh và sau này Phạm Duy phổ nhạc là một trường hợp.
Khoảng đầu thập niên 50, học sinh thành phố chuyền tay say mê đọc và học thuộc lòng bài thơ. Bài thơ bi hùng và lãng mạn đó được Dzũng Chinh phổ theo điệu bolero rất bình dân và phổ biến vào lúc đó. Nhạc sĩ trẻ quân đội này (hình như là một thiếu úy đã hy sinh tại Phan Thiết (?) - Lâu quá rồi không nhớ rõ!) thay đổi, thêm lời cho đúng nốt nhạc và điệu nhạc. Bài nhạc được hát nơi nơi. Nhưng, kể từ đó nó đã kết liễu luôn một trong những bài thơ hay nhứt thời kháng Pháp. Nhạc sĩ Phạm Duy, bạn đồng lứa với Hữu Loan, có lẽ muốn cứu sống lại bài thơ, đã phổ nhạc với tựa đề Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, lấy từ câu áp cuối của bài thơ. Bản nhạc hay hơn, tiết tấu thay đổi lôi cuốn hơn. Nhưng với tài năng của mình, Phạm Duy không cứu nổi bài thơ. Nếu không muốn nói, bài thơ đã bị giết chết lần thứ hai!
Trường hợp này gặp lại với Khúc Thụy Du, của Du Tử Lê, do Anh Bằng phổ nhạc, tuy có khác hơn một chút. Duy Cường hòa âm, số một! Lại thêm giọng ca nam hàng đầu Vũ Khanh, đây là một bản nhạc tình thật hay. (CD Quê Hương Là Người Đó. Mười nhạc phẩm phổ từ thơ của Du Tử Lê. Diễm Xưa thực hiện và phát hành.) Thế nhưng, với những ai đã được và thích bài thơ này của Du Tử Lê từ lâu, không biết có như tôi không, rất khó chịu.
Như đã nói ở trên, Khúc Thụy Du vốn là một bài thơ dài 68 câu, không kể mấy chục câu bị sở kiểm duyệt đục bỏ, (như hầu hết thơ của Du Tử Lê vào giai đoạn đó.) Trong đó Du Tử Lê nói đến cái đau đớn dằn vặt, nỗi cô đơn, bất lực, cái phi lý của chiến tranh, về cái hạn hẹp của thân phận người và về cả tình yêu. Trên quan điểm chiến tranh chính trị hồi đó, đây là một bài thơ phản chiến. Bộ Thông Tin đã đục bỏ mấy chục câu. Trên quan điểm văn học nghệ thuật, Du Tử Lê là một nhân chứng. Bài thơ phản ảnh trung thực một mảnh đời nào đó, dưới góc độ xúc cảm của người làm thơ. Cũng như Ca Khúc Da Vàng là xúc cảm của người viết nhạc Trịnh Công Sơn về chiến tranh và bom đạn.
Ngoài những câu đã trích dẫn ở trên, thêm mấy câu:
trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gậm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
Bài thơ này dứt khoát không phải đơn thuần về tình yêu ray rứt trai gái. Nhưng khi trích phần cuối để phổ nhạc:
đừng bao giờ em hỏi
vì sao ta yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh...
......
thì bài thơ hay của Du Tử Lê đã trở thành một bản nhạc tình không hay hơn các bản nhạc tình có sẵn. Chìu theo âm độ, con chim bói cá sửa thành loài chim bói cá; trong vụng nước cuộc đời đổi thành trong vũng nước cuộc đời...Các tác dụng tượng hình, tượng thanh của chữ và nghĩa gợi lên sự cô đơn cùng cực của con người trong cái hạn hẹp chật chội của kiếp người bị đánh mất trọn vẹn. Nhạc sĩ chỉ lấy được phần tình yêu, phần nền, không phải là chính diện của bài thơ! Như tôi đã nói đùa với Du Tử Lê: Việc này tương tợ như cắt một khúc nào đó (!) trên thân thể Du Tử Lê rồi bảo, đây chính là Du Tử Lê, thì tội nghiệp cho Du Tử Lê và cũng tra tấn người lỡ yêu bài thơ quá!!!
Dạy học ở đây, tôi thường can dự và hòa giải việc thầy cô giáo và nhà trường kiện các cha mẹ tội bạo hành đánh con, Child Abuse. Cũng nên đưa Du Tử Lê ra tòa vì tội đã đồng tình cho người ta hành hạ con mình. Nếu như bài thơ là con đẻ với mệnh hệ riêng, như chính Du Tử Lê đã viết: mỗi bài thơ một mệnh hệ riêng (Tình Yêu / Trang Ruột và / Bìa sách Quê Hương.)
- Văn thơ Du Tử Lê, cái lạ chưa hề thấy.
Du Tử Lê bây giờ được biết đến nhiều như người làm thơ hay, người làm thơ thứ thiệt. Nhưng cái nổi ở Du Tử Lê là nỗ lực sáng tạo đổi mới thơ văn. Còn quá sớm để có thể có một kết luận về công lao của Du Tử Lê. Có nhiều người thích và cũng có nhiều người không thích hay chưa thích được. Có người cảm được và cũng rất nhiều người chưa cảm được. Một điều chắc chắn, trên suốt hành trình hơn 40 năm làm thơ và viết văn, từ trong nước và những năm đầu ngoài nước..., Du Tử Lê bây giờ không phải là Du Tử Lê năm xưa nữa!!!
Thơ Du Tử Lê bây giờ rất ngắn. Nếu lật tập Thơ Du Tử Lê 1967-1972, hay những tập thơ đầu xuất bản ở hải ngoại, hầu như những bài thơ thường dài sáu, bảy mươi câu. Du Tử Lê trong giai đoạn này như ham hố muốn nói thật nhiều điều trong một bài thơ. Hay đúng hơn, cần dùng nhiều câu mới trang trải hết một ý thơ của mình. Người đọc thơ nhờ vậy cũng không khó để hiểu, để cảm Du Tử Lê. Những bài thơ này rất dễ ngâm. Giờ đây, Du Tử Lê sâu sắc, lặng đọng, tự tin nên thơ thường rất ngắn, rất đọng, rất sâu. Mỗi bài thơ không còn dễ đọc. Nó đòi hỏi một trình độ suy tư và trực giác bén nhậy để có thể giao thoa với hồn thơ của tác giả.
Lại nữa, thơ Du Tử Lê bây giờ rất nhiều dấu. Dấu loạn xạ! Trước đây thơ Du Tử Lê thường không dấu. Chẳng chấm, chẳng phẩy, không viết hoa gì ráo trọi. Thơ đi một mạch từ đầu đến cuối. Giờ thử lật tác phẩm mới nhất: Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà. Bài thơ nào cũng tùm lum dấu. Dấu chấm, dấu phẩy, dấu than, dấu hỏi, dấu chấm than, dấu gạch ngang, nhiều dấu giữa hai ngoặc đơn..., và đặc biệt chưa hề thấy, dấu chéo / slash, một sáng tạo đề nghị của Du Tử Lê. Đọc bài Chỗ Ngồi Đâu Lưng, sẽ thấy đủ:
tôi yêu tôi: trong tôi / người
chuyến xe song mã; chỗ ngồi: đâu lưng (.?!,)
tôi yêu tôi: trong tôi / nguồn/
vai nghiêng mái biển / chân/ lần, khân,/ chia/
tôi yêu tôi: trong tôi /về/
tới ngang khúc quẹo tâm lìa, biệt, đi (,.)
tôi yêu tôi: trong tôi /quỳ/
dưới chân Đức Phật em vừa /quy y./
Rất đồng ý với Bùi Bảo Trúc, thơ Du Tử Lê bây giờ để nhìn và đọc. Những ngâm sĩ trứ danh một thời như Hoàng Thư, Hồ Điệp, Quách Đàm... chắc cũng lắc đầu. Giữ vần thì không hết ý. Hết ý thì lạc vần. Trúc trắc, trục trặc. Thơ như thế thì làm sao mà ngâm được!!!
Nói thêm về dấu chéo / slash. Đặc-sản-du-tử-lê. Đọc lại bài thơ trên rồi nghe Du Tử Lê giải thích về tác dụng của dấu chéo “(dấu chéo) như một ký hiệu, báo thị cho người đọc biết rằng những chữ đằng trước hay ở giữa hai dấu gạch chéo / slash, người đọc có thể hoán đổi vị trí của chúng và, nó cũng mang tính xô đẩy hai chiều thuận nghịch nữa.”
Bằng cấu trúc hành văn mới mẻ này, Du Tử Lê mong tạo cơ hội để độc giả trở thành một tác giả thứ hai, bằng cách hoán đổi để có một câu thơ khác theo ý mình. Du Tử Lê đã trưng dẫn ví dụ, trong một cuộc trả lời phỏng vấn đài TNHK., với câu thơ:
rừng / tôi / sâu/ thở nốt chân trời/
Aùp dụng phương pháp hoán vị, sẽ có 3 câu thơ khác:
1- tôi rừng sâu thở nốt chân trời
2- sâu rừng tôi thở nốt chân trời
3- thở nốt chân trời rừng tôi sâu
Không biết có ai đã nghe theo lời dụ dỗ của Du Tử Lê để làm tác giả thứ hai không (?) Riêng tôi, chỉ đọc không thôi cũng đủ... “oải” rồi (chữ dùng của Nguyễn Hà.)
Ngoài những bài thơ (không còn sử dụng được từ vần thơ khi nói về thơ Du Tử Lê,) tùy bút là nơi mà Du Tử Lê sử dụng tối đa các dấu chéo / slash. Đọc một đoạn trong tập tùy bút Chỗ Một Đời Em Vẫn Để, Dành (Nhân Chứng, 1995):
“Họ mang thân xác/ nước mắt/ lý tưởng/ trí thức/ tâm lý/ đảm đang/ trong trắng (?)/ ngây thơ (?)/ mồ hôi/ sức lao động/ tinh thần hy sinh/ ước mơ thờ chồng, nuôi con/ ...làm bả thơm (?) dụ những con mồi ngây thơ (thực sự ngây thơ?) sập bẫy.” (Tr. 171.)
Thú thật, các tấm lá chắn / đối với tôi vẫn chỉ có tác dụng như những dấu phẩy với cái lấn cấn của hình thức. Mong sao đến một lúc nào đó, sẽ nắm bắt được, cảm được cái hồn thơ và ý văn của tác giả.
Sinh ra ở Huế và lớn lên ở Saigòn, tôi không còn một ký ức nào về cái lần đầu tiên mạ tôi cho tôi ăn ớt. Chắc cay lắm. Đã khóc, đã chảy nước mắt, thè lưỡi thở phù phù... Nhưng giờ đây, một tô bún bò không cay xè, thì tôi thấy nhạt nhẽo vô duyên vô cùng. Biết đâu thời gian sẽ giúp cho tôi, cho người đọc Du Tử Lê hôm nay (cũng như Thanh Tâm Tuyền trước đây với: một cửa sổ, hai cửa sổ... trong tập thơ choáng váng mặt mày Tôi Không Còn Cô Độc -Sáng Tạo, Saigòn) sẽ ghiền các dấu chấm tùm lum, gạch chéo / slash lạ đời khó chịu... như tôi và người xứ Huế ghiền ớt cay ở tô bún bò.
- Về hình bìa của tập Love poems / Thơ Tình Du Tử Lê.
Trước 75, có một nhà thơ lính chẳng nhiều người biết, những anh là một nhà thơ kaki rất phiêu bồng sảng khoái. Tôi muốn nhắc đến Nguyễn Bắc Sơn. Thơ của anh như thế này: “Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình / ăn muối đá và hăng say chiến đấu / Ta vẫn hiền khô, ta là lính cậu / Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo.” Tôi thích câu này: “Trong Nguyễn Bắc Sơn có kẻ làm thơ / Kẻ làm thơ đôi khi cũng biến thành du đãng / hoặc nhà tu theo khí hậu từng mùa.”
Ý thơ này bất chợt đến với tôi khi cầm và ngắm bìa trước, bìa sau tập thơ Love Poems / Thơ Tình Du Tử Lê. Bìa trước, hình Du Tử Lê ở trần trùng trục, mặt cô hồn. Bìa sau, Du Tử Lê áo hở ngực, mặt bơ phờ sau khói thuốc. Hai hình ảnh Du Tử Lê trước sau cuộc tình.
Mới hôm qua chuyện trò với một bà giáo Việt quen thân. Khi nhắc đến buổi nói chuyện về Du Tử Lê, bà ngắt ngang, phán một câu: nghe mấy người quen nói ông này mới viết một tập thơ gì bậy bạ lắm phải không anh? Tôi chưng hửng, nhưng hiểu ra ngay. Qua hình bìa, một số các đấng đã gắn luôn một nội dung không hề mang cho tập Thơ Tình của Du Tử Lê.
Thôi thì đề nghị Du Tử Lê cho Nguyễn Thụy Long mượn hình bìa này cho lần tái bản truyện du đãng Loan Mắt Nhung. Hoặc muốn giữ lại cho mình thì thêm vào tập thơ bài Làm Tình, Du Tử Lê mới làm đề tặng BBT., PL., và một số bạn bè. Lấy tên bài thơ này làm tựa đề cho tập thơ là tiện.
- Ai người đọc thơ văn Du Tử Lê mai hậu.
Nếu cụ Nguyễn Du lo xa ba trăm năm sau có ai còn nhớ mà khóc cho mình, thì tôi lại lẩn thẩn hỏi: bất tri tam thập dư niên hậu / thiên hạ hà nhân độc Tử Lê? (Ba mươi năm nữa liệu còn ai hiểu để đọc Du Tử Lê?)
Những người đọc đương đại, với trí thức và bản lĩnh về ngôn ngữ Việt và trình độ cảm quan nghệ thuật của mình còn oải khi đọc thơ văn hiện nay của Du Tử Lê, thử hỏi thế hệ con cháu chúng ta lớn lên hay sinh ra ở cõi người chắc chắn sẽ không còn đủ trình độ Việt ngữ để hiểu để cảm Du Tử Lê. Mới tháng trước đây, trong một lớp Việt ngữ Hè, khi chép câu ca dao: công cha nghĩa mẹ khôn đền, thì hầu hết các học sinh đã nhanh nhẹn và tự động sửa lại là công cha nghĩa mẹ không đền. Các em tưởng là giảng viên viết thiếu chữ “g”. Các em không hiểu được chữ khôn trong tiếng Việt.
Nửa thế kỷ với hai lần vượt trốn cộng sản vĩ đại, từ Bắc vào Nam, từ Nam ra hải ngoại, người Việt tự do đã đem theo mình một dòng văn học tự do, mang tính người với tất cả cái hay cái dở cái đúng cái sai, cái được trân trọng giữ gìn và cái tự thân đào thải. Đối nghịch là dòng văn học chuyên chế, ham hố trịch thượng, giả nhân, luôn luôn tốt, luôn luôn đúng. Chắc chắn sẽ có một ngày, xa gần chưa biết, chế độ “lệnh xé xác” CS sẽ nổ vụn tan tành, tới lúc đó khối lượng trẻ già trong nước sẽ đón nhận các tinh hoa văn chương hải ngoại, trong đó có Du Tử Lê. Được như vậy, công khó của Du Tử Lê hôm nay sẽ không là... xa xí phẩm!
Để dứt. Nếu tập Thơ Ở Đâu Xa (Văn 90) của Thanh Tâm Tuyền chứa đựng những bài thơ hay nhất cho đến nay về người và ngày cải tạo; bài thơ dài 122 câu “Ta Về” của Tô Thùy Yên, man mác bùi ngùi, bài thơ tuyệt vời viết ngày về từ địa ngục, hậu cải tạo; thì, thơ Du Tử Lê hay nhất về mảnh đời và mảnh hồn tỵ nạn. Thanh Tâm Tuyền là người làm cuộc cách mạng thơ bằng những bài thơ tự do. Du Tử Lê cũng đang làm mới thi ca bằng chữ và dấu.
Du Tử Lê trả lời đài TNHK “tôi tự biến mình thành vật thí nghiệm. Có thể tôi thất bại. Nhưng hy vọng người khác sẽ có những nỗ lực cách tân hoàn chỉnh hơn.” Với thái độ này không thôi, cũng đủ cho tôi nói riêng với Du Tử Lê: Ta chịu Người-Cự Phách.
NINH HẠ-NGUYỄN ĐỨC TÂM
(Chicago, Sept., 1996.)
nguyễn kim long/seattle/
những khía cạnh triết lý trong thơ du tử lê
(Bài nói chuyện tại Trụ sở Hội Người Việt Tỵ Nạn Washington, Seatlle ngày 8 tháng 1-98)
“Thế giới văn chương Du Tử Lê như những bức tranh lập thể của Họa sĩ Picasso. Mỗi người cảm nhận, mỗi người hiểu một cách. Không ai giống ai, tùy theo trình độ và kiến thức.”
NKL
Trong buổi ra mắt tác phẩm của Tô Thùy Yên, tối ngày 6 tháng 10-1995 tại Hội quán Văn nghệ Tao Nhân, thành phố Garden Grove, Nam California, Nhà văn Mai Thảo cho biết, theo ông trong vòng nửa thế kỷ qua, trên vòm trời thi ca của Việt Nam, có tất cả 7 vì sao bắc đẩu, màø Du Tử Lê là một trong 7 vì sao đó. Trước đấy vài năm, trong một bài viết đăng tải trên Tạp chí Thế Kỷ 21, số 29, đề tháng 9, 1991, Nhà thơ Nguyên Sa cũng nhận định rằng: Bây giờ tôi nghĩ rằng Du Tử Lê đã đi xa hơn những người làm thơ cùng thời với anh một quãng đường, trông như gang tấc, mà trong thơ xa vạn dặm.
Tại sao cả hai tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại là Mai Thảo và Nguyên Sa lại có cùng một nhận xét giống nhau về thơ Du Tử Lê? Nhiều người cho rằng, bởi vì cái thần trí trong thơ Du Tử Lê đã đạt tới mức siêu tuyệt. Một số người khác lại cho rằng vì khả năng dùng chữ, vì những dấu chấm, dấu phết, những nỗ lực ngắt nhịp hay cách tân trong văn chương của họ Lê. Tất cả những lãnh vực này, nhiều nhà phê bình đã nói tới.
Phần cá nhân tôi, là một người đọc và yêu thơ Du Tử Lê, tôi chú ý tới bốn khía cạnh nổi bật nhất trong thơ Du Tử Lê. Theo tôi đó là:
Khía cạnh thực tại.
Rất nhiều người cho rằng thi ca là mặt bên kia của tấm gương đời sống. Thơ bước ra từ những tưởng tượng mang tính rung động ở cấp độ cao, cấp độ phi thực tại. Nhưng thơ của Du Tử Lê, tôi nghĩ lại chính là những bước chân bước ra từ một đời sống sần sùi nhất. Có thể thơ ông cũng là một mặt nào khác của tấm gương soi; nhưng lại là cái mặt lộn trái thô nhám nhất của ghi nhận, rung động trong cảnh đời dung tục. Ghi nhận này sâu đậm nhất thể hiện qua bài thơ Khúc Thụy Du ông viết năm 1968 vụ biến cố Tết Mậu Thân, giữa lần ranh sinh tử nhập nhoạng và cuộc tình như một ký thác trăm năm của cuộc đời ông.
Khía cạnh nhân cách hóa.
Cách đây đã lâu, tôi được đọc đâu đó một bài viết của Nhà thơ Nguyên Sa viết về tình khúc Trên Ngọn Tình Sầu, một bài thơ của Du Tử Lê, sáng tác cách đây đã trên 30 năm, năm 1967, do Từ Công Phụng phổ nhạc. Nhân được đọc bài viết này tôi mới vỡ nhẽ ra rằng, họ Lê của chúng ta không chỉ có khả năng nhân cách hóa những sinh vật nhỏ bé, gần gụi với đời sống hàng ngày trong tuổi thơ của chúng ta như bầy chim sẻ, như con dế mèn: Bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ / con dế buồn tự tử giữa đêm sương; mà ông còn có khả năng tạo cho những hiện tượng thiên nhiên một linh hồn. Đó là linh hồn của những con sóng lìa xa dần bờ cát. Những con sóng nắm tay nhau vỗ đập cùng một nhịp, làm thành nỗi nhàm chán, niềm tuyệt vọng đi lần vào lãng quên, như câu chót của bài thơ khép lại toàn thể bài thơ: con sóng tình vỗ mãi một âm quên. Tôi muốn mượn lời của Triết gia kiêm Nhà thơ Phạm Công Thiện, người có lần tuyên bố đại khái rằng, bất cứ kẻ nào làm được một bài thơ như bài Trên Ngọn Tình Sầu, hắn đều xứng đáng để được tha tào tất cả mọi tội lỗi, dù tội lỗi tầy trời.
Xuyên qua bài viết của tác giả Áo Lụa Hà Đông, sau này tôi nghiệm thấy khả năng linh hồn hóa những hiện tượng thiên nhiên, những gì thuộc về trừu tượng của họ Lê, có đầy rẫy trong thơ của ông.
Khía cạnh quần chúng hóa hay thành ngữ mới từ thơ Du Tử Lê.
Nếu phải đi tìm một nhà thơ đương thời, có nhiều câu thơ trở thành thành ngữ hoặc được quần chúng hóa nhiều nhất, thì đó là thơ của Nhà thơ Du Tử Lê. Tôi được nghe rất nhiều lần trong những câu chuyện vãn, trong những khi gặp khó khăn về việc diễn tả hoặc thấy không tiện nói rõ ý nghĩ, quan điểâm của mình, người ta thường mượn một câu thơ của họ Lê để thay thế. Đó là những câu thơ như: ở chỗ nhân gian không thể hiểu; đi với về cũng một nghĩa như nhau; tôi với người chung một trái tim; tan theo ngày nắng vội, vân vân...Tôi cũng tình cờ đọc thấy những câu thơ vừa kể trong báo, trong những bài viết của một số tác giả, gồm luôn cả những người viết không ở toàn thời gian với văn chương, điển hình như trong một đôi bài viết của Cha Nam Hải, nữ ca sĩ Khánh Ly, Nhà văn Lê Xuân Nhuận...
Thậm chí một số câu thơ của ông cũng được đem vào những bức tranh hý họa, như trên nguyệt san Phụ Nữ Việt số 73, đề tháng 7-97 tình cờ tôi thấy một bức hí họa, phần chú thích viết: “Đã nói đi với về cũng một nghĩa như nhau thì sao lại còn đòi đi...thêm bước nữa?”
Mới đây nhất, trên tờ báo Ngày Mai, số 110, trang 24, một tác giả nào đó, trong bài viết 7 Điều Tâm Niệm Để Kiểm Tra Chồng, thì điều thứ tư lưu ý quý bà rằng: “Chàng có sắm quần áo mới, loại hợp thời trang, trông trẻ ra. Chàng sức dầu thơm after shave kỹ càng trước khi ra khỏi nhà. Coi chừng chàng sắp đi đêm với một em nào đó- đi đêm với ăn chè cũng một nghĩa như đi với về (thơ Du Tử Lê đấy).”
Khi mách nước cho độc giả để giữ gìn hạnh phúc gia đình mà cũng đem thơ của Du Tử Lê vào được, thì điều đó chứng tỏ câu thơ của Du Tử Lê nó phải phổ cập, phải đại chúng biết là chừng nào rồi.
-Khía cạnh triết lý.
Theo thiển ý của cá nhân tôi, sở dĩ một số câu thơ của Du Tử Lê được nhiều người biết tới, xử dụng trong một số trường hợp nào đó, vì tính triết lý thực dụng của những câu thơ đó. Và đây chính là khía cạnh mà tôi chú ý nhất cũng như thích thú nhất.
Tôi nghĩ Du Tử Lê đã dung hòa được tư tưởng triết học Tây phương và Đông phương một cách hài hòa tự nhiên. Từ trước tới giờ người ta vẫn quan niệm đông là đông, tây là tây. Hai con đường song song này không thể nào gặp nhau được. Nhận định này được các thế hệ nối tiếp nhau mặc nhiên công nhận. Có lẽ vì triết học Tây phương bị chi phối nặng nề bởi Thiên Chúa Giáo, trong khi triết học Đông phương xây dựng trên ảnh hưởng của Đạo Phật, Khổng và Lão mà chúng ta quen gọi là Tam giáo đồng quy, làm thành nền tảng văn hóa của người Việt Nam.
Để cụ thể hơn, sau đây chúng ta thử phân tích một đoạn trong bài thơ Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển của Du Tử Lê:
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì.
Đọc đoạn thơ này, chúng ta thấy ngay tác giả muốn gửi tấm thân tàn của mình sau khi đã qua đời về với quê hương, về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Hai câu đầu bài thơ, gợi tôi nhớ ngay tới một câu nói bất hủ của Chúa Giêsu. Ngài bảo: “cái gì của Ceasar hãy trả cho Ceasar.” Nó cũng là quan niệm của nhà Phật qua câu: “cái gì của cát bụi sẽ trở về với cát bụi.” Mặt khác, tục ngữ của dân tộc Việt cũng có câu: “nước chẩy về nguồn.”
Nguồn gốc của dân tộc Việt theo truyền thuyết là nguồn gốc “con rồng cháu tiên.” Nên đối với người Việt Nam sông biển đã có với chúng ta rất nhiều gắn bó.
Riêng đối với người Việt tỵ nạn, với lịch sử của chúng ta qua biến cố 30-4-75 thì biển còn là những kỷ niệm đau thương, hãi hùng, tan tác, chia ly; và biển cũng là bước khởi đầu cho những thành công của người Việt ở hải ngoại nữa...
Trong khi đó, nếu theo dõi những tập quán có từ lâu đời của một số dân tộc ở gần dẫy núi Hy Mã Lạp Sơn và của các vị cao tăng Phật giáo Tây Tạng thì, khi một con người chết đi, thân xác họ được phơi trên đỉnh núi, trên cành cây cao làm thức ăn cho kên kên, quạ và thú dữ. Phải chăng họ Lê bị ảnh hưởng tinh thần này nên đã xin thân xác của mình trở thành thực phẩm cho cá qua câu thơ:
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì xá gì thêm một xác cong queo.
Càng đọc thơ Du Tử Lê, nhất là những bài thơ tình, quý vị sẽ thấy ông đã lồng vào thơ của ông những tư tưởng triết học đông và tây một cách tự nhiên, tài tình, không chút gượng ép. Thậm chí những danh từ như Bồ Tát, Thánh Nữ cũng được ông dùng rất nhiều để chỉ những người phụ nữ mà ông thương yêu hoặc kính trọng. Ông đã hướng thượng, đã thánh hóa những cuộc tình đó.
Khi thương yêu một người con gái nào, sùng kính một người nữ nào, ông không ngần ngại gọi người đó là Thánh Nữ hay Bồ Tát. Điều này chưa một thi sĩ nào làm từ trước tới nay. Theo tôi đây là một mặt khác của tình yêu trai gái.Vì tình yêu thực sự, đúng nghĩa không hề có tính ích kỷ, chiếm hữu làm của riêng tư. Một triết gia Tây phương từng định nghĩa: Tình là một thứ vừa thiếu lại vừa...thừa. Thừa nên ta sẵn sàng tặng cho người khác. Và vì thiếu cho nên ta rất cần đến người khác bù đắp cho ta.
Tôi không rõ Du Tử Lê trong quá khứ có từng tu tập với một tôn giáo nào không, tuy nhiên qua thơ của ông, tôi thấy ông thấm nhuần cùng một lúc cả hai nguồn tôn giáo lớn của nhân loại, là Thiên Chúa Gíao và Phật Giáo. Những danh từ riêng của từng tôn giáo được ông đem vào thơ rất nhiều, và thi ca hóa những danh từ đó một cách tuyệt diệu: Thí dụ:
bằng tin kính của tông đồ thứ nhất
tôi xấp mình đón đợi bước em qua
......
tim ta ở đợ phố người
năm năm Thánh Nữ. Chợ đời. Nước sông.
Hoặc:
này em Bồ Tát đi trong gió
chẳng ngại trần ai, ngại nắng mưa
Hoặc nữa:
hôn em Bồ Tát chuông kinhg hãi
rung hoảng vì tôi? – hay cả em?
Không biết có phải vì am tường đạo gíao hay không mà khi yêu, tác giả chỉ ví người yêu với...Bồ Tát, với Thánh Nữ thay vì với Phật hay với Chúa. Nếu tác giả có ví von người yêu của mình với Phật hay với Chúa thì điều đó cũng dễ hiểu thôi, bởi vì khi yêu người ta thường mù quáng. Vì mù quáng nên có khuynh hướng nhìn người yêu mình là số một, là cao cả nhất, là không có gì hơn được. Nhưng trong thơ của Du Tử Lê chúng ta thấy ông chỉ ví von người yêu của ông với Thánh Nữ, với Bồ Tát mà thôi.
Thưa quý vị, theo giáo lý của Đạo Phật thì Bồ Tát là danh hiệu của những vị đã đạt tới đạo quả Phật. Nhưng trong thời gian tu hành các vị này có lời nguyện rằng dù đạt tới đạo quả Phật, vẫn xin ở lại trần gian để cứu khổ cứu nạn cho những chúng sanh còn trầm luân trong bể nghiệp. Trường hợp Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là một thí dụ điển hình.
Càng ngày chúng ta càng thấy nhân loại ở khắp nơi tranh đấu cho quyền nam nữ bình đẳng... Nhưng vẫn theo giáo lý nhà Phật thì những người sinh ra làm người nữ, thường là những người mang nghiệp chướng từ kiếp trước nặng hơn người nam. Bởi thế người nữ phải chịu nhiều hy sinh, thiệt thòi như họ bị kinh nguyệt hàng tháng, lại còn phải mang nặng đẻ đau...
Trong Công giáo cũng vậy. Đức Mẹ Maria là một Thánh Nữ Đồng Trinh, nhưng trên tất cả vẫn là Thiên Chúa Toàn Năng.
Cho nên nếu gọi người yêu của mình là Chúa hay Phật tức muốn cho thấy người yêu của mình là một đấng toàn thiện, toàn năng. Mà một người nữ, dù chỉ trong dạng ví von, nếu toàn thiện, toàn năng thì hẳn không còn cái phần đời thường của con người. Tình yêu ấy, sẽ trở thành tình yêu một chiều. Cho nên, tôi nghĩ Du Tử Lê đã chọn chữ, đã ví von, đã dùng ẩn dụ rất chính xác.
Chúng ta cùng biết Du Tử Lê không phải là một Ki Tô Hữu nhưng khi nói tới Chúa, ông lại cho thấy như một người rất thấu hiểu Thánh ý Chúa qua hai câu thơ sau đây:
cây thánh giá có một đầu rất nhẹ
Chúa không kêu ai vác hộ bao giờ.
Chỉ với hai câu thơ này, Du Tử Lê đã cho thấy Chúa gần gũi biết bao nhiêu với con người. Sự kiện này thật trái ngược với một số khá đông người Công giáo luôn coi Chúa là đấng thiêng liêng nhưng xa cách con người trần gian này vô cùng.
Sau một cuộc chia tay với người yêu vì những luật lệ khe khắt do Hội Thánh đặt ra, Du Tử Lê viết:
em quay mặt khước tình tên ngoại đạo
đâu biết rằng Chúa khổ biết bao nhiêu!
Thế giới văn chương của Du Tử Lê như những bức tranh lập thể của Picasso, mỗi người cảm nhận, mỗi người hiểu một cách. Không ai giống ai, tùy trình độ và kiến thức. Lại nữa, những khía cạnh đặc biệt trong thơ Du Tử Lê phải nói là có quá nhiều. Cũng tùy trình độ, tùy cảm quan của mỗi người mà thấy và thích khía cạnh này hoặc khía cạnh khác.
Cá nhân chúng tôi, trong cái vốn hạn hẹp của mình, chỉ xin nêu ra một vài khía cạnh mà chúng tôi cảm nhận và thích thú mà thôi. Cho nên, tôi sẽ không phản đối, nếu ai đó, bảo rằng những đoạn thơ tôi nêu ra trong bài nói chuyện này chỉ mang nặng tình yêu giữa người nam và người nữ mà thôi. Tuy nhiên, với tôi, trước sau gì tôi vẫn thấy phảng phất trong thơ Du Tử Lê rất nhiều ảnh hưởng của triết lý Đông, Tây và Văn hóa Việt Nam. Tất cả đã trộn lẫn với nhau, thành một. Và thành thơ Du Tử Lê vậy.
NGUYỄN KIM LONG
(Seattle, tháng 11.97)
LM Trần Cao Tường
Một Thoáng Bâng Khuâng Với Thơ Du Tử Lê
(Không có bài)
Nguyễn Hữu Trí
Nói Chuyện Đời Thường Vê Du Tử Lê
Bây giờ thì tôi tin một cách khá chắc chắn rằng hễ còn sống ngày nào tất phải đối diện với những chuyện "lạ đời" bất chợt xảy đến cho mình. Tôi mà được "mời" nói chuyện về nhà thơ Du Tử Lê thì thật không còn gì lạ lẫm cho bằng! Một người văn chương chữ nghĩa ăn đong mà đi giới thiệu một ngôi sao bắc đẩu trên thi đàn Việt Nam thì quả thật không có câu chuyện nào tréo cẳng ngỗng hơn. Đã vậy, tôi lại không được cái hân hạnh là "bạn nối khố", là "người bạn năm xưa", là "người được quen biết anh Du Tử Lê từ hồi còn ngồi ở quán Cái Chùa ngó mông ra con đường Tự Do ở Sài gòn"…thì thử hỏi tôi lấy tư cách gì để bình, bàn về con người, hay thi phú của nhà thơ lớn trước mặt những người khách chọn lọc yêu văn thơ? Thế nhưng chuyện lạ đã xảy ra, và hoàn cảnh đẩy đưa, tới một lúc không còn "rút lui có trật tự" được nữa, tôi đành đánh liều đóng vai một kẻ "điếc không sợ súng". Thú thật, vì bản tính nhút nhát, tôi rất ít khi dám liều lĩnh như vậỵ
Tôi nhận lời làm một trong các "diễn giả" tại buổi giới thiệu các tác phẩm của Du Tử Lê do Hội Người Việt Cao Niên ở Philadelphia bảo trợ. Đó là vào cuối tháng 9 năm 1997. Tiếp đến, vào đầu tháng 11, tôi lại bay sang tận miền Tây bắc để làm "kẻ điếc" thêm một lần nữa! Và lần này là Chiều Thơ Nhạc Du Tử Lê, được tổ chức ở thành phố Seattlẹ Tôi không khỏi bàng hoàng thốt lên rằng "Ôi chao! Sao ở đời lại có những chuyện lạ lùng đến thế!" Nhưng tôi đã bay, và đã trình bày cùng một đề tài tương tự như lần nói chuyện ở Philadelphia, tuy có thêm thắt một số chi tiết mới. Ở đây, tôi không dám làm mất nhiều thì giờ của độc giả nên chỉ lược thuật đôi điều tôi đã nói, đã làm tại các buổi nói chuyện này.
Sáng chủ nhật hôm ấy, tôi lái xe từ miền Bắc bang Virginia lên Philadelphia để kịp dự buổi giới thiệu vào lúc 3 giờ chiều. Trên đường đi, tôi vẫn còn phân vân chưa biết phải nói những gì trong buổi sinh hoạt đó. Số là cách đấy khoảng một tuần, tôi có nhận được cuốn du tử lê, tác giả & tác phẩm do nhà thơ Du Tử Lê từ California gửi qua. Đồng thời, qua điện thoại, nhà thơ cho tôi biết, tôi sẽ nói chuyện về tác phẩm mới này. Thế rồi, nhà thơ sang Virginia trước mấy hôm. Nhưng như bao lần, vì bận bịu bạn bè nên ông quên bẵng không liên lạc với người diễn giả tay mơ. (Đây là chuyện bình thường của ông, tôi thông cảm và không có ý trách ông đâu nhé!) Tôi lục lạo mãi mới "bắt" được ông ta vào tối thứ bảy. Lúc ấy, nhà thơ cho tôi hay một mẫu tin có thể nói là "sét đánh lưng trời" --ít ra là đối với tôi! Ông ta báo cho tôi biết, đã đưa cho ban tổ chức đề tài bài nói chuyện của tôi là "Một chân dung khác của Du Tử Lê". Qua điện thoại, tôi phản ứng ngay rằng "Bộ ông ỷ ông là nhà thơ lớn rồi ông muốn đổi đề tài lúc nào cũng được sao?!" Ông nhà thơ không trả lời câu hỏi mà chỉ cười với một "giọng cười rổn rảng" dễ mến như bao giờ. Đặt điện thoại xuống, tôi mới chợt nhận ra rằng cái tin tôi tưởng là "sét đánh ngang tai" kia lại là một chi tiết đáng mừng: có gì lạ đâu, giờ đây, ngoài chuyện bàn luận về tác phẩm mới, tôi còn được phép "đụng" thẳng vào cá nhân nhà thơ lớn của chúng ta nữa. Nghĩ là nghĩ vậy, chứ vào lúc ấy tôi cũng chưa quyết định nói những gì.
Xin trở lại với du tử lê, tác giả & tác phẩm. Khi nhận được cuốn sách, nhìn ở bìa trước, xong rồi nhìn ở bìa sau và xem qua Mục Lục, tôi thấy choáng váng vì 50 tên tuổi những người làm văn học nghệ thuật in ở bìa sau. Mục lục lại càng làm tôi chóng mặt thêm: nhà thơ của chúng ta là tất cả và thật tình ông xứng đáng với bất cứ một danh hiệu mà những tác giả kia dành cho ông. Sau đấy, tôi đọc hầu hết những bài viết trong tác phẩm này.
Nội dung đầy đủ của cuốn sách giúp tôi khám phá ra nhiều điều mới lạ và lý thú --đối với tôi-- về nhà thơ Du Tử Lê. Tôi bối rối vì chưa biết phải nói gì về tác phẩm này. Về sau, khi được nhà thơ giao thêm cái trọng trách nói về "một chân dung khác" của ông, tôi lại càng lúng túng hơn nữa. Nhưng tôi biết chắc, sẽ không dám đụng tới những nhan đề cao xa như vừa kể. Lý do giản dị là vì sau khi lượng sức mình, tôi biết, tôi không tài nào vói tới chúng được.
Chính nhờ ý nghĩ này và nhờ trong khi lái xe đi Philadelphia nhìn cảnh đời thường diễn ra trước mặt, tôi đã quyết định nói chuyện "đời thường" về nhà thơ Du Tử Lê. Vì là chuyện đời thường, nên nội dung những điều tôi nói chẳng có gì là cao xa hay bí hiểm. Vì là chuyện đời thường, nên hình thức và ngôn ngữ tôi dùng cũng rất ư là thường tình!
Tôi bắt đầu câu chuyện đời thường bằng cách nói một chút về cuốn sách du tử, tác giả & tác phẩm. Thoạt nhìn tấm hình của tác giả ở bìa trước, tôi thấy ông có vẻ đăm chiêu như đang chiêm nghiệm về một khúc mắc nào đó trong cuộc đời. Nói khác đi, trông ông giống như một triết gia đang nghĩ ngợi rất lung về ý nghĩa của đời người; hay về sự phi lý trong cuộc sống phù du này. Nhưng nhìn kỹ, tôi lại thấy đôi mắt ông trông giống như của một kẻ rình mồi. Và những con mồi của ông không ai khác hơn là những bóng giai nhân mà ông đã, đang và sẽ chụp lấy. Ông túm lấy họ không phải để làm những chuyện quàng xiêng như những kẻ vũ phu cộc cằn. Vì ông là thi sĩ, cho nên ông chỉ nhẹ nhàng dìu những bóng hồng kia vào cõi thơ của ông. Và nhờ những "nạn nhân" đó và óc sáng tạo mãnh liệt của ông, ông đã và sẽ để lại cho đời những bài thơ tình tuyệt diệu. Về hình thức cuốn sách, tôi có nói thêm là cách trình bày rất hấp dẫn dễ thu hút được sự chú ý của độc giả. Riêng về nội dung phong phú của tác phẩm, tôi không có thì giờ đi vào chi tiết nên chỉ khẩn khoản "mời" cử tọa mua lấy về đọc để hiểu thêm về con người và thi ca của nhà thơ Du Tử Lê. Tôi kết luận, đây là một tác phẩm cần có trong tủ sách gia đình và tôi đã thừa cơ hội "trình diễn" một màn quảng cáo bằng tiếng Anh. Tôi hứa với thính giả là sẽ trả tiền lại nếu họ không hài lòng (kiểu Mỹ mà!). Mọi người biết tôi hứa cuội nên đã cười ồ!
Đến đây, tôi chuyển qua phần thứ hai trong câu chuyện "đời thường". Tôi kể lại những "chặng đường" quen biết khá nhiêu khê tôi đã đi qua để đến gần nhà thơ. Mục đích chỉ giản dị là để trình bày với cử tọa cái "chân dung khác" của nhà thơ mà tôi có bổn phận phải đề cập tới trong buổi giới thiệu. Tôi bí không biết phải dùng phương pháp nào nên đành dựa vào sự mô tả những chặng đường quen biết nọ. Chặng đường đầu tiên tôi đặt tên là "chặng đường thán phục". Sau một thời gian xa nhà khá lâu và làm quen với các nền văn chương Âu Mỹ, tôi trở về quê hương để chợt nhận ra, đất nước mình cũng có một nền văn học chẳng thua kém gì ai. Và trong số những tên tuổi làm nên nền văn học khả kính đó có nhà thơ Du Tử Lê. Đó là vào khoảng giữa thập niên 1960, lúc bấy giờ ông là một nhà thơ đã thành danh. Vì vậy, sự cảm phục của tôi dành cho ông là một chuyện tất nhiên, mặc dầu tôi chưa được hân hạnh gặp ông. Vào thời gian đó, vì mới ra đời bận bịu với mưu sinh, tôi không có thì giờ để đọc nhiều những nhà văn nhà thơ nổi tiếng đương thời như mình muốn.
Vào cuối thập niên 1960, tôi lại "bỏ nước ra đi" một lần nữa, để tiếp tục việc học dở dang của mình. Ở ngoài nước, tôi lại không có nhiều dịp đọc thơ văn nước nhà. Nhưng tôi có theo dõi tin tức về văn học nghệ thuật trong nước. Nhờ vậy, tôi biết tin nhà thơ Du Tử Lê được trao Giải Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn thơ năm 1973. Sự việc này đưa tôi tới chặng đường có tên là "chặng đường sợ hãi". Dĩ nhiên, tôi sợ là sợ con người thi sĩ tài hoa, chứ tôi có biết ông ta "thân dài vai rộng" cỡ nào đâu mà sợ ông hung hăng! Chặng đường này khá dài và nó chập chờn trước mắt tôi qua một thời gian khá lâu. Cho đến ngày tôi được cái hân hạnh thật sự gặp nhà thơ "bằng xương bằng thịt" của chúng ta. Đó là vào mùa Lễ Tạ Ơn năm 1996 tôi được may mắn bắt tay ông ở miền Bắc bang Virginia. Ngay sau khi gặp ông, tôi đã bước sang "chặng đường ngỡ ngàng". Không ngỡ ngàng sao được khi mà đứng bên cạnh ông, thầm lặng so sánh với vóc dáng ông, tôi chợt nhận ra rằng tôi có thể quật ngã ông một cách không mấy khó khăn. Thật tình tôi không hiểu tại sao mình lại có thể "sợ" nhà thơ đến thế trong suốt mấy mươi năm trời. Thế nhưng suy nghĩ kỹ, tôi đã nói với cử tọa rằng đối diện với ông, tôi có phần an tâm về mặt thể chất. Nhưng nỗi sợ sệt vì cái tài làm thơ của ông thì vẫn không suy giảm chút nào. Chặng đường "ngỡ ngàng" qua nhanh sau lần gặp gỡ nọ, tôi đã đặt chân lên "chặng đường bực dọc". Tôi cảm thấy "bực bội" khi biết được tên tuổi nhà thơ của chúng ta vang dội khắp nơi, không những trên nước Mỹ này mà ở cả Châu Âu, Châu Úc nữa! Tôi gằn giọng hỏi rằng ở hải ngoại này chẳng lẽ không có một nhà thơ nào ngang "tầm cỡ" với thi sĩ Du Tử Lê hay sao? Tôi kể ra một số tên tuổi các nhà thơ khác và nhân dịp này, tôi đã xin phép cử tọa đọc một bài thơ "của tôi," để quí vị ấy thử so sánh xem thơ tôi có hay bằng thơ của ông Lê Cự Phách không. Tôi nhận thấy mọi người đều chăm chú nghe:
thân ngựa chạy một đêm sầu phố núi
mắt chim theo giọng suối đứng riêng trời
hơi thở ngọt em một đời phong kín
nhớ nhung gì em buộc tóc chia hai
con sóc nhỏ đem hồn lên núi lạ
ta chim rừng cánh mỏi đã đau thương
hương cỏ dại mát dưới chân ngà ngọc
em bảng đen vôi trắng giết đời nhau
trăm con bướm phải về chung một ngõ
suối xôn xao phải suối xưống tự nguồn
em áo lụa dáng gầy hơn bóng núi
rừng ơi rừng cây đợi đã trăm năm
em thanh khiết giữa đời ta bụi bặm
gọi ta về trong bóng nắng thơ ngây
em mới lớn nên tình như thác gội
ôi-bạn-ta, thân ngựa sớm xa bầy
Tôi vừa đọc dứt bài thơ thì tiếng vỗ tay tán thưởng đã vang dậy thính phòng. Mọi người có vẻ nghĩ rằng tài làm thơ của tôi cũng chẳng kém gì nhà thơ Du Tử Lê. Nhưng đó cũng chính là lúc "lương tâm tôi cắn rứt," nên tôi vội vàng xin cử tọa một phút im lặng, để báo cho mọi người biết rằng họ vừa chứng kiến một vụ đạo văn lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Tôi nói: "Sự thật bài thơ này không phải của tôi! Đó là bài thơ nhan đề bài “t. ng.” của nhà thơ Du Tử Lê mà tôi còn giữ được. Ông Du Tử Lê làm bài thơ này năm 1973, hình như cùng lúc với các bài Đời Mãi Ở Mãi Phương Đông, Cơn Mưa, Sinh Nhật, 12, vân…vân. Tôi phải nói ngay như thế kẻo ông ta kiện tôi về tội đánh cắp bản quyền thì phiền lắm". Từ trên bục nhìn xuống cử tọa, tôi có cảm tưởng hầu hết đều tiếc rẻ vì đã lỡ vỗ tay khen tôi. Nhưng quan khách dường cũng quên rằng, vô hình trung họ đã công nhận tài năng thi phú của nhà thơ Du Tử Lê.
Trong hai buổi giới thiệu nhà thơ, tôi kể lể dông dài như trên cốt ý để trình bày đôi điều tôi nghĩ về con người Du Tử Lê, và về thơ của ông. Về con người họ Lê, vì mới quen biết ông, tôi không dám đưa ra một khẳng định nào về cá tính. Tôi chỉ nói với cử tọa một cách giản dị rằng nhà thơ Du Tử Lê là một người dễ mến. Tôi trích một đoạn trong bài thơ cuối cùng, cho một người con gái mỹ để chứng minh điều tôi nghĩ. Vào cuối thập niên 1960, trong thời gian đi tu nghiệp ở Mỹ, nhà thơ của chúng ta đã mơ ước một ngày nào đó người bạn gái Donna của ông được "đặt chân trên quê hương anh nhỏ bé":
để mỗi bước chân đi
em sẽ thấy xứ sở anh có phần còn đẹp hơn nước Mỹ
để em nhận ra
không ở đâu có thể có được
một giống dân hiền lành nhưng quả cảm
một giống dân cần cù nhẫn nại
và dễ mến như dân tộc anh
Tôi trích đoạn thơ này để nói rằng khi mới quen biết ông, tôi có cảm tưởng ông là một người dễ mến; và cho đến nay cái ấn tượng đó vẫn còn nguyên vẹn. Tôi có nói với cử tọa, tôi nghĩ, khi trình bày với Donna những đức tính đáng yêu nọ của người Việt Nam chắc hẳn nhà thơ của chúng ta không quên nói với nàng "và dĩ nhiên, anh không phải là một biệt lệ".
Cũng trong bài thơ cuối cùng, cho một người con gái mỹ, họ Lê quả quyết:
không bao giờ đâu Donna
dù anh có yêu em hơn bất cứ thứ gì có trên đất Mỹ
thì anh cũng vẫn trở về
quê hương anh với cả trăm ngàn khốn khó…
Nhiều người nói và viết về nhà thơ Du Tử Lê cho rằng đoạn thơ này chứng tỏ ông là một "người Việt Nam yêu quê hương;" nên đã quyết định trở về. Tôi cũng đồng ý như vậy cho đến hôm giới thiệu nhà thơ ở Seattle. Một ý nghĩ hơi lạ chợt đến với tôi, và tôi đã chia sẻ cùng khán giả. Dĩ nhiên, tôi không dám nghi ngờ lòng ái quốc của nhà thơ. Tôi cũng không dám nghi ngờ rằng ngoài Donna ra, vì vốn là người hào hoa, nhà thơ chắc hẳn còn có các bạn Jane, Nancy, Elizabeth…tất cả đều xinh như mộng. Nhưng tôi có đặt ra một nghi vấn: Nhỡ Donna không có "một mái tóc dài thả xõa", cũng không có "đôi mắt mở to sáng trong nhẫn nhục", mà là một "mệnh phụ" có dư chừng vài trăm cân Anh, đứng làm thâu ngân viên trong PX, lúc nào cũng hằm hè với nhà thơ, thì chuyện trở về của họ Lê chỉ là cái chiến thuật "tam thập lục kế tẩu vi thượng sách” mà thôi. Thật vậy, trong trường hợp đó, chạy lẹ về "chốn quê hương đẹp hơn cả" là an toàn nhất, có phải thế không, hỡi ông nhà thơ?!
Tôi quay sang thơ của họ Lê để tiếp tục câu chuyện đời thường. Tôi không biết nhiều về thơ, nên ở đây tôi cũng chỉ nói với cử tọa một cách ngắn gọn rằng thơ của thi sĩ họ Lê hay, rất hay và hay vô cùng. Sau khi dùng các từ và đoản ngữ này để mô tả thơ của Du Tử Lê, tôi có cảm tưởng một số người trong cử tọa không mấy hài lòng về cách đánh giá đó. Chắc hẳn quí vị này cho rằng nói chung chung "thơ hay, rất hay và hay vô cùng" thì ai lại chẳng nói được. Do đó, tôi vội vàng nói thêm, theo tôi, thơ trước hết phải có sức truyền cảm và, qua lời thơ và ý thơ, có khả năng gợi lên trong lòng người đọc những rung cảm sâu thẳm nhất. Cũng như những giòng nhạc, nếu những vần thơ làm được điều này thì sao ta không thể gọi đó là một bài thơ hay, mà không cần phải phân tích quá kỹ càng? Theo tôi, thơ của Du Tử Lê có sức truyền cảm rất mạnh mẽ. Hơn nữa, hầu hết những bài thơ của ông không quá xa lạ với bản năng chiêm ngưỡng cái hay, cái đẹp của con người.
Chấm dứt bài nói chuyện đời thường, tôi kết luận rằng thi sĩ Du Tử Lê là nhà thơ của hôm qua, hôm nay và ngày maị Sự thực là Du Tử Lê đã bắt đầu làm thơ từ năm mười một tuổi, và tới nay hơn nửa đời người, ông vẫn còn sáng tác rất sung sức. Vì thế, thật khó lòng chối bỏ sự kiện ông là thi sĩ của quá khứ và hiện tại. Nhưng dựa vào đâu để dám nói chắc rằng ông là nhà thơ của ngày mai? Tuy biệt tài của ông là làm thơ, và tuy ông đã chiếm được một địa vị rất vững chắc trên thi đàn Việt Nam, nhưng tôi tin chắc rằng ông sẽ không ngừng viết nên những câu thơ đẹp nhất cho đời. Bên cạnh đó, cũng giống như những người đã trót mang "cái nghiệp sáng tạo" vào thân, ông sẽ cùng họ đi tìm cho ra câu trả lời thỏa đáng để giải đáp thắc mắc "Ta là ai trên cõi đời này?" Vin vào sự tin tưởng đó, tôi xin gọi ông Du Tử Lê là nhà thơ của hôm qua, của hôm nay và của ngày mai.
LM Thạch Sơn Nguyễn Huy Tưởng
Thơ Du Tử Lê Và Tôn Giáo
(Bài nói chuyện về thơ Du Tử Lê tại KC Club, Garland, Texas, Nov., 22-1997)
Nhà thơ là kỹ sư tâm hồn. Trong cõi nhân sinh, Nhà thơ thường là những kẻ mộng du, nhưng đồng thời cũng là nhà thần bí theo đúng nghĩa của từ nàỵ Vì hơn ai hết, Nhà thơ vượt ra khỏi thế giới tầm thường của chúng ta, để đi vào một thế giới trong đó mộng và thực đồng hóa với nhau, và cõi nhân sinh cũng như cõi ta bà hình như là một. Trong rừng thợ thơ hiện nay, Du Tử Lê là cây cổ thụ, nhưng ông không phải là thợ thơ, mà là kỹ sư ngôn ngữ, có chỗ đứng caọ Ông thực sự đã đem lòng mình ra phơi bày cho thiên hạ trong những cảm hứng, và dòng thơ chỉ có những thi sĩ mới viết lên được.
Những dòng thơ chỉ là thơ khi nói lên, và thúc nhắc người đọc đi vào thế giới tâm hồn của thi nhân. Cả người đọc lẫn thi nhân cùng chung một tần số của thông cảm, mộng mơ và hiểu nhau trong sứ điệp tình yêụ
Người đọc thơ cũng như người thưởng ngoạn thường có cái nhìn khác nhaụ Đối với một người tôn giáo, cái nhìn đó cũng méo mó nghề nghiệp, và thường chỉ để ý những gì liên quan đến mình và niềm vui của mình.
Ngôn ngữ của Du Tử Lê về tôn giáo, nói riêng về Đạo Chúa rất chuẩn. Nếu người ta không biết ông không phải là người tin Chúa, sẽ cho ông là người đạo dòng. Những ngôn ngữ về tôn giáo ông dùng là những câu kinh chỉ có người có đạo dòng mới hiểu được ý nghĩa của chúng, và hiểu tận tình.
Có thể ông có quen một người có tôn giáo tin vào Chúa; và người đó phải là bạn thân của anh, đến nỗi những từ về tôn giáo hình như đã đến với ông tự nhiên như hơi thở.
Chúng ta có nhiều Nhà thơ Thiên Chúa Giáọ Nhưng Du Tử Lê đã dùng những từ tôn giáo bình dân nhất, nhưng cũng nên thơ nhất, vì nó mang theo những ý nghĩa tự nhiên và bình dân.
Thí dụ trong bài thơ dưới đây, ông viết:
tôi tầm gửi trên nỗi sầu nhân thế
trái cây nào em hái được không vuỉ
giây tội lỗi quấn quanh cành địa ngục
thăm thẳm em: đầy nỗi niềm tôị
(Trích tập Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, trang 17)
Đây là ý niệm tôn giáo về trái cấm Evà đã ăn trong vườn địa đàng, và đã làm cho cả nhân loại đau khổ. Nhưng người yêu của Du Tử Lê đã không dám hái trái cấm của tội lỗị Bởi vì nàng là Thánh Nữ của đời ông.
Chính vì nàng muốn được phục sinh như Nhà thơ đã viết:
ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi xin người sớm phục sinh tôị
(Sđd., trang 16.)
Quan niệm phục sinh là quan niệm hoàn toàn Kitô giáọ Theo đó, con người ta sẽ sống lại sau cơn chết thế gian này và khi Chúa trở lại trong ngày thế mạt. Nhà thơ không ngần ngại xin được sớm phục sinh để cùng người yêu dấu chung hưởng hạnh phúc.
Trong bài Thơ ở tro than, Nhà thơ viết:
đời muôn cửa tôi chọn về địa ngục
thiên đàng em bỏ lại đã hoang tàn
ai nắng gió trên cảnh đời kẻ đó?
mà tôi ngồi điếng lặng giữa tro than.
(Sđd., trang 26)
Khái niệm thiên đàng và địa ngục có từ Kinh Thánh Kitô giáọ Thiên đàng chính là nơi có tình yêu thương; trong khi địa ngục chính là nơi dành cho những người không yêu thương, hay không được yêu thương. Họ đã từ chối thiên đàng khi không chấp nhận yêu thương trong cuộc đời mình.
Trong cõi nhân gian không thể hiểu, nhiều lần Nhà thơ hỏi Chúa; hỏi trăng sao về ý nghĩa cuộc đời, và trong nỗi thất vọng có thể vì tình yêu đi xa, nên ông đã không ngại ngùng viết:
hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay
tôi buồn như phố cũ như tay
bàn chân từng ngón ngưng không thở
lạc mất đường đi tạnh dấu bày
hỏi Chúa đi, Ngài sẽ trả lời
trong tay Thánh Nữ có đời tôị
(Sđd., trang 71)
Thánh Nữ đó đã trở thành từ mẫu như người mẹ hiền mang sữa ngọc nuôi con, sữa của tình yêu và cay đắng. Nhưng là sữa để nuôi sống cuộc đờị
ôi Thánh Nữ đi bên lề nắng gió
đã chẳng cùng, thôi! hỏi tới nhau chi
ta đọa lạc ngay phút vừa mở mắt
em có là từ mẫu của riêng tả
Trong một phút giây nào đó, Nhà thơ đã quay về với tôn giáo như là một nơi giải thoát. Tuy nhiên, sự giải thoát đến từ một người chịu đóng đinh trên thập tự, và ông khẩn khoản:
trên tay Chúa dấu đinh người bị đóng
cuối đời tôi than củi đã thành tro
em chẻ nhỏ khối tình tôi lỡ gửi
nhóm nổi không (?) một ngọn lửa oan
cừụ Người em của Thi sĩ là người em trinh khiết trong mối tình trong sáng như pha lê. Một mối tình không hề mong đáp trả:
đừng nhìn tôi nữa em vô nhiễm
ruộng máu tôi còn nguyên. Luống tươi
có đâu cứu chộc mà em đợi
đi hết đời dư vẫn ngậm ngùi
(Sđd., trang 109)
Ruộng máu là Haceldamam. Trong Kinh Thánh thửa ruộng do món tiền bán Chúa của Giuda mua lại của người thợ gốm. Nhưng ruộng máu trong thơ Du Tử Lê chính là cuộc đời ông nhiều thống khổ, mà cái da diết lớn lao là mối tình của em vô nhiễm.
Cũng trong bài đó, bàng bạc những từ ngữ tôn giáo:
đừng nhìn tôi nữa em vô nhiễm
lồng lộng chân trời một vết son
với tôi đã đủ, sau hồng thủy
nguồn cội tôi tìm trong tóc em
(Sđd., trang 109)
Sau cơn hồng thủy chỉ còn gia đình Noe sống sót, trong đó có chúng tạ Sau cơn hồng thủy nhân loại đã có một liên hệ hòa bình với thượng đế. Liên hệ cho phép họ nhìn cầu vồng của hy vọng một thế giới thực sự vô nhiễm, không tội lỗi của hận thù khi con người là sói dữ của con ngườị
Chỗ khác ông viết:
đừng nhìn tôi nữa em vô nhiễm
bánh thánh là em. Tôi đã ăn
đêm đêm ngồi nhớ đôi vai thẹn
rung dộng vì tôỉ Hay trối trăn?
(Sđd., trang 110)
Bài thơ Hồn ẩn mật đã gửi người trước đó có rất nhiều từ ngữ tôn giáo:
em vô nhiễm. Ngón chân ngoài Cựu Ước
trong lòng tôi chiều dạt Phúc Aâm buồn
nhân danh em: xin những cặp tình nhân
trên mặt đất sẽ không còn ly biệt.
em vô nhiễm. Tóc bay đầy Tân Ước
tôi xin người cho những kẻ xa nhau
có lại thương yêu - hồn mới, nhiệm mầu
như em đã dìu tôi vào bí tích
em vô nhiễm. Môi trần gian thảm kịch
tôi hôm nay trở lại kẻ tân tòng
mộng như gương. Lòng như giấy trắng,
trong
xin vẽ xuống giấc mơ nào đẹp nhất
em vô nhiễm. Bị đinh đời đóng suốt
bởi chọn tôi, một kẻ giống Giuđa
tôi bán mình, nhưng không bán thiên thu
hồn ẩn mật đã gửi người trước đó
em vô nhiễm. Biển. Đêm. Trăng tiểu
thuyết
mắt thi ca son trẻ. Tim Mỵ Nương
tôi quỳ đâỵ Trân trọng. Rất thánh đường
xin chịu lễ trước người như bánh thánh.
(Sđd., trang 114)
Trong bài thơ vừa qua, chúng ta đọc được nhiều từ ngữ tôn giáo như: cựu ước, tân ước, phúc âm, bí tích, tân tòng, Giuđa, chịu lễ, và bánh thánh.
Những từ ngữ này rất nên thơ và tự nhiên trong dòng thơ của Thi sĩ làm cho chúng ta nhớ lại một Nhà thơ Thiên Chúa Giáo là Hàn Mặc Tử.
Thi sĩ là người gần với huyền nhiệm, và họ đã có những ngôn ngữ mà trong cõi nhân gian không thể hiểụ Nhưng vì họ đã lên cao, nên họ đã cùng hướng về một chân lý, trong đó, mọi người đều thấy rằng:
Ở chỗ nhân gian không thể hiểu / tôi với người chung một trái tim.
Nhân sinh quan của Du Tử Lê chính là tình yêu:
cho tôi hát cùng em bài hát cũ
bài ngợi ca Thiên Chúa ở trên trời
để tôi về cầu nguyện với Ngôi Hai
cho ta sống một ngày như mấy kiếp
cho tôi viết cùng em trang sách ước
bằng một tên (chung gọi cả hai người)
em cấm phòng để cứu rỗi cho tôi
và hành khổ cho đời sau ý nghĩa
(Trích trong tập Đi với về, cũng một nghĩa như nhau, trang 22)
Thi sĩ thường có trực giác bén nhậy, cho ông thấy căn bản của cuộc đời chính là tình yêụ Vì tình yêu người ta có thể hy sinh tất cả. Hy sinh luôn cả tình yêu:
Thư vạn dặm mà hương lừng giấy mới
em vì tôi từ chối chọn thiên đàng
em vì tôi thập tự giá xin mang
đi suốt kiếp với Tin Mừng sáng dội
(Sđd., trang 27)
Trong cõi nhân sinh của Du Tử Lê tình yêu là nữ hoàng, là thánh nữ, là bảo ngọc, trân châu, và chỉ con người thi sĩ mới dám sống và chết cho tình yêu ấỵ
Đọc thơ ông người ta có cảm tưởng ông ca tụng tình yêu, vì có thể trong cuộc đời, ông thành công trong phương diện tình yêụ Tuy nhiên đây là thứ tình yêu của thi sĩ: tình yêu tuyệt đối, luôn đẹp; và thơ tình yêu không cần ngôn ngữ để diễn tả; cũng không cần những dòng thơ để nói lên, vì trong con người thi sĩ đã có tình yêu xác thịt; có những rung động, chất ngất rất người, mang nhiều đặc tính của thần bí và huyền nhiệm.
Trong thơ của Du Tử Lê khi nói về tôn giáo, ông cũng nói tới tình yêu theo ý nghĩa tôn giáọ Thứ tình yêu mà tiếng xarx của Thánh Kinh muốn diễn tả. Thứ tình yêu cụ thể rất người, mà thiên chúa tình yêu muốn tỏ cho con người, đã không ngần ngại mang lấy một thân xác để thánh hóa và cho nó một vẻ đẹp tuyệt đốị
Ngôn ngữ thơ của Du Tử Lê không phạm thánh, cũng không xúc phạm đến các đấng tối cao trong các tôn giáo, điều này cho thấy tâm hồn Thi sĩ là tâm hồn Việt Nam đích thực trong tinh thần bao dung, và chấp nhận tất cả của người Việt Nam luôn hiếu khách, hòa bình với mọi dân tộc và ý thức hệ.
Theo Trần Bát Nhã: “...Những bài thơ mượn cửa ngõ thần linh để tỏ tình cho ta thấy tôn giáo đối với ông như một cái cớ, một chiếc cầu liền nhịp để ông và những “Thánh Nữ,” những “Bồ Tát,” hiểu theo một nghĩa nào đó, trở thành một thứ đạo yêu, vượt trên những tầm thường nhân gian, với nhiều điều rất lạ, nhưng chưa hề phạm thánh.”
bằng tin kính của tông đồ thứ nhất
tôi xấp mình đón đợi bước em qua
đêm thồ ngựa tìm đường lên Núi Sọ
gặïp hồn mình treo cổ giữa truông ma
bằng tin kính của tông đồ khổ lụy
nhận tôi đi, em ạ, chớ quay đầu
(Phúc âm ngoại giáo)
cây Thánh giá có một đầu rất nhẹ
Chúa không kêu ai vác hộ bao giờ
em quay mặt khước tình tên ngoại giáo
đâu biết rằng Chúa khổ biết bao nhiêu
(Thập tự nàng)
Cũng theo Trần Bát Nhã: “Du Tử Lê đã mang nghệ thuật vào tôn giáo, thoát khỏi lối suy nghĩ thông thường, thói quen sợ sệt, ám ảnh phạm tội, lòng tôn kính thiêng liêng xa vời, nếp tư duy cũ kỹ, giáo điều gia truyền...”
Trong thơ ông, tôn giáo thật đáng yêụ Và khi người ta yêu nhau thì đó cũng là một thứ tôn giáọ Tôn giáo của con ngườị Tôn giáo rất người, và rất trang trọng như Chúa ở cùng ngườị
“Chúa thật gần gũi, bình thường, nhưng cũng thật đáng tin cẩn, hãy tin ở Chúa, hãy hỏi Chúa khi không còn biết tin ai:
Hỏi Chúa đi, rồi em sẽ hay
Hỏi Chúa đi, Chúa sẽ trả lời
...............................................
“Du Tử Lê nghĩ về Chúa một cách chân thành không mặc cảm.”
Có người đã nhân danh tôn giáo mà lên án con ngườị Tôn giáo đích thực không phải thế. Tôn giáo đích thực làm con người gần nhau, và nếu có thứ tôn giáo nào làm người ta xa nhau là do con người tôn giáo chứ không do tôn giáọ Cũng trong ý nghĩ đó mà thi sĩ viết:
em quay mặt khước tình tên ngoại giáo
đâu biết rằng Chúa khổ biết bao nhiêụ
Để kết luận tôi xin mượn lời Linh Mục Nam Hải: “Mai mốt khi chết đi, nếu tôi được lên thiên đàng mà Du Tử Lê đọa địa ngục, thì tôi sẽ năn nỉ Thượng đế xin cho Du Tử Lê được lên thiên đàng cùng với tôị Lý do tôi sẽ nêu ra để trình Thượng đế là, nơi trần thế, Du Tử Lê là người làm thơ rất haỵ Đầy một người như Du Tử Lê xuống địa ngục thì quá mức tội nghiệp cho Thi sĩ.”
Nhưng tôi vững tin rằng các thi sĩ phần lớn lên thiên đàng; vì chỉ có Thi sĩ mới thấy, mới trực giác, mới cảm và rung động với cõi vô cùng của thần bí và linh thiêng.
Garland, tháng 11-1997
Kỷ niệm 27 năm chịu thánh chức
Rev. THẠCH SƠN - NGUYỄN HUY TƯỞNG.
long ân
du tử lê, bạn tôi
Tôi sẽ không nín thở khi viết về Du Tử Lê. Tôi nghĩ rằng, lâu lâu, chúng ta cũng nên để cho cái cuộc đời vốn rất phiền muộn này, một vài cơ hội có những nụ cười thoải máị Du Tử Lê ở con người thi sĩ, ở con người tình nhân, ở con người bằng hữu, đều có những nụ cười rí rỏm. Du Tử Lê sáng rực ở cả ba con người đó.
Tôi vẫn nói với Du Tử Lê, tôi thích Cậu Lê ở thơ tình: cõi tôi, cõi nát, cõi tàn / cõi hoang mang, vội; cõi bàng hoàng, qua / Hoặc: đêm về theo bánh xe lăn.../ mà Cậu Bùi Bảo Trúc bảo là hen-đi-kép. Tôi bảo, Cậu Lê hãy sống thời đạị Lê cười, thì ông chẳng vẫn đồng ý với tôi: thi sĩ là con người cách mạng, luôn luôn mở đường khai lối, luôn luôn đi vào tương lai hay saỏ Tôi bảo Cậu Lê là Cậu phải nhờ tay chân đỡ cho ngôn ngữ. Những cái chấm, những cái phẩy, những cái Sì-lát của Cậu, ở một khía cạnh nào đó, là những cái vung tay, những cái đập bàn. Cậu là ông Socrates khi hùng biện phải làm động tác tay chân. Người ta vẫn có thói quen ngâm thơ theo trí nhớ. Cậu Lê bắt thiên hạ đọc và xem thơ, mới hiểu hết những điều bên cạnh từ ngữ thơ của Lê. Tuy nhiên, sáng tạo là những mắt nhìn vào tương lai, là đổi mớị Chúng ta đang ôm cứng quá khứ, và cái kiến trúc thơ hôm nay đã mục nát, rã rời, rất cần phải thay đổị Bây giờ, một đôi khi, nhìn trái, nhìn phải, tôi đã chợt thấy thấp thoáng bóng dáng Du Tử Lê trong rất nhiều bài thơ của những người làm thơ hôm naỵ Họ đã chọn sống thời đại, hay lăn xả vào tương lai của họ.
Ở người tình, Du Tử Lê là con người chân thật, chung thủỵ Du Tử Lê không bao giờ phụ bạc tình yêu, nên Du Tử Lê bị tình yêu tràn ngập. Một hồ nước không có đường thoát. Tôi có thể nói, ta chấm bất cứ một tọa điểm nào đó trên bản đồ có đông người Việt. Chắc chắn ở đó có một người yêu Du Tử Lê. Tại saỏ Tại ngườỉ Tại thơ? Hay tại một cái gì khác? Cái gì khác đó, có thể nằm trong câu chuyện dưới đâỵ
Trong một chuyến bay từ LAX lên xứ San Jose, tôi biết tính bạn tôi, nên dặn dò: “Chuyến bay chỉ dài hơn nửa giờ, tôi vô toa-lét tôi “phi” một cái là tới nơi rồị Cậu ngồi yên đừng táy máy tay chân, táy máy mồm miệng...” Khi ở toa lét ra, tôi thấy bạn tôi “đã” rù rì với một cô bé mà lúc lên phi cơ, tôi nghĩ là con cháu ông Kim Đại Hàn, hay ông Tanaka Nhật Bản gì đó. Khi phi cơ hạ cánh ở San Jose, bạn tôi lịch sự như ông Tây Chirac, bạn tôi đòi xách cái va li to bằng co nheo sữa cho nàng.
Tôi thấy cần phải nói về cái phi trường San Jose năm đó. Nó “nhà quê” cỡ như phi trường Phụng Dực của xứ Buôn Mê Thuột ta ngày nàọ Phi cơ đậu tít ngoài xa, cửa mở, mời “quý khách” đi bộ về phòng đợị Đoạn đường cũng chẳng bao xa, chỉ độ nửa dặm trường là cùng. Bạn tôi tay trái nắm sắc của mình, tay phải đeo cái va li của nàng. Chỉ mới đi được đâu nửa cái “nửa dặm trường” thì đã thở hắt rạ Bạn tôi nhìn tôi cầu cứụ..
Tôi lạnh lùng như buổi sáng mùa đông ở Ca Li:
Cậu Lê làm thì Cậu lê chịụ Cậu Lê tạo nghiệp thì Cậu Lê thọ quả...
Khi bạn tôi thu hết tàn lực, lết được vào đến phòng đợi của phi trường, thì “kép” của nàng đã đợi sẵn ở đó. Kép nàng hầm hầm nhìn cậu Lê, như muốn ăn tươi nuốt sống. Không “bái bai” gì cả. Hai đàng chia lỵ Nhưng câu chuyện không chấm dứt ở đâỵ Buổi tối hôm đó, khi Cậu Lê ra mắt sách, nàng đã tìm đến theo lời hẹn hò. Và, tôi ngạc nhiên vô cùng khi nhìn trước nhìn sau, vẫn không thấy gã kép đẹp như Phan An, Tống Ngọc của nàng đâu cả.
Du Tử Lê ở cương vị một người bạn cũng có nhiều nét thú vị. Du Tử Lê là người bạn không bao giờ bỏ ta trong những lúc nguy khốn. Nhưng nhiều khi trong những lúc nguy khốn, muốn “chém vè,” mà ta lại phải cõng thêm bạn ta mà chạy, thì cũng vất vả vô cùng.
Nếu mỗi người tự đóng lấy cho mình một nhãn hiệu để nhận dạng, thì chúng ta có thể nhận dạng Du Tử Lê ở ly cà phê trên tay. Nếu Cậu Phan Nhật Nam bảo, ăn món cá hấp này, bác phải dùng vang trắng; nếu cậu Nguyên Vũ bảo, ăn xì tếch, bác phải uống rượu vang đỏ..., thì cậu Lê quanh năm...cà phê. Ăn phở cũng cà phê. Bánh cuốn, cũng cà phê. Tỉm sấm, cũng cà phê. Hem bơ gơ, cũng cà phê...chứ không gì khác!
Du Tử Lê thường dành cho bạn hữu nhiềụ..bất ngờ. Ôi, cái cuộc đời buồn nản này mà không có những bất ngờ thì nó sẽ buồn nản đến cỡ nàỏ Đến với Cậu Lê mỗi người đều phải luôn luôn sẵn sàng ở thế...tác chiến. Cậu Lê rủ xuống phố đi uống cà phê, nhưng tới nơi, có thể bị Cậu Lê mời lên sân khấu nói về thơ Cao Bá Quát hay một ông thi sĩ mà bạn chưa biết mặt, biết tên bao giờ. Cậu Lê rủ bạn đi nghe nhạc, nhưng đến nơi, có thể bạn được Cậu Lê đưa cho cái micro, đẩy ra sân khấu, làm ông M.C. rất bối rốị
Một lần cậu Lê gửi giấy mời tôi đi dự tiệc ra mắt...của Cậu lần thứ N+X. Tôi bảo, nếu lần này nghiêm chỉnh và không có lần khác thì tôi mới đị Cậu Lê bảo “chắc chắn.” Chiều thứ bảy, tôi bỏ ba chân mạt chược đang giữa gió Nam, hớt hải phóng xe đến nhà hàng Kono ăn...cưới cậu Lê. Tôi tới trễ. Cậu Lê và một đám bạn hữu đợi trước cửa nhà hàng. Cậu Lê mặt mũi khó đăm đăm: “Hôm nay ông đứng...chủ hôn cho tôi mà ông lại tới trễ...” Tôi luôn luôn sẵn sàng một vở kịch. Tôi lên sân khấụ Tôi cám ơn quan khách. Tôi dắt tân lang và tân giai nhân đi chào hai họ từng bàn...
Hôm trước, tôi đứng “chủ hôn” cho Cậu Lê. Hôm sau đi uống cà phê, Cậu Lê đã gọi tôi bằng “màỵ” Và buổi chiều đi ăn phở Nguyễn Huệ, tôi gặp ông Mai Thảo, (vừa mới qua đờị) Ông này dọa: “Nó ghi sổ đen tất cả những thằng nào đi ăn cưới thằng Lê...” Tôi chẳng biết “nó” là aị Nhưng tôi cũng cảm thấy rờn rợn.
Bạn tôi, Du Tử Lê, là như vậỵ Rất bình dị. Rất hồn nhiên. Rất con ngườị Và rất nhiều tính trào lộng.
LONG ÂN
(2-98.)
Tam Thanh
Cõi Tôi Nơi Du Tử Lê
(Không có bài)
Lê Văn Ninh
Tính Thủy Chung: Tương Quan GIữa Dời Sống hằng Ngày Và Thơ Tình Du Tử Lê
(Bài nói chuyện trong buổi Thơ Nhạc Du Tử Lê do Hội Người Việt Cao Niên, Austin, Texas. tổ chức
ngày 10-1-98)
“Du Tử Lê đã chung thủy chọn lựa cho mình một hướng đị Ông tình nguyện dành trọn
cuộc sống cho văn chương, cho chữ nghĩạ”
LVN
(......)
Tôi không phải là nhà thơ, nhà văn, cũng không phải nhà phê bình văn học, nên những nhận xét của tôi về thơ Du Tử Lê chỉ là dựa vào mối thâm tình bằng hữu, có thể rất chủ quan.
Như chúng ta đã rõ, Du Tử Lê làm thơ, viết văn rất sớm và cũng rất kiên trì. Trong suốt 40 năm qua, ở quê nhà cũng như ở hải ngoạị Những tác phẩm của Du Tử Lê, dù là thơ hay truyện đều xoáy quanh những mối tình; những mối tình thật, có tính cách riêng tư của nhà thơ, đã sống qua bằng hơi thở, bằng xúc cảm của ngũ quan, chứ không phải bằng những mảnh tình tưởng tượng của một số thi nhân hay văn sĩ mà ta thường thấỵ
Trong số những tác phẩm đã xuất bản với hàng trăm bài thơ rất được ưa thích, tôi nhận thấy một nét rất đặc biệt, rất Du Tử Lê, đó là Sự Thủy Chung Trong Thơ Tình Du Tử Lê.
Có lẽ quý vị sẽ thắc mắc, tại sao tôi lại có một nhận xét lạ đời về một con người nổi danh đào hoa, “nòi tình” như Du Tử Lê? Cùng một lúc, Du Tử Lê không những có một, hai, mà ba bốn người tình... mà gọi là chung thủy ư? Và trong suốt 40 năm qua, đã có biết bao nhiêu mối tình chính thức, công khai, và biết bao nhiêu mối tình kín đáo chỉ có Du Tử Lê và một số rất ít người biết đến?
Nơi quê nhà, Du Tử Lê đã có những mối tình sôi nổi, sóng gió! Sau 1975 tại Hoa Kỳ, cũng đã có những cuộc bão tình được nhắc nhở rất nhiều trong giới văn nghệ sĩ! Nhưng tựu trung, đối với Du Tử Lê, chúng ta không thấy những vụ đánh ghen dữ dội, làm chấn động dư luận như vụ đánh ghen của cô Quờn tẩm xăng đốt chồng, hay vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át xít vào mặt ở Sài Gòn. Phải chăng đó cũng nhờ vào cái tài, khả năng đặc biệt Du Tử Lê, ngoài thi tài trác tuyệt của nhà thơ, đã hóa giải được mọi hờn ghen, giận dữ?
Gần đây, trong lúc tâm sự. Du Tử Lê đã thú nhận ông rất may mắn trong vấn đề nan giải nàỵ Cuộc sống gia đình ông tương đối được êm ấm có thể cũng là nhờ vào sự thủy chung trong tâm hồn của nhà thơ như chúng tôi đã nhận xét chăng?
Đọc thơ Du Tử Lê, chúng ta sẽ thấy rõ hơn sự thủy chung này, vì đó chính là ưu tư, là tiếng nói, là cuộc sống đích thực của ông. Sự thủy chung đó, không những thể hiện trong thơ tình yêu cho người yêu, cho gia đình, cho quê hương đất nước mà còn rất đậm đà trong tình bằng hữụ
Lúc ở tuổi thanh xuân, tình yêu lứa đôi đang nồng nàn thắm thiết, thì cũng vì cái “nòi tình” mà người yêu bỏ đi, để lại cho nhà thơ bao nỗi nhớ thương, tuyệt vọng. Đấy là lúc để nhà thơ tỏ tình tha thiết nhất:
...
Hãy nói về cuộc đời
tình yêu như lưỡi dao
tình yêu như mũi nhọn
êm ái và ngọt ngào
cắt đứt cuộc tình đầu
Thụy bây giờ về đâủ
...
Tôi là chim bói cá
Em là ánh trăng ngà
Chỉ cách một mặt hồ
mà muôn trùng chia xạ..
(Khúc Thụy Du, Thơ Du Tử Lê, Anh Bằng phổ nhạc)
Hình ảnh ánh trăng và mặt hồ tuy đơn sơ, đã gói trọn tâm trạng tuyệt vọng nhưng thật là thủy chung của nhà thơ.
Cũng vì sự thủy chung, tôn thờ tình yêu mà nhà thơ đã thăng hoa người tình thành Thánh Nữ:
Ôi Thánh Nữ đi bên lề nắng gió
đã chẳng cùng, thôi! hỏi tới nhau chị
Sự thủy chung của Du Tử Lê không chỉ giới hạn ở tình yêu nam nữ, mà chúng ta còn tìm thấy sự chung thủy nơi tình yêu dành cho những người thân khác trong gia đình như trong bài thơ: “Thấy Bình Minh Trên Sa Mạc Utah, Nhớ Mẹ Già”:
gọi ai gió nổi bốn trời
chiếc nhau tôi lạnh phía đời bên kia
mẹ nằm lặng lẽ trong khuya
lắng nghe biển dội lời thì thầm, quên
xương tàn một rúm chưa quên
cố lay lắt sống để đền lỗi con...
Đấy là nỗi thao thức, niềm ăn năn khôn nguôi của một người con biết mình không làm tròn phận hiếu với mẹ già.
Đối với những người con còn sót lại ở quê nhà, niềm xót xa thương cảm thật là sâu đậm:
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp lại các con tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng tốị
Tình yêu quê hương đất nước đối với Du Tử Lê cũng thật là nồng nàn, tha thiết như trong bài thơ “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển”, vừa kể:
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì.
Bài thơ trên Du Tử Lê sáng tác vào năm 1977, khi nhà thơ lưu vong tỵ nạn của chúng ta không còn chút hy vọng trở lại quê hương thân yêu một lần cuối trong cuộc đờị
Trước năm 1975, khi còn là anh sinh viên du học nơi xứ Mỹ văn minh tiến bộ nhất nhân loại, đầy đủ tiện nghi và được sự thương yêu của người tình mắt xanh, tóc vàng tên Donna thật dễ thương, nhà thơ của chúng ta vẫn thủy chung với đất nước nghèo khó của mình:
không bao giờ đâu Donna, Donna
dù anh có yêu em
hơn bất cứ thứ gì trên đất Mỹ
thì anh cũng vẫn trở về
anh vẫn phải trở về quê hương anh
cái giải đất khô cong hình chữ S
...
cái giải đất rách nát nghèo đói vì chiến tranh
liên tiếp hai mươi năm
...
nơi mẹ anh đã già, một đời cơm ăn chan bằng nướt mắt
nơi anh em, nơi chú bác, cô dì gần xa ruột thịt
đã và còn đang từng giờ gục ngã
chiến đấu cho sự trường tồn
và lý tưởng tự do của giòng giống
...
không bao giờ đâu Donna, Donna
dù anh có yêu em
hơn bất cứ thứ gì có trên đất Mỹ
thì anh cũng vẫn trở về
quê hương anh ruộng cằn đất cỗi
người chưa lớn đã già
trẻ chưa cao đã cọc...
(Vỡ Lòng Cho Một Người Con Gái Mỹ, Thơ Du Tử Lê)
Trong thời gian mươi năm trở lại đây, sự thủy chung của Du Tử Lê chỉ hướng vào bạn bè, thân hữụ Hầu như mỗi bài thơ mới, nhà thơ đều lấy cảm hứng tại những nơi chốn với bằng hữụ Du Tử Lê đã đánh dấu những thâm tình ở mỗi bài thơ bằng ghi chú như : “gửi thầy tôi, thầy nx.vinh...” hay “và lv.ninh, đt.pháp” hay “và nq.ngọ” v.v...
Những buổi ra mắt liên tục thơ, nhạc Du Tử Lê ở khắp mọi nơi trên đất Mỹ, Canadạ.., như buổi thơ nhạc ngày hôm nay là một chứng tích hùng hồn cho sự thủy chung trong tình bằng hữu của Du Tử Lê.
Không phải chỉ chung thủy với những thân hữu mới thành đạt, mà là với tất cả bằng hữu từ thời thơ ấu ở mọi ngành, mọi giớị
Bây giờ tôi xin trích đọc toàn bài Thơ Ởû Một Thời Của Những Người Không Tuổi Trẻ mà Du Tử Lê đề tặng rất nhiều người để nói lên cuộc sống tình cảm với bằng hữu của nhà thơ lúc tuổi chiều xế bóng, nơi đất lạ quê người:
chúng tôi lớn : còi cây rừng, cỏ dại
tuổi thơ chưa kịp ngọt đã chua, lè !
mỗi trang sách bật lên nghìn dấu hỏi
nguyên không gian chưa chỉ dấu đi, về
chúng tôi lớn vào đời không lựa, chọn
hoa tình cờ nẻ đá mọc hoang mang
suối không mạch; thác không nguồn; chảy ngược
ngón vực ngờ khỏ vỡ trán cô đơn
chúng tôi lớn : ửng mặt trời đáy ngực
ngông nghênh chê lạch nhỏ. Vượt biên, thùy
trí vạm vỡ : khinh ba chiều hạn, hẹp
(dù tháng ngày : thường trực ủ ê khuya !?!)
chúng tôi lớn : sông ngàn năm đứt khúc
thồ nỗi buồn lên núị Cột mây chơi
dăm đứa mượn lời ca và nốt nhạc
rất nhiều thằng vui súng, đạn, khơi khơi
thằng yếu đuối núp vô màu áo đạo
đứa hoang đàng chết tốt bụng dao phay
tên khụng khượng hỏi :- Đâu rồi Thượng Đế ?
đứa lên rừng. Đứa kèm trẻ, xâm tay
chúng tôi lớn : nứt xương rồng, sa mạc
tìm văn chương làm hố lấp tâm hồn
chữ với nghĩa có đâu là lối thoát
dăm đường dao, nhát cọ cũng hư , không
chim làm tổ. Chúng tôi tìm khói thuốc
mửa mặt đờị Nôn thốc tháo nhân sinh
thằng sở Mỹ lên gân. Thằng xách cặp
tên lao công : trốn lính. Đứa dại hình
năm mươi tuổi : hai mươi năm lưu lạc
những anh hùng, tài tử hóa lem. nhem
đời dẫu nhận hay xua thì cũng vậy
chúng tôi buồn hơn núi thọ tang sông
năm mươi tuổi : chúng tôi không tuổi trẻ
thiếu quê hương : - phế bỏ võ công mình.
(Portland, Seattle 8 - 93)
Du Tử Lê như ta thấy, dù với bất toàn nào trong cuộc đời, vẫn là một nhà thơ, một thi sĩ lớn của thời đại chúng tạ Như Mai Thảo, một nhà văn lớn, một nhà thơ lớn đàn anh, đã viết về Du Tử Lê như sau:
“ Và tiếng thơ Du Tử Lê bây giờ, theo tôi là tiếng thơ vô địch. Hắn bỏ lại sau lưng những người cùng thờị Trong sự bỏ lại sau đó, có cả tôi nữạ Tôi ví thơ Du Tử Lê là Tiếng Thơ Aùo Vàng. Và ngôi vị vô địch của Du Tử Lê, tôi nghĩ khó ai có thể theo kịp hay thay thế nổị”
(Mai Thảo -30.01.94)
Du Tử Lê đã chung thủy chọn lựa cho mình một hướng đị Ông tình nguyện dành trọn cuộc sống cho văn chương, chữ nghĩạ Suốt cuộc đời, Du Tử Lê đã thủy chung với Thơ và theo tôi nghĩ, Du Tử Lê đồng nghĩa với Thơ. Chữ Thơ Viết Hoa!
LÊ VĂN NINH.
(Dallas 1-97)
ORCHID LÂM QUỲNH –
Bố Du Tử Lê, Và Không Thể Đời Thường Hơn
Orchid Lâm Quỳnh
Viết về Bố Lê mà lại viết về đời thường, là đề tài mà tôi rất muốn viết xuống; vì có quá nhiều điều để ghi lạị Tuy nhiên, tôi chỉ xin ghi một số điều chợt đến với tôi mà thôi.
Bố Lê có rất nhiều phone mỗi ngàỵ Tôi và mẹ phải nghe giùm bố. Bố rất lười nghe phonẹ Buồn cười là có 90% người gọi không phân biệt được giọng tôi và mẹ, ngoại trừ Bác Bùi Bảo Trúc và các... cô. Tôi không biết có khi nào Bác Trúc đã gọi mẹ tôi là “con” chưả Nhưng lần nào khi tôi nhắc phone, Bác Trúc cũng chắc chắn: “Bé Q. hả?”. Không như Bác Đăng Khánh, bao giờ cũng rụt rè: “Đây là mẹ hay con?”. Hoặc tệ hơn nữa, Bác Mai Thảo: “Ai đầu giây đó?” Là sao, có phải là không phân biệt được tôi, mẹ và bố nữa à? Tôi không biết, mà có muốn biết cũng không còn dịp nữa! Ngày Bác Mai Thảo mất, gia đình tôi chắc phải có hàng trăm người gọi phone đến; luôn cả mấy tháng sau đó.
Bố Lê dậy rất sớm, khoảng 7 giờ 30 sáng, và ngủ khoảng 10 giờ 30 tốị Cứ thế, phone reng từ sáng tớị.. tốị Từ trong nhà ra ngoài sân, từ phòng khách đến nhà bếp, nhà tôi (nhà đàng hoàng, không phải garage như Chú Khánh Trường đi rêu rao cùng làng khắp xóm đâu), chỗ nào cũng để phone, 4, 5 cái cho Bố tiện nói chuyện. Số lượng người gọi khoảng 30, 40. Có ngày cao hơn; trong đó, một nửa là... phụ nữ!
Cho đến hôm nay thì tôi và mẹ có thể đoán chính xác đến 99.9% ai là người ở đầu giây bên kiạ Khi Bố tôi chỉ mới nói một, hai câu đầụ “Anh ạ”, thì nhất định là Bác Nguyên Sạ (Hồi xưa, câu chào đó cũng có nghĩa là Bác Mai Thảo). “Bạn tôi”, là Bác Huỳnh Thái Bình, Phạm Gia Cổn... “Anh Lê đây”, là Chú Nguyễn Kim Long, ở Seattle, Đỗ Văn Trọn, ở San José,... “Thủ trưởng”, là Bác Nguyễn Hữu Trí đài VOẠ “Lê đây”, cái này thì phải tùy theo âm điệụ Nếu vui vẻ, mừng rỡ, vồ vập... thì đó là Chú Võ Thành Đông, Đăng Khánh... Nếu xa vắng, rụt rè, nhẹ như tơ, thì bên kia nhất định phải là một cô hay một cố... nhân. Nếu bàn ghế, ly tách, đồ đạc... rẫy nẩy lên từng chập vì tiếng cười của Bố, thì đó là bác Bùi Bảo Trúc, Phạm Nhuận, hay Chú Ngô Hành Sơn... Nếu bố tôi hỏi lại nhanh nhẩu “mấy giờ? Ở đâủ bao nhiêu ngườỉ thì là Chú Khánh Trường gọi đi ăn, với xác quyết: “Muốn rủ thêm mấy chục người cũng được”, và tiền ăn... sáng lần này tăng thêm 100 nữa, tức là “dưới 800 đô thì OK”. Nếu quá 10 phút mà phone không reng, thì nhất định 100% phone nhà tôi có troublẹ
Tuy dậy rất sớm, nhưng Bố tôi phải mất 2 tiếng sau, khi khói thuốc um nhà cửa, ly cà phê lần thứ hai đã cạn, và lòng thì quá cỡ áy náy nếu phải nhờ đến mẹ lần thứ ba lấy cà phê, Bố mới ra khỏi giường, cái khó là ra khỏi giường. Còn sau đó, Bố tôi làm việc như một cái máỵ Bố giải quyết tất cả mọi công việc: viết tin, đọc tin cho đài, viết bài cho báo, sáng tác, vân vân... Đâu ra đó, Bố rất khoa học, làm việc, dù là sáng tác, bao giờ cũng có plan, sửa tới sửa lui, rất lâu, rất công phu, miên man hàng giờ, hàng ngày, có khi hàng tháng. Bố tra cứu tài liệu, sách vở, gọi phone confirm...
Tôi nghe nói nhà văn, nhà thơ rất bừa bộn, làm tùy hứng, nhưng ở Bố tôi thì không. Bố tôi để mỗi loại hồ sơ vào một phong bì riêng, có ghi chú cho từng loại: thơ, văn, tài liệu cho đài phát thanh, cho báo chí, gia đình... Những buổi ra mắt sách, nói chuyện cũng được bố tôi phân loại, xếp riêng, đâu ra đó; lại còn ghi chú rõ ràng cho hàng trăm đề mục khác nhaụ
Nói về chuyện ghi chú, bố tôi có một lối ghi chú rất... cõi trên. Bố hay ghi những công việc phải làm trên cuốn lịch treo tường. Thí dụ hẹn Bác Nguyên Sa 10AM ngày 18, thay vì như mọi người ghi vào ô ngày 18, ở đây bố tôi ghi vào ô ở trên đó, rồi đánh một cái mũi tên chỉ vào ngày hẹn, có kỳ không?!
Bố tôi có nghiêng về... là một nhà khoa học một tí , nhưng dứt khoát không phải là nhà toán học, mặc dù Bố tôi cũng rất ưa nói về lãnh vực nàỵ Thỉnh thoảng, để diễn tả một khái niệm cho có phần chính xác, Bố tôi cũng 90%, 45%, 30 độ... Cũng tam giác đều, vuông, cân... nghe rất hãi!
Nhưng riêng về phương diện này, đích thực Bố tôi “hù” mọi ngườị Chẳng hạn bố tôi nóị.. “nó cân đối như tam giác đều”. Nghe hãi chưả Nếu hỏi tam giác đều là gì (?) Bố tôi sẽ hùng dũng: “Là tam giác có 2 cạnh bằng nhau!”.
Một hôm, trong bữa cơm, Bố tôi kể: “Anh Nguyên Sa giỏi thật. Anh ấy chỉ mới nghe Đăng Khánh tổ chức bữa tiệc mời 500 người ăn, đã tính ra ngay con số...”. Mẹ tôi nghi ngờ: “Con số bao nhiêủ” “Thì anh Nguyên Sa bảo, cứ tính tối thiểu $10 cho 1 phần ăn, mà 500 người, Đăng Khánh đã phải bỏ ra $50,000. “Đăng Khánh giầu ghê há ông!” Bố tôi một lần nữa thán phục: “Anh Nguyên Sa giỏi thật. Tính ngay ra con số!”. Mẹ tôi nói: "Nhưng mà anh Nguyên Sa tính sai". Bố hùng hổ cãi: "Nhưng mà tính nhanh!". Thua!
Một nhà thơ lớn làm toán nhân, và một nhà lớn khác thán phục. Ngườị.. cõi trên có khác!
Ngoài việc chứng tỏ cho mọi người thấy Bố tôi có một tinh thần minh mẫn về văn chương lẫn toán học, Bố tôi còn chứng tỏ cho mọi người thấy Bố có một thân thể... tráng kiện.
Bữa nọ ra phở Nguyễn Huệ, một cô da trắng “tóc dài thả xõa” nhưng không phải “không bao giờ đâu Donna, Donna” khen “Gớm, dạo này anh Lê hồng hào rạ..!” Bố tôi sướng tít mắt. Cuối tuần ấy, xách xe đi khắp các Garage Sale khệ nệ bê về mấy cục... tạ. Chương trình “một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện” bắt đầu ngay đầu tuần saụ Hít vào! Thở ra! Hít vào! Thở ra! Hít! Thở! Hít! Thở!.. Hít...th...ở... Bố tôi hít vào đúng 2 tiếng, thở ra cũng đúng 2 hơi, và tập đúng... 2 ngàỵ Vì trờị.. mưạ Mưa ướt, phải vào nhà thôi! lạnh nữa! Rồi bịnh! Phải vào nhà thôị Lần sau, chở về 1 cái tread mill. Bố tuyên bố, mỗi ngày 20 phút chạy theo máỵ Speed tăng dần, từ 2 tới 2, 5, 3... Muốn khỏi chán, tay cầm thêm một cuốn kiếm hiệp. Bố tôi hớn hở, 20 phút burn được 80 Calories”.
Kỳ này, Bố tôi khá hơn, hàng ngày cùng với Trương Vô Kỵ, chạy, chạỵ.. Anh Hiệp qua, Bố khoe ngày nào cũng burn được 80 ca-lọ Anh Hiệp rụt rè góp ý, “Chú ốm như vậy, tập ngày 20 phút, cháu sợ sau 2 tuần chú sẽ thành ngườị.. tàng hình! Chú phải ăn nhiều mới khỏe được”. Anh Hiệp có lý thật. Vậy là “chấm dứt luân hồi: Bố tôi bước vô”. Bố tôi trở lại Nguyễn Huệ, mỗi sáng một tô phở tái để riêng (không biết lòng có mong gặp lạị.. Donna!) . Chỉ biết Bố vui, cười vang lên như trẻ thơ mỗi khi Bác Cảnh, chủ nhân phở Nguyễn Huệ, tiến lại, rất chân tình: “ăn xong đi đi nhé. Xong hết rồi!”.
Bố tôi ra khỏi quán phở thân quen, và quên hết, như chưa từng có chương trình “một thân thể cường tráng...”
Nếu hồ sơ, giấy tờ liên quan tới văn chương, Bố tôi ngăn nắp bao nhiêu, thì ngoài vòng quay đó, Bố tôi bừa bãi bấy nhiêụ Cứ y như Bố nhẹ nhàng, trìu mến, như tơ trời vương với một cô nào đó; hoặc Bố cười ha hả, rổn rảng làm nhà cửa, thành quách rêm mình với những người bạn của Bố.
Bố Lê bừa bãi kinh khủng. Tất cả mọi nơi trong nhà, chỗ nào bố đứng lâu 2 phút, thì chỗ đó có tàn thuốc và ly cà phê uống dở. Nếu chỉ lãnh việc đi thu dọn ly cà phê và quét tàn thuốc lá, một người làm full time, còn có thể được thêm 4 giờ over time cho mỗi ngày! Trung bình mỗi tháng Bố đi xa độ một tuần, người làm đó cũng không sợ mất job, mà vẫn có over time như thường, nhờ công việc nhổ... cây này trồng đúng chỗ này, và nhổ lên cây kia, trồng đúng chỗ kiạ Bố tôi thích trồng cây - nhưng khổ thay, “người cõi trên” trồng cây cũng... khác. Cạnh sát gốc cây hồng, là cây chanh. Sát gốc chanh là cây ngọc lan. Sát rạt cây ngọc lan là cây ổị Khít rịt cây ổi là khóm loa kèn. Cạnh loa kèn là cúc, là mãng cầu, chùm ruột, mẹ.. Cứ thế, túm tụm. Hai mét vuông đất là cả một vườn... hoa, và cây ăn trái do chú Nguyễn Dũng Tiến ở Mimosa tặng. Bố tôi nhét cây chứ không phải trồng câỵ Trong hồ cá thì cá koi, cá vàng, cá đuôi xòe, tôm... Cả cá lòng tong của Bác Lâm Tường Dũ cho nữạ Trên mặt hồ thì sen của Bác Phan Hòa Hiệp, súng của Florida, lục bình của Diễm Xưa, hòn non bộ của Bác Nhung. Bên cạnh cá là chim bồ câu và cu cườm của Mimosa, hoàng anh của Bác Đan Thọ, họa mi của Bác Hồ Điền... Chó nữa, do Bác Lê Phương đem đến, chó cứ ngồi trong lòng khi Bố đánh máy, lông xù ra, sặc mùi thuốc lá đó là chưa kể nó có cái tật, đợi Bố đi vắng, lục thùng rác, tìm tàn thuốc lá dấu đi, để thỉnh thoảng lấy ra nhai lần. Cuối tuần nào lau nhà, mẹ tôi tìm ra cơ man nào là tàn thuốc. Tôi đặt tên là Chí Phèọ Chí Phèo không bao giờ biết sủa, chỉ biết ngáp, lại hay ngáp rõ tọ Chó của thi sĩ cũng có phần khác thường chăng?
Nhà tôi, vì thế, cứ như thảo cầm viên, trồng đủ các giống cây ăn trái, và hoa của vườn cây Mimosa, phong lan của bác Ngô Bảo, hoa hồng của Bác Thái Thanh, chậu kiểng của Chú Bành Nhọ.. Chim, cá, kiểng... không thiếu thứ gì.
Tôi còn quên không kể một "tội" nữạ Bố rất kỳ lạ, trồng cây cũng thích nhưng mà ...cưa trụi cây thích hơn. Hể có cái cưa trong tay là thế nào cũng tìm một cây nào đó để cưa, có khi cưa trụi lủi, không còn biết đó là cây gì nữạ Cưa lần thứ nhất thành cái "cột", sau đó chưa ưng ý đâu, cưa thêm một lần nữa cho bao giờ thành cái "cọc' thì mới thôị Mẹ tôi bao phen ra nhìn cây mà chỉ biết khóc. Có lần mẹ đem dấu cái cưa thì bố giận.
Còn trong nhà ư, cũng đủ lắm. Từ cái bàn của Bác Lâm Tường Dũ, ghế của Chú Trần Duy Đức, chén bát của Cô Nguyệt Hạnh, computer của Chú Khánh Trường, bàn ủi của Bác Mai Thảo, máy hút khói thuốc của Chú Hào, Radio của Bác Đăng Khánh, cái vợt tennis của Chú Lộc Hoa Thịnh Đốn... Trên tường thì treo đầy tranh của các Bác Tạ Tỵ, Đinh Cường, Duy Thanh, Ngọc Dũng...
Nhà tôi đâu đâu, chỗ nàọ.. cũng có sự hiện diện của bạn bè Bố Lê. Tấm tranh, bức ảnh, quyển sách, cái bàn, cái ghế... Mọi người vì yêu quý Bố tôi mà mang chọ Tôi thật hãnh diện vì điều đó. Vì điều đã được ở chung nhà với Bố Lê, dù rằng ngoài giờ đi học, tôi còn phải làm overtime những việc như nấu ăn, kho thịt, rửa tách cà phê, quét... tàn thuốc lá!
Orchid Lâm Quỳnh
1999
đào vũ anh hùng
du tử lê, cõi thơ, cõi nhớ, cõi tình
(Bài nói chuyện trong buổi Chiều Thơ Nhạc Du Tử Lê Dallas, ngày 22 tháng 3-97.)
“...Thơ tình Du Tử Lê không chỉ thế thôi đâu. Nó chứa đựng không phải chỉ tình yêu giữa người nam với người nữ, giữa Lê và những người con gái yêu Lê và Lê yêu. Nó là tổng hợp cả tình Lê với Mẹ, với Chị, với Em, với Anh em bạn bè, với Đất nước, Quê hương. Em Và Mẹ Và Tôi Là Một. Du Tử Lê Với Quê Hương Là Một.”
ĐVAH
Du Tử Lê đến Dallas lần này không phải lần đầu. Trước đây, cuối Thu năm 1982, Lê đã đến trong một đêm văn nghệ thật ấm cúng và dễ thương, cùng với Nhạc sĩ Trần Duy Đức, Song Ngọc, Nhà thơ Cao Đông Khánh, vân vân... Đêm đó là đêm ra mắt cuốn sách: Du Tử Lê, Tác Giả và Tác Phẩm, tập 1, và giới thiệu thơ Du Tử Lê do Trần Duy Đức phổ nhạc; lấy tên là “Chiều Nay, Chiều Thơ Nhạc.” Buổi sinh hoạt được nồng nàn đón nhận.
Lần thứ hai, ngày Father Day năm ngoái, Du Tử Lê đến Dallas với bạn bè, dự buổi trao giải thưởng Young Leaders Awards, nói chuyện về thơ với giới trẻ. Sau đó, chúng tôi đã tổ chức cho Lê một đêm họp mặt ở nhà hàng Thanh Thanh. Một họp mặt gói gọn, rất gọn trong một vài gia đình bạn hữu thân và yêu thơ Lê. Nhỏ, hẹp thôi, nhưng dư âm ngầy ngật, ra về nuối tiếc. Bởi đêm đó là đêm thơ Du Tử Lê nghe bằng nhạc và qua giọng hát Tú Nga, với lối trình diễn vượt ra ngoài khuôn mẫu. Thơ Du Tử Lê cũng là thứ ngôn ngữ ở bên ngoài khuôn mẫu, nên giữa thơ, nhạc và người ca sĩ đã có một sự hòa hợp tuyệt diệu, bài ca trở nên tuyệt diệu.
Tú Nga nồng nàn trong giọng hát, trong lối diễn tả. Tay nâng niu giọt nhạc, tay hứng đỡ thanh âm. Hồn thả tung, giọng ca vút bổng. Nhạc quyện cùng thơ. Tú Nga đã hát hết mình. Hát tung hê cảm giác. Hát buông thả hồn mình theo từng nốt nhạc. Hát say mê từng lời. Hát thổn thức từng chữ. Thơ Lê. Thơ Lê. Đêm đó cả Lê, cả tôi, tất cả mọi người hiện diện đều ngẩn ngơ, thú vị nghe thơ Lê bằng nhạc, từ giọng hát Tú Nga. Bàng hoàng. Nhớ mãi. Tôi biết, Lê nhớ mãi.
Đó là hai lần Lê đến Dallas. Nhưng hai lần ấy đã để lại cho Lê lẫn chúng tôi nhiều kỷ niệm khó quên và những ân tình đáng nhớ. Hai lần đó, Du Tử Lê đã đem đến cho giới yêu thơ ở Dallas nhiều thú vị ngỡ ngàng. Thú vị và ngỡ ngàng cho nhiều người chưa biết Lê, chưa bao giờ đọc thơ Lê, đã đành; nhưng thú vị và ngỡ ngàng cho cả những người đã đọc, đã biết Lê từ trước, bây giờ mới khám phá ra tại sao thơ tình Du Tử Lê được nhiều người yêu mến! Trong đó, có tôi.
Tôi thân biết Du Tử Lê từ trước, nhưng đọc và yêu thơ Lê một cách muộn màng. Tôi thấy mình như trẻ lại, thanh xuân. Như sống lại một thời để yêu, yêu nồng nàn. Và một thời để nhớ, nhớ nồng nàn.
Yêu và nhớ. Thơ Lê đầy những yêu và nhớ. Những hạnh phúc say điên của gần gụi và hạnh phúc buồn rầu của chia xa. Lê đã đến Dallas, đem theo lần ấy, đĩa CD Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau, trong đó có bài thơ do Trần Duy Đức phổ nhạc: Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời, tiếng hát Lê Uyên, có những câu, trước đó, tôi không thể tìm ở đâu, và sau này, có lẽ, cũng không đâu có được những câu thơ nói về cái nhớ mênh mang tha thiết đến độ ngậm ngùi, như thế.
chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
chim về góc biển bóng ra khơi
lòng tôi lũng thấp, tâm hiu quạnh
chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi.
Phải hát lên. Phải hát lên, dù giọng hát hay hay dở, cũng phải hát lên, mới thấy tất cả rung động của thơ Lê trong âm điệu:
đôi khi nghe ấm trên da thịt
chăn gối thơm hơi người
như thể ai đi mới trở về.
.....
người đi để lại hồn thơ dại
tôi vó câu buồn
sâu sớm mai.
Tôi nghe Lê Uyên hát mà rúng động từng sợi tơ non cảm xúc. Bài thơ phổ nhạc đầy âm hưởng tây phương nhưng mang hồn đông phương cổ kính, đã cho tôi hình dung ra nỗi nhớ thê thiết vô ngần của khúc Chinh Phụ Ngâm ai oán:
chỉ nhớ người thôi sông đủ cạn
nói gì kiếp khác với đời sau.
Tôi đã đọc những bài thơ tình của Du Tử Lê, khởi đầu chỉ là sự chu toàn một bổn phận bạn tôi nhờ cậy, tổ chức “Chiều Nay Chiều Thơ Nhạc,” để Lê về Dallas ra mắt sách và giới thiệu nhạc. Đó là lần đầu tiên tôi đọc thơ Lê, đọc say mê và nghiêm túc. Tôi giật mình thích thú khi khám phá ra một cách muộn màng cái cảm xúc êm đềm cắt cứa trái tim mình khi hồi tưởng lại những cuộc tình lỡ trong đời. Tôi thảng thốt vì ngôn ngữ Lê dùng, vì những điều tầm thường hết sức của đời sống, trong đời sống, nhưng khi là thơ, chỉ có Du Tử Lê mới đem được tình yêu vào mọi chốn, mọi nơi, mọi ngõ ngách của đời dung tục hay chỗ thanh cao:
thiền viện tôi trưng chỉ ảnh em
kinh kệ nghìn pho có một tên
viết hoa một chữ không ai hiểu
Phật bảo: - kinh mà không phải kinh.
Đêm hôm đó anh Thanh Hùng đã ngâm bài thơ này, giọng ngâm như lời kinh cứu khổ, như bài kệ chiêu niệm Tình Yêu, ngân nga đến tê tái lòng. Có phải chăng yêu là khổ? Yêu là chia lìa? Là ngăn cách? Là tan vỡ? Là trống vắng? Cô đơn? Buồn thảm?
rồi em bỏ tôi đi
anh ở lại như con sâu kèn
ngủ vùi trong bao kín tối tăm
Nỗi buồn không phải chỉ gói ủ trong trái tim Lê. Nó đã tràn phủ, đã tưới đầy,đã thấm ướt tất cả mọi cảnh, mọi vật, mọi hình ảnh chung quanh. Để thơ Lê, không những chỉ là nhạc, mà còn là tranh vẽ. Có khi chỉ là vài nét chấm phá rất như sơn thủy của Đường Thi. Có khi là tranh tĩnh vật lạnh lùng, nhưng Lê đã ban cho gỗ đá một linh hồn sống động mà u uất, biết buồn dùm, mang hộ và đã cùng nhà thơ chia sẻ mối sầu ảm đạm của cô đơn. Điềm đạm thôi, nhưng vô ngần thống thiết:
tháng hai bụi phủ từng vai ghế
tôi với bàn: chia nỗi ngổn ngang.
Những bức tranh sầu buồn hoài niệm những gì đã mất đi, nhưng thực vẫn hoài hoài trong trái tim hôi hổi của người nghệ cảm. Có phải không? Lê cũng như chúng ta đã mất quê hương, để từ nỗi mất kéo theo niềm day dứt nhớ, trầm thống nhớ và Lê ai oán kêu lên:
nhớ lại trong đêm nay
nơi quê hương khuất bóng.
.....
nhớ lại trong đêm nay
nhớ ngày mới mở mắt
chiến cuộc lùa ta bay
theo đường bay tang tóc.
.....
nhớ lại trong đêm nay
từ ngôi trường thơ ấu
nhớ mặt từng ông thầy
nhớ chỗ ngồi cuối lớp.
Thơ Tình Du Tử Lê được yêu chuộng, là vì nó không phải là thơ tình thường của thứ thơ viễn mộng, than gió khóc mây, mơ trăng sao tưởng hoa bướm, gọi nắng réo mưa, thở than đến làm người nghe sốt ruột. Ngôn ngữ của Lê hay “cõi thơ” của Lê gồm đầy, có đủ những thứ đó nhưng được trình bày một cách riêng, rất riêng, cách lạ, rất lạ, rất Du Tử Lê, mà trong đó, Tình Yêu được nâng cao đến thiêng liêng. Như hình ảnh những người nữ, Em Và Mẹ, Và Quê Hương. Quê Hương là Mẹ, là Em, là đối tượng cực cùng cao trọng mà Lê thánh hóa:
hãy hỏi Chúa đi, rồi em sẽ hay
tôi gầy như lá, lá như mây
rừng khuya thổi rớt bao tâm sự
thiên đàng tôi là người hay ai?
hỏi môi đi, môi còn muối mặn?
hỏi tóc đi, sông những buồn vui?
và hỏi Chúa đi, Chúa sẽ trả lời
trong tay Thánh Nữ, có đời tôi.
Trong thơ Lê có nhạc. Bởi thế mà nhiều nhạc sĩ đã hứng cảm lấy thơ Lê phổ nhạc. Trường hợp thơ phổ nhạc không hiếm thiếu, nhưng tác giả có nhiều thơ được phổ nhạc và được quần chúng đón nhận nhiệt tình và nhiệt tình yêu thích, tôi nghĩ, chỉ có Du Tử Lê. Người ta yêu thích thơ Lê, bởi thơ Lê đưa dắt chúng ta bước thẳng vào cuộc đời, thiết tha ôm ấp lấy đời sống. Chắt chiu cưng quý đời sống vì đời sống đó của Lê, có tình yêu, có bạn bè, có những điều mà chỉ những người có cảm năng nhậy bén và tài hoa nghệ sĩ như Lê mới nhận thức, mới thấu suốt được mọi tế vi huyền nhiệm của tình yêu và Lê đã đem khả năng mình để âu yếm tôn vinh, say mê tận tụy khi nhìn vào một nơi chốn mà Lê gọi là Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu. Chỉ một mình Lê hiểu và Lê có sứ mạng thiêng liêng phải đem truyền giảng:
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ lấy được những gì?
về bên kia thế giới
ngoài trống vắng mà thôi
Thụy ơi và tình ơi.
Có phải không? Thơ Tình của Lê đầy ắp mùi Thiền, chứa chan kinh điển của mọi thứ tôn giáo mà Lê nhiệt thành rao giảng trong vai trò của một cấp thừa sai. Tôi thật tình không thể biết được có bao nhiêu người nữ đã đi qua đời Lê. Nhưng tôi biết Lê chung thủy, yêu say đắm và giữ gìn trân trọng kỷ niệm, những cuộc tình vỡ tan cũng đẹp,với những người con gái yêu Lê và Lê yêu. Tôi nghiệm ra điều đó vì tấm lòng của Lê đối với bạn bè cũng thủy chung, đằm thắm như vậy, và vì chúng tôi hiểu nhau.
Thơ tình Du Tử Lê không chỉ thế thôi đâu. Nó chứa đựng không phải chỉ tình yêu người nam với người nữ, giữa Lê và những người con gái yêu Lê và Lê yêu. Nó là tổng hợp cả tình Lê với Mẹ, với Chị, với Em, với Anh em bạn bè, với Đất nước, Quê hương. Em Và Mẹ Và Tôi Là Một. Du Tử Lê Với Quê Hương Là Một. Nhà văn Mai Thảo gọi đó là “cõi” thơ Du Tử Lê, mênh mông, sáng tạo, sung mãn, mới và mới không ngừng. Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Trinh, Đỗ Quý Toàn, cùng những người phê bình khác gọi “cõi thơ Du Tử Lê” là những gì rất lớn, bởi Lê là một nhà thơ lớn của văn học nghệ thuật miền Nam, tiêu biểu và độc đáo, không thuộc một trường phái nào cả.
Nói như Đỗ Quý Toàn: “...Thơ Du Tử Lê gần đây, phải gọi là lạ. Phải nói là mới. Phải nói là những người khác không thể làm được. Nếu có khổ công dùi mài thì cũng chỉ có thể giông giống mà không có cái thần độc đáo. Thần khí độc đáo đó, chỉ có nơi những người sống chết với thơ, như Du Tử Lê, mới có thể có được mà thôi.”
Tôi không dám và không thể mệnh danh thơ Du Tử Lê, mà chỉ giản dị và thân mật, yêu mến gọi đó là thơ Lê, thơ Du Tử Lê. Tôi không làm cái điều phê bình hay phân tích thơ Lê ngày hôm nay. Vì tôi không đủ khả năng. Tôi chỉ xin phép được nói lên cảm nghĩ và sự yêu thích thơ Lê, trong “cõi” riêng của tôi. Bởi vì thơ Lê lạ lắm, nó đã cho tôi rất nhiều cảm động. Hứng khởi có, ngậm ngùi có. Về tình yêu người, yêu thương đời sống. Tôi tìm thấy đầy đủ những cái rất riêng tư của mình trong thơ Lê. Nhất là tình yêu và tuổi thơ, cùng niềm say mê thú vị với cây đũa nhiệm mầu của bà Tiên, ở trong tay Lê đã ban cho chim chóc, núi đồi, sông lạch, cỏ cây, gỗ đá những linh hồn sống động, khiến tôi thấy như được quay về với tuổi thơ tôi, tuổi thơ Lê nơi ngôi trường Hàng Vôi, Hà Nội mà chúng tôi đã có một thời thơ ấu cùng nhau. Hà Nội, mùa đông, những chiếc lá bàng nằm quằn quại thở thoi thóp trên sân trường. Những con vật vẽ nói tiếng người trong phim hoạt họa ở rạp Lửa Hồng... Những con rối diễn tuồng cổ tích trên sân khấu Nhà Hát Lớn Hà Nội của Họa sĩ Mạnh Quỳnh, để Lê có: con dế mèn tự tử giữa đêm sương; có: giòng sông tội lỗi, bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ, con sóng tình vỗ mãi một âm quên, hay: tháng hai cành nhớ lá sương đầy, Hay: tôi buồn như phố cũ như tay...bàn chân từng ngón ngưng không thở.., còn nhiều, nhiều nữa. (......)
ĐÀO VŨ ANH HÙNG
(Trích Lý Tưởng, bộ mới, số tháng 4-97)
Nguyễn Quang Ngọ
vài tư liệu nhỏ về du tử lê thời niên thiếu
(bài nói chuyện tại Trụ sở Hội Người Việt Cao Niên Thành Phố Austin, Texas, ngày 10-1-98.)
Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng, và dân tộc chúng ta hãnh diện với mấy ngàn năm lịch sử thăng trầm, hưng vong, mà vẫn giữ được bản sắc và những nét đặc thù của nó.
Đất nước Việt Nam trải dài từ Bắc xuống Nam, gần 15 vĩ tuyến, hình cong như chữ “S,” nhìn ra biển Đông, như vương lên, xốc tới, như cái gai nhọn phương Nam. Qua bao nhiêu triều đại, nhà cầm quyền phương Bắc sau các giải pháp quân sự bất thành, đã phải dùng thủ đoạn “trấn yểm” của các nhà địa lý như Mã Viện, Cao Biền, hầu làm tiêu vong phần địa linh nhân kiệt và hào khí của một nền văn hoá mà không cách gì họ có thể xóa bỏ được.
Theo thiển ý của chúng tôi, thì việc tìm hiểu về một nền văn hóa lâu đời như nền văn hóa Việt Nam, không phải là việc riêng của các nhà chuyên môn mà của tất cả mọi người, những ai còn cảm thấy luân lưu trong huyết qủan của mình dòng máu Việt.
Trong phạm vi bài nói chuyện này, chúng tôi xin giới hạn việc tìm hiểu trong phạm vi ngôn ngữ. Thứ ngôn ngữ mà người nước ngoài cho là khó học, khó đọc, khó nói, khó có thể hiểu được một cách tường tận, thâm thúy của từng con chữ..., nếu người đó không phải là người Việt Nam. Phải chăng đó là cái chất riêng của ngôn ngữ Việt, của dân tộc Việt? Phải chăng vì nó không ngừng được làm mới, được phong phú hóa mỗi ngày, trải qua bao nhiêu nghìn năm? Và khi nói tới sự làm phong phú ngôn ngữ Việt, ở Hoa Kỳ, chúng ta không thể phủ nhận phần đóng của Nhà thơ Du Tử Lê trong cuộc trường chinh chữ nghĩa đó.
Tôi không phải là một nhà phê bình văn học, càng không phải là một người đã thành danh để nhận định về một Nhà thơ đã thực sự nổi tiếng. Những điều tôi viết về Du Tử Lê, chỉ xin được coi như một tư liệu sưu tầm thêm về họ Lê trước năm 21 tuổi; trong đó có những bài thơ họ Lê viết từ năm 1957 tới 1960. Thời gian này Du Tử Lê viết rất nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ được một số bài, đúng hơn là những bài tôi thích nhất, đọc nhiều lần, nên vẫn còn nhớ.
Ngay từ giữa năm 1957, khi họ Lê dời nhà người anh ở đường Trần Hưng Đạo, đến một căn gác ở đường Nguyễn Tiểu La, quận 10, Saigòn; căn gác này Lê thuê cùng Dũng và Khiêm. Dũng, là một người bạn cùng lớp với chúng tôi. Hàng ngày tôi tới chơi, Cuối tuần, ngày nghỉ, tôi thường ngủ lại cho vui. Lê và Dũng sống bằng nghề “kèm trẻ tư gia.” Tôi và Dũng cũng làm thơ, cũng viết truyện, cũng gởi bài đăng báo. Riêng tôi, tới năm 1964 thì ngưng hẳn. Riêng Lê lúc nào cũng chăm chút vào thơ. Tôi với Dũng hay nói với nhau, thằng Phách ngón tay dài hơn bàn tay, nó chọn nghiệp văn chương có lẽ khá... (Đúng là cái nghiệp của họ Lê vì cho đến ngày hôm nay hắn vẫn còn dành hết cuộc đời cho thơ, văn.)
Cuối năm 1957, Lê gởi về Mẹ bài thơ “Thú Tội.” Tôi xin mạn phép trình bày lại ở đây để chúng ta thử tìm hiểu phần nào về họ Lê với óc tự lập, tinh thần phiêu bạt giang hồ khỏi nguồn từ thiếu thời:
xưa mẹ dặn đừng bao giờ nhắc nhở
đừng bao giờ viết truyện với làm thơ
đừng bao giờ ao ước chuyện giang hồ
nhưng con trót nghe theo lời réo gọi
ôi tiếng gọi của lênh đênh bờ bụi
tiếng gọi buồn như khúc hát đưa ma
tiếng gọi buồn như khi trở về nhà
thân rũ rượi mà hồn thì kiêu bạc
xưa mẹ dặn đừng bao giờ thích nhạc
đừng bao giờ đắm đuối Beethoven
đừng bao giờ nhỏ lệ khóc Chopin
sao con vẫn mỏi mòn trong Dạ Khúc
con vẫn nhớ tim nằm trong cửa ngực
vẫn nhớ lời cao cả chuốt tình thương
vẫn nhớ lời dặn chớ có yêu đương
nhưng con trót muôn lần, nay thú tội
xưa mẹ dặn đừng mơ làn gió thổi
đừng ngậm ngùi hoa rụng, cảnh tiêu sơ
đừng mơ người tóc ngắn phấn son tô
con còn nhớ nhưng vẫn hoài ngưỡng mộ
xưa mẹ dặn đừng bao giờ thổ lộ
đừng bao giờ dễ dãi mỗi khi yêu
đừng bao giờ ngơ ngẩn ngắm mây chiều
ồ, lạ quá! Nhớ ghê. Sao vẫn mắc!
xưa mẹ dặn đừng bao giờ trầm mặc
đừng bao giờ mơ một chuyến đi hoang
đừng bao giờ mộng viễn xứ huy hoàng
con vẫn nhớ nhưng vẫn thèm rỏ dãi
đời đen bạc khuấy tan nguồn trẻ dại
thôi đời con, con trót gửi sông hồ
thôi tình con, trót nới lỏng đôi bờ
con xin mẹ cho trái lời đến chết
......
con xin hẹn kiếp sau thề bỏ hết...
Bài thơ này tôi không thấy Lê đăng báo hoặc in trong tập thơ đầu tay. Hay Du Tử Lê chỉ muốn dành riêng cho mẹ?
Cái ngày non trẻ, tình cảm của Du Tử Lê dành cho mẹ như thế, nên sau này, bao nhiêu bài thơ viết về mẹ, ngay cả khi bà cụ mất, có ném một cành hoa xuống mộ, có gào lên “đất! đất! đấât!,” Du Tử Lê hôm nay, nghe đọc lại bài thơ này từ một người bạn của hơn 40 năm trước, tôi nghĩ, sẽ có một thoáng ngậm ngùi, một chút xót xa ân hận vào cái tuổi quá năm mươi, cái tuổi tri thiên mệnh, rất gần với kiếp sau để hắn thề bỏ hết.
Tôi cũng xin mở một dấu ngoặc ở đây, là Lê dời nhà do những bất mãn trong nội bộ gia đình, nhưng lâu lâu, Lê vẫn lén về thăm mẹ. Bà cụ, như bao bà mẹ Việt Nam khác, nước mắt chẩy xuôi, vẫn dấm dúi lo cho Lê, khi thì chính tay bà cụ, khi thì qua tay một người anh họ của Lê. Cụ bảo, “con nào chả là con, thương nhất là nó con nhỏ dại mà phải lang thang...” Lê nói với tôi, “bà cụ mừng lắm khi biết tao thi đậu. Ham chơi mà vẫn học được là được rồi. Cụ muốn tao về... Nhưng...”
Với tôi và Dũng thì Lê ham đọc, ham làm thơ. Trên bàn lúc nào cũng bề bộn sách. Tôi nhớ có một cuốn thơ mà thời đó Lê rất thích đó là cuốn Mây Hà Nội của Nhị Thu, tập thơ mang tâm trạng của một người Hà Nội di cư, sống lây lất ở Saigòn, nhớ về chốn cũ... Những lúc ngồi chuyện vãn, Lê ưa nhắc một vài đoạn trong tập thơ này.
Cùng học trường Hàng Vôi ở Hà Nội, qua các lối đi, về đầy la bàng, lá sấu, tôi biết Du Tử Lê đã mang trong phần sâu thẳm của tuổi học trò, hình ảnh của Hồ Gươm, của những chiều nhặt búp đa, đập quả bàng,..., nên bài thơ nào có dính đáng đến Hà Nội à hắn thích. Vì hồi đi cư, Lê còn quá nhỏ, không đủ chữ để phơi trải lòng mình trong những bài thơ, đến khi học trung học, bắt đầu có chút vốn từ ngữ, để tỏ tình, Lê đã không ngần ngại mang Hà Nội vào thơ:
vì ngỏ ý yêu em nên mây về gác trọ
bài thơ, tiếng địch, lặng lẽ ơi mùa thu
Hà Nội sương mù lòng đầy hoang vu
em là cai tù của hồn tôi ủ rũ...
Lê bước vào văn đàn không được ai hướng dẫn cũng chẳng có ai đỡ đầu, nên hắn di từ thấp lên cao. Từ những bài đăng trong các nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san, và bằng đôi hia bẩy dặm, Lê đã tìm được một chỗ đứng trong văn đàn, trở thành nhà thơ được nhiều người biết đến như hôm nay. Tôi còn nhớ có một chuyện vui vui về bút hiệu Du Tử Lê như sau: Khi ấy, khi gửi thơ đăng báo trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong, Lê thường ký tắt DTLê. Và cũng thời gian này, một nhà thơ khác xuất hiện với bút hiệu Dương Tử Lệ, và cũng thường ký tắt là DTL. Để tránh nhầm lẫn, những bài thơ sau, Lê ký rõ Du Tử Lê. Và hơn 40 năm nay, Lê giữ nguyên bút hiệu này.
Nói tới thơ Du Tử Lê mà không nói tới phần đóng góp của những người nữ, theo tôi là một thiếu sót lớn. Những cuộc tình vào tuổi trưởng thành đã được họ Lê viết nhiều trong các tác phẩm truyện hoặc thơ. Ở đây, như đã nói, là một tư liệu nhỏ về Du Tử Lê thời niên thiếu, cho nên, tôi xin được kể về một người con gái tên Minh, học đệ ngũ trường Gia Long, thuở đó. Cô là người mà Du Tử Lê viết rất nhiều thơ trong thời niên thiếu. Đó là một mối tình trong sáng, thơ ngây nhưng không kém phần say đắm, nồng nàn này khiến gã si tình họ Lê cứ mỗi buổi chiều đều bắt tôi đèo hắn bằng chiếc xe vélo solex của tôi, đến cổng trường, bỏ hắn xuống, cho hắn đi theo Minh tới bến xe, rồi lên xe buýt Saigòn, Phi Cảng Tân Sơn Nhất, Phú Mỹ, Gia Định...Minh 16 tuổi, mảnh mai như lá, nhà ở Thị Nghè, đi học bằng xe buýt, nên Lê cũng đi xe buýt theo. Đi một vòng xong, Lê nhẩy xuống, tôi lại đón Lê... Tình học trò như thế. Tháng ngày rồi cũng qua. Minh lên đệ Tứ, chuyển về buổi sáng. Lê đậu tú tài một, cũng trở về lại Chu Văn An, cảnh đưa đón chấm dứt. Nhưng trường Gia Long và người con gái đó đã để lại cho Lê một dấu ấn đậm nét. Ngay từ thuở đó, Lê đã chủ trương đem tên người yêu vào trong nhan đề bài thơ chứ không phải đợi tới sau này. Tôi chỉ xin ghi lại ở đây một phần bài thơ Lê viết lúc mới làm quen với Minh. Đó là “Bài Của Một Người Tên Minh”:
mắt hồ thu mình ru hồn anh ngủ
suối tóc dài mình cặp thõng sau lưng
môi mùa hè, phượng nở thắm sân trường
bước son nhỏ bước run mềm bãi nắng
áo trinh bạch ôi mầu trong trắng lắm
khiến anh về mơ mãi tuyết Paris...
Đâu chỉ hơn một năm sau thì Minh một người bạn của Minh cho biết gia đình bắt cô lấy chồng. Chồng Minh là một luật sư tập sự. Phải chăng đó cũng là lý do thầm kín theo tôi hiểu, khiến cho Lê sau khi đậu tú tài II, đã không chọn Luật mà chọn học ở Văn khoa? Minh lấy chồng xong, Du Tử Lê đã nhờ tôi chuyển đến Minh bài “Lần Cuối Trở Về”:
thôi lần cuối tôi về ngang phố cũ
hàng cây gầy ngày ấy vẫn bơ bơ
căn nhà xưa còn lặng lẽ trông chờ
hình bóng cũ đã đi vào quên lãng
với duyên tình cũng đi vào dĩ vãng
riêng lũ đèn ở lại vẫn ưu tư
như lòng tôi rũ ủ bởi sương mù
sương năm tháng hay sương đời se thắt?
tay nhỏ bé níu tình yêu khôn chặt
nên tình yêu vỗ cánh theo thời gian
nên tình yêu đã mất hút theo nàng
sau xe cưới còn vương mầu khói đục
lác đác lá rơi, hè đường ngơ ngác
ngó theo nàng xem có vấn vương không
nhưng mà thôi - nàng e lệ bên chồng
vì lúc ấy ai nhớ gì ai nữa!
thôi lần cuối tôi trở về phố cũ
thuốc trên môi mà khói ám trong hồn
hàng cây còn nhúng tôi vào cô đơn
căn nhà ấy đã muôn đời khép cửa.
Với Du Tử Lê hình như lúc nào cũng có những mối tình đi song song với nhau. Mối tình nào hắn cũng đắm đuối, nhưng với tôi, trước khi Lê gặp Huyền Châu rồi Thụy Châu, người con gái tên Minh là người mà Lê phải nhớ...
NGUYỄN QUANG NGỌ
(Dallas, Texas, 1-1998)
nguyễn mạnh trinh
nói chuyện với du tử lê trong và ngoài một cuốn sách mới xuất bản
“Tác giả Lê Vương Ngọc mô tả anh là người có nhiều nữ tính. Riêng tôi, giao du với anh gần hai chục năm, tôi thấy điều đó cần phải xét lại. Phần anh, thì sao?”
NMT
Du Tử Lê có lẽ là một trong những người cầm bút sắt son với nghệ thuật bền lâu nhất. Ở với văn chương mấy chục năm, chắc có nhiều điều để nói đến bằng bút mực, có phải? Do đó, trước đây, đã có Du Tử Lê: tác Giả và Tác Phẩm, tập 1, thì bây giờ lại có tập 2, ra đời, để làm rõ nét hơn chân diện mục của một người làm thơ, mà thi ca đã trở thành chất liệu để nuôi sống cuộc đời.
Nói chuyện với Du Tử Lê, về một cuốn sách mới, chuyện đó đã thành bình thường, bởi, mỗi năm, ông đều có ít nhất hai, ba cuốn sách trình làng. Nhưng, nói về một cuốn sách mới, như loại Tác Giả & Tác Phẩm kể trên, thì có nhiều điều thích thú được khám phá. Thí dụ, những người viết đã mang đối chiếu đời sống thực và đời sống văn chương, để tìm thấy những điểm tương đồng, cũng như những điều trái ngược. Thơ, không phải là những dúm ngôn ngữ vô hồn, mà chúng có đời sống riêng, có máu huyết xương tủy riêng. Thơ, là những mối tình, của một người luôn đi tìm kiếm, để tìm cho được một tuyệt đối, mà chắc chắn ở trần gian này không thể có, không thể đạt được. Thơ, cũng là căn bệnh Thyroid: Tại sao tay anh lạnh? Tại sao thân anh rung? Tại sao môi anh nóng? Tại sao chân không vững? Tại sao và tại sao? Thơ, cũng là những kỷ niệm, từ ngôi trường Hàng Vôi, Hà Nội, đến ngôi trường Chu Văn An sau di cư, và cũng là những ngày tháng lưu lạc ở xứ người. Tóm lại, thơ là người, có những điều hòa nhịp, để, tượng hình một đời sống rất nghệ sĩ, nhưng cũng rất lạc lõng trong xã hội bây giờ.
Một buổi tối, tôi và nhà thơ nói chuyện với nhau. Hai anh em đã nói về một cuốn sách mới còn thơm mùi mực. Mặc dù, tôi là một trong những người có bài viết trong tác phẩm này, nhưng, với tôi, vẫn còn có những điều muốn biết thêm, và chắc độc giả cũng có sự chờ đợi ấy.
Bây giờ, xin độc giả theo dõi buổi nói chuyện giữa tôi và thi sĩ Du Tử Lê.
Nguyễn Mạnh Trinh (NMT): Du Tử Lê: Tác Giả và Tác Phẩm, là cuốn sách như thế nào? anh đã thực hiện ra sao để hình thành nó?
Du Tử Lê (DTL): Là cuốn sách mang tên tôi, do nhiều người viết hoặc vẽ. Gần đây, tôi có dịp gặp gỡ khá nhiều anh chị em cũ, mới. Họ muốn tôi tái bản cuốn Du Tử Lê: Tác Giả và Tác Phẩm, tập 1, vì bài viết của các anh Nguyên Sa, Khánh Trường và Lê Vương Ngọc...Tôi nẩy sinh ý nghĩ tại sao không in cuốn mới mà lại in cuốn cũ làm chi. Sau đó, một số anh chị em ấy giúp tôi hình thành nó. Đơn giản vậy thôi.
NMT: Anh có thấy một điều gì ngại ngần khi công bố những mẩu đời tư riêng của mình, và Anh có nghĩ, là một khuôn mặt của đám đông thì phải chấp nhận chuyện bị nhìn ngắm, phán xét và phê bình?
DTL: Ngần ngại chứ. Tuy nhiên, nếu phải chọn lựa giữa những cái xấu xa, hư hỏng gần, thật với con người, đời sống hàng ngày của tôi, và những lời đồn đãi một cách quá đáng thì tôi chọn cái thứ nhất. Thêm nữa, tôi cũng cần có sách mới...
NMT: Anh có nghĩ in một loạt bài viết về mình như thế, là một công việc không khiêm tốn?
DTL: Chưa bao giờ hai chữ khiêm tốn được đặt ra với tôi. Ở đâu, dù trước vài người hay vài trăm người, tôi vẫn nhìn nhận rằng, nếu tôi có chút tên tuổi nào đó, hoàn toàn do đám đông. Tôi vẫn nghĩ, chúng ta sẽ không có Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, hay gần hơn, Nhất Linh, Văn Cao, Mai Thảo, Nguyên Sa..., nếu quần chúng không yêu mến những người này. Cách khác, cái tôi có hôm nay, là những gì mà nhiều người đem cho. Tự tôi, mình ên, chẳng là gì cả.
NMT: Mình nhìn mình chắc chắn không bằng người khác nhìn mình, có phải? Vậy, anh có suy nghĩ nào về những nhận xét, mà những người cầm bút đại diện cho đám đông, qua những bài viết in trong hai cuốn Du Tử Lê Tác Giả Và Tác Phẩm, tập 1 và 2? Thí dụ như thi sĩ Nguyên Sa đã viết về anh: bạn tôi bằng nửa con cò/ vác trên lưng cái đền thơ con voi...?
DTL: Chính vì thường xuyên chẳng thấy mình đâu cả, nên tôi mới đi tìm mình qua những bài nói chuyện, nhận định của người khác. Riêng bài thơ của anh Nguyên Sa, nhiều người thích, trong số, có anh Mai Thảo. Tôi đăng lại nơi tập 2, theo yêu cầu của một số người muốn sưu tập nó.
NMT: Còn bài Đời Tình Du Tử Lê của Lê Vương Ngọc thì sao? Những chi tiết trong bài viết đó, xác đáng không? Những người tình, bằng xương, bằng thịt ở đời hiện thực với người tình trong thi ca là một? Hay đôi khi không?
DTL: Rất xác thực. Phần không xác thực, nếu có, ở nơi ông ta đã lược bỏ những xác thực khác. Phần hai của câu hỏi, xin đưa ra một thí dụ cho dễ...Thí dụ về...nước chẳng hạn. Ai cũng biết khi nước được chưng cất tới một độ nóng nào đó, sẽ biến thành hơi. Có lẽ vì thế mà thơ của tôi hay nói tới... mây!?!
NMT: Tôi không hài lòng lắm về câu trả lời có tính cách...vòng tròn này. Tôi có một câu hỏi khác, cũng liên quan tới một bài viết của tác giả Lê Vương Ngọc. Tác giả này mô tả anh là người có nhiều nữ tính. Riêng tôi, giao du với anh gần hai chục năm, tôi thấy điều đó, cần phải xét lại. Phần cá nhân anh, thì sao?
DTL: Từ tấm bé, có ba điều tôi hằng sợ hãi. Đó là sự to tiếng, phụ nữ và, sâu...rọm. Bây giờ, già rồi tôi vẫn còn co rúm người lại, mỗi khi bị phụ nữ xăm xoi, nhìn ngắm... Mặc dù, nếu chẳng còn được ai nhìn nhỏ tới nữa, thì tôi sẽ tủi thân vô cùng.
NMT: Tôi sợ anh bắt đầu mâu thuẫn đấy. Tôi nhớ trong thơ anh, có rất nhiều... sâu, côn trùng, luôn cả giun, dế. Chẳng hạn câu như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi, mà có người đã hỏi tôi nghĩa là gì?
DTL: Đó chỉ là một dạng khác của sự...sợ hãi thâm căn. Những người sợ ma, khi phải đi một mình trong đêm vắng, họ thường cố tình gây những tiếng động lớn, hoặc nói lầm bầm, hoặc hét to: “Không sợ! Không sợ đâu...!” Tôi cũng vậy.
NMT: (...) Vậy người nữ, ma và sâu...rọm trong thơ của anh là...một?
DTL: Tôi đâu ngu đến nỗi để mình rơi vào cái bẫy xập này.
NMT: (...) Trở lại với cuốn sách mới, Bùi Bảo Trúc nhấn mạnh đến sự bất hạnh của đời sống anh, thể hiện trong thi ca. Phải chăng vì thế mà cõi thơ của anh phong phú?
DTL: Giá không bất hạnh, hoặc bất hạnh in ít thôi, thì vẫn tốt hơn.
NMT: Họa sĩ, nhà thơ Tạ Tỵ cho rằng thơ và nhạc không thể song hành. Ngôn ngữ thơ và nhạc hoàn toàn khác biệt. Phổ nhạc vào thơ, chỉ giết hại bài thơ. Ý kiến anh ra sao?
DTL: Ngoài Họa sĩ Tạ Tỵ, tôi biết một người nữa, GS Nguyễn Đức Tâm. Ở Chicago, năm ngoái, khi Hội Cộng Đồng Người Việt Illinois, tổ chức buổi “Chiều Thơ, Nhạc Du Tử Lê,” anh Tâm cũng nhấn mạnh tới sự kiện một số nhạc sĩ đã chôn sống thơ. Trong số đó, có thơ của tôi, ít nhất, một bài. Anh Tâm đã rất công phu khi đi tìm cho được nguyên bản một bài thơ cũ của tôi, đọc lên, để so sánh với bản nhạc phổ từ bài thơ ấy... Cá nhân tôi thấy, nếu người nhạc sĩ đạt được trên 50% hồn tính một bài thơ, thì đã là một góp phần đáng kể, để đẩy bài thơ vào cánh rừng thính giác. Ta đừng quên vế thứ hai của thơ là hát. Bởi thế ngôn ngữ của chúng ta mới có hai chữ thi-ca.
NMT: Bây giờ, bước vào phần hơi nhức đầu một chút. Tôi muốn nói tới dấu gạch chéo / slash của máy điện toán, mà anh đem xử dụng trong thơ, văn. Điều nào đưa anh tới sự ứng dụng này?
DTL: Vì không có nhiều thì giờ, tôi xin trả lời hết sức vắn tắt: Tôi muốn chân thật hóa câu nói: người đọc là tác giả thứ hai. Muốn thế, ta phải có ký hiệu để minh thị cho người đọc biết rằng một chữ (nhóm chữ) nào đó, người đọc có quyền thay đổi vị trí, sắp xếp lại cấu trúc của nó, theo ý họ. Sự hoán vị này, mặt khác, còn mở ra một khoảng không gian cho mạch thơ hay văn. Các anh Cung Trầm Tưởng và Phan Tấn Hải cũng đã đề cập tới khía cạnh này. Hơn nữa, tôi muốn cho thấy, nhà thơ, nhà văn không phải là thượng đế. Điều y viết xuống chẳng phải là điều không thể thay đổi. Sự góp phần, tham gia của người đọc, cho thấy tính tập thể, tính nhân loại.
NMT: Dư luận chung cho rằng bài viết hay nhất trong cuốn Du Tử Lê: Tác Giả và Tác Phẩm, tập 2, là bài của Khánh Trường. Ông ta viết, cách gì thì Du Tử Lê cũng vẫn chỉ là một người bơ vơ nơi xứ người. Điều ấy có đúng với anh?
DTL: Tôi sợ chính vì bạn tôi quá bơ vơ, nên lôi kéo bằng hữu vào cuộc bơ bơ cho bớt phần bơ vơ chưa biết chừng.
NMT: Cũng trong bài viết kia, Khánh Trường có nhắc lại một câu nói của nhà văn Mai Thảo, cho rằng người cầm bút có một loại tiền tệ riêng. Và Du Tử Lê rất giầu có loại tiền này...
DTL: Chỉ tiếc loại tiền đó không hàng quán nào chịu nhận. Vì thế ông Khánh Trường mới mô tả tôi là người “luôn luôn ở tư thế... chờ bạn gọi đi ăn...”
NMT: Trở lại một lần nữa với Bùi Bảo Trúc. Anh có đồng ý với quan điểm của họ Bùi khi nói đại ý sự nghiệp thi ca Du Tử Lê, nằm nơi nỗ lực cách tân thể lục bát? Riêng tôi lại thấy những bài thơ bảy chữ, tám chữ...đã làm cho thơ Du Tử Lê đi xa hơn, bay rộng, cao hơn, như một nhà phê bình khác đã nhận định. Cá nhân anh, anh tâm đắc thể loại nào?
DTL: Lục bát, tôi ví như người nữ, với tất cả đặc tính dịu dàng, ẻo lả. Trong khi những thể thơ khác, như năm chữ, bảy chữ, tự do...vạm vỡ, nhiều nam tính. Tôi muốn thêm chút khỏe mạnh cho lục bát; chút đằm, dịu cho các thể thơ khác...Lóc bỏ bất cứ phần nào trong hai phần này, tôi thành bán nam, bán nữ mất.
NMT: Thơ có ngôn ngữ, ý tưởng, vần diệu, đề tài,...Theo anh điều gì cốt tủy nhất để thành thơ, mà không phải vè, hoặc khập khễnh, bí hiểm?
DTL: Có hai điều tôi muốn nói về vấn đề này. Thứ nhất, tôi hằng quan niệm yếu tính căn bản của thơ là văn phạm. Tôi muốn nói văn phạm thơ. Nhưng muốn hiểu thế nào là văn phạm của thơ, trước nhất phải hiểu văn phạm bình thường, văn phạm nói chung, là gì cái đã. Xin lỗi anh, tôi không tin tưởng lắm nơi mức độ hiểu về văn phạm của một số người cầm bút, kể cả những người đã nổi tiếng. Công việc viết lách của chúng ta thường khỏi đi từ cái gọi là thiên khiếu hay thiên bẩm...Viết nhiều, viết lâu đương nhiên có kinh nghiệm. Điều này, cũng tốt thôi, nếu đừng lớn tiếng chê bai quá nặng lời. Thứ nhì, tôi thấy thời nào, chúng ta cũng có một số người nhầm lẫn giữa nỗ lực cách tân và lập dị... Có lẽ tôi nên dừng câu trả lời ở đây. Nói thêm e đụng chạm, điều suốt đời tôi cố tránh.
NMT: Anh gần gũi với giới trẻ, thường có những buổi nói chuyện về thơ ở các đại học có nhiều tuổi trẻ Việt. Vậy anh có nhận xét gì về họ? Lạc quan, bi quan?
DTL: Xuyên qua những câu hỏi họ đặt ra cho tôi, tôi có thể trả lời ngay rằng lạc quan. Rất lạc quan. Khi những người trẻ kia đã quan tâm tới một vấn đề gì thì sự hiểu biết của họ sâu, chắc hơn ta tưởng nhiều lắm.
NMT: Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang và Nhà văn Trương Anh Thụy đề cặp tới bệnh hoạn của anh, qua lăng kính tâm, sinh lý. Theo anh có phải đó là một cách nhìn về thơ tương đối mới mẻ?
DTL: Trong quá khứ, ông Trương Tửu dưới bút hiệu Nguyễn Bách Khoa từng dùng phân tâm học để nghiên cứu về truyện Kiều...Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang có thể là người đầu tiên áp dụng những chẩn đoán bệnh hoạn vào một bài thơ. Tôi muốn nhấn mạnh hai chữ có thể...
NMT: Có người nhờ hỏi: Sẽ cho anh thành triệu phú, nhưng phải bỏ làm thơ. Anh chọn đường nào?
DTL: Bộ ngu sao mà không chọn làm triệu phú. Mà ai vậy anh Trinh?
NMT: Có người từng phát biểu rằng: muốn hiểu được 34 tác phẩm đã ra dời của Du Tử Lê, cũng như những tác phẩm sẽ ra đời trong tương lai, phải đọc Du Tử Lê: Tác Giả Và Tác Phẩm, tập 1 cũng như tập 2, vì đó là chiếc chìa khóa vàng để chúng ta hiểu được những phần sâu kín nhất của các tác phẩm ấy. Anh nghĩ gì về nhận định này?
DTL: Nhận định đó, theo tôi khá chính xác. Chính vì vậy mà chúng ta có rất nhiều cuốn sách viết về Victor Hugo, về André Malraux, về Hemingway, về Pasternak...
NMT: Anh có điều gì muốn nói thêm với độc giả?
DTL: Tội nghiệp họ bị chúng ta “tra tấn” nẫy giờ! Nên có nói lời cảm ơn lúc này, thì, cũng chỉ là lời đầu môi chót lưỡi mà thôi.
NGUYỄN MẠNH TRINH, ghi thuật.
(Tạp chí Hợp Lưu số 39, tháng 2&3-1998.)
vinh hồ
thư gửi thi sĩ Du Tử Lê, từ Florida
“Tuồng như những con chữ của thơ anh đều có phát sáng óng ánh. Em nhận ra thơ anh tất cả đều bắt nguồn từ thực tại đời sống,...”
VH.
Orlando, ngày 5 tháng 1-1998
Thưa anh,
Thời gian trôi quá nhanh, mới đó mà đã 7 tháng qua đi ngon lành. Được ba lần diện kiến anh ngày ấy, quả là niềm hạnh phúc nơi em; bởi thơ thì đã yêu từ những năm 65, 66: những bài đăng trên Văn; nhất là sau 1973, có thi tập Thơ Du Tử Lê 1967-1972 trong tay, lại càng đọc say sưa mê mẩn, mà người, thì phải mấy chục năm sau mới đựợc thấy mặt, bắt tay.
Em có thời gian yêu thơ Huy Cận với:
sóng gợn tràng gian buồn điệp điệp
con thuyền xuôi mái nước song song
thuyền về nước lại sầu trăm ngả
củi một cành khô giạt mấy dòng
(H.C.)
Nhưng khi được nhìn con người thật, mập híp mắt, Huy Cận ấy thì thật là... não nề. Với anh thì khác. Một mẫu đàn ông có tầm vóc trung bình, có cá tánh, thích cà phê đen, thuốc lá. Lưng hơi gù, mắt nhìn xuống đăm chiêu, nhất là nụ cười tự tin, pha chút khinh bạc, và cảm thông. Có thể đặt tên là Nụ cười Du Tử Lê. (Có lẽ ngày xưa ông Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát đã từng có những nụ cười tương tự như thế?) Còn có sự giản dị trong ăn mặc, sinh hoạt, sự ngắn gọn, minh bạch trong lời nói, sự im lặng trong lắng nghe, và... suy tư.
Quyển sách “Du Tử Lê: Tác Giả và Tác Phẩm,” tập 2, có nhiều tranh ảnh phụ bản chân dung tác giả, đã lấy được cái thần của anh cách độc đáo mà em thích nhất, về tranh: của Tạ Tỵ, Vũ Đức Thanh, Long Aân, Nguyễn Trọng Khôi, Ngọc Dũng, Đinh Cường; về ảnh: của Phạm Thoan, Huy Trung, Nguyễn Hữu Việt, Phạm Bội Hoàn. Bài viết thì hay cả, nhưng em thích nhất là của Lê Huy Oanh, Nguyên Sa, Mai Thảo, Tạ Tỵ, Nguyễn Mạnh Trinh, Đàm Trung Pháp... Những nhà phê bình và văn nghệ sĩ lừng danh.
Tự nhiên, em cũng muốn ghi lại vài cảm nhận của mình, phía đọc giả: đơn sơ, mộc mạc, thầm lặng, vô danh, mà em nghĩ rằng, một nhà thơ tên tuổi, suốt đời cống hiến cho sáng tạo nghệ thuật, có lẽ anh cũng vẫn muốn biết. Thú thật là sau vài chục năm, nay đọc lại những bài thơ ngày trước mà mình thích, em vẫn còn y nguyên cảm giác đẹp, lạ, cao sang ấy.
Thơ anh có thể ví như một cánh đồng phì nhiêu, một khu rừng quyến rũ, hay một chiếc áo gấm có mầu sắc lóng lánh, một xâu chuỗi ngọc xinh đẹp. Thơ anh vừa cụ thể vừa trừu tượng, rất hiện thực, cũng rất siêu thực, tượng trưng. Từ đó, em nghĩ rằng anh đã thâu tóm được cái cốt lõi của Truyện Kiều hơn ai hết, vì Kiều là một áng văn tả cảnh và tả tình đặc sắc, rất hiện thực lại rất lãng mạn, và bóng bẩy vô cùng. Mấy câu:
như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
có phải là vừa cụ thể vừa trừu tượng không anh?
Nó đã ghim vào đầu em từ gần 1/4 thế kỷ. Nó đã ảnh hưởng rất tàn bạo vào thơ của em:
như con chim vành vạch
trên dòng đời lung linh
không tìm thấy bóng mình
ngả dài trên dốc lở
Anh là thi sĩ thứ hai sau Hàn Mặc Tử đã làm mới thơ ca Việt Nam khi đưa Thiên Chúa Giáo vào thơ một cách huyền diệu. Anh là nhà thơ thứ hai sau Nguyên Sa đã đưa các đồ vật, thú vật rất tầm thường vào thơ và trở nên đáng yêu lạ thường.
Anh đã sáng lập ra một thứ tôn giáo rất đời, mà “nàng” là vị giáo chủ cao cả và anh là tín đồ ngoan đạo. Thơ anh có một nửa của trái tim và một nửa của trí tuệ. Do đó, người đọc luôn luôn cùng thơ đứng giữa hai bờ tình cảm và ý thức; vừa bị xúc cảm, vừa bị rơi vào cái hố thẳm của suy tư, trăn trở, khắc khoải triền miên.
Thơ anh có một vùng đất ở phía ngoài ngôn ngữ thơ, đó là tiếng nói phản kháng thầm lặng của thân phận rất hẩm hiu của con người trước thượng đế. Thơ anh có một cõi im lặng, vô ngôn, rất tê buốt não nùng, là tiếng ôi, tiếng rên, tiếng thở dài; là nỗi đau đứt ruột xé gan đã từng có trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du. Ở một trạng thái cùng cực, thơ anh muốn trầm mình, muốn từ bỏ cái thực tại rất phũ phàng của mình, như những câu:
- tôi Lê. lê. Lê. Lê nào?
- cõi tôi, cõi nát, cõi tàn
- khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Đọc thơ anh, em thấy nỗi buồn, nỗi đau chập chùng, lớn quá, nó giằng xé con người “kiến tố bão phát”, trẻ thơ, vô tội, trước một thực tại u ám khôn lường, là nỗi cô đơn cùng tột, là sự phi lý tột cùng, như những câu:
- ở chỗ nhân gian không thể hiểu
- chỉ như một khác tấm gương soi
- tiếng kêu nào bên kia thời tiết
- hồn không còn cõi trú / xác không còn mái che
Từ thời tiền chiến đã có một tiếng thơ lẻ loi, cô đơn, lạnh lẽo: gọi đò một tiếng lạnh hư không của thi sĩ Quách Tấn, nhưng không tức tưởi như thế.
Những dấu chấm, dấu phẩy, dấu gạch chéo có khác chi những nhát chém của định mệnh khốc liệt, chém nát ngôn ngữ, chém nát cuộc đời, chém nát hồn người, bật thành những tiếng khóc nghẹn ngào, đứt quãng...
Nơi cõi thơ ấy, tất cả sự vật trở nên sống động, có hồn, tình yêu được thi hóa, thánh hóa. Ngay cả quê hương.Quê hương chập chùng, lồng lộng, hiện hữu, chiếm giữ suốt tâm khảm tác giả.
Anh đã nhìn trừng trừng, và quê hương hiện hình, không che đấu, lừa phỉnh:
- cái giải đất nóng khô cong hình chữ S
- ...cái giải đất rách nát nghèo đói vì chiến tranh
Vì dám nhìn thẳng mặt, nên thơ quê hương của anh, chưa có ai viết hay như thế, và cũng chưa có ai bị quê hương làm cho đau khổ cùng tận như anh:
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
Thơ anh đúng là tiếng kêu, tiếng gào, tiếng thét não nùng của thân phận con người khổ đau trước thượng đế. Em yêu thơ anh vì thơ anh đã nói như thế, đã nói giùm em những điều như thế. Thơ anh rất mới, lạ. Và sau 20 năm, thơ anh vẫn mới, lạ như thế. Có thể nói thơ anh hay trong tất cả mọi đề tài, mọi thể loại, dù bài đó là thể tự do, thơ mới hay lục bát. Ở thể nào, bài nào, thơ anh cũng nổi bật cách kết cấu bố cục thật chặt chẽ, nhất quán, trùng trùng, và bất ngờ. Tuồng như những con chữ của thơ anh đều có phát sáng óng ánh. Em nhận ra thơ anh tất cả đều bắt nguồn từ thực tại đời sống, bay bổng trên đôi cánh lãng mạn và mất hút vào bầu trời Thiện, Mỹ.
Thơ anh, tất cả đại khái như thế. Và cũng chính vì thế mà em yêu thơ anh. Và tất nhiên em biết, còn rất nhiều khác thế, mà em chưa biết, chưa nhìn thấy.
Kính thưa anh,
Em rất tin và nghĩ rằng, anh rất thông cảm, bao dung, vì một đời anh đã dám hy sinh cho cái Đẹp, cái Thiện, cái Chân, thì không bao giờ anh chấp những gì xuất phát từ một đàn em nhỏ nhưng rất thật thà. Em muốn viết những cảm nghĩ trên, để tỏ tấm lòng biết ơn anh đã ưu ái dành cho em những tình cảm sâu xa trong lần anh về Orlando trong cuối tháng 5 vừa qua.
.................................
Cuối cùng, em xin kính chúc anh chị và gia đình khỏe mạnh, hạnh phúc. Một năm mới và một cái Tết cổ truyền tại đất Mỹ vui tươi.
Kính.
VINH HỒ
(Orlando.)
Trần Quốc Việt
Chép Lại Một Bài Thơ Cũ
LNĐ: Đây là bài thơ của một người bạn trẻ trao tặng nhà thơ Du Tử Lê, nhân buổi anh tìm gặp họ Lê trong Chiều Thơ Nhạc Du Tử Lê / Austin, Texas, ngày 10 tháng 1-98. Tác giả kể bài thơ anh viết hồi tháng 2-1996. Sau khi đọc xong bài thơ của anh, không biết vì anh, thơ anh, hay vì cuốn thơ của Du Tử Lê mà người yêu anh đã bỏ anh...đi luôn!
Cũng như lá thư của Hồ Vinh, chúng tôi đăng tải bài thơ này, như những tiếng nói khác. Tiếng nói từ phía những đọc gỉa thầm lặng...
Tủ Sách Nhân Chứng.
nếu em ở lại đây
chiều nay
tôi sẽ đọc em nghe
những vần thơ
của Du Tử Lê
những vần thơ si mê
của tình yêu nghiệt ngã
(tập thơ tôi mua chiều qua
khi dạo phố
tìm vài quyển sách tặng em)
tôi sẽ đọc em nghe
những vần thơ
nhưng thôi em cứ đi
về bên thành phố ấy
với những cuộc vui
tôi sẽ ở lại đây
đọc cho mình nghe
tập thơ của Du Tử Lê
và đê mê
nỗi nhớ
nếu như em ở lại đây
...chiều nay
TQV
(Austin, chiều 23 / 2/ 96.
Nguyễn Ngọc Bảo
Ngày Xuân Đỏ Đen Cùng Chữ Nghĩa Với Hội VHKHVN Và Trò Chơi Thả Thơ Với Thơ Du Tử Lê
lê vương ngọc
thử áp dụng quan niệm về nghệ thuật và phê bình nghệ thuật của Oscar Wilde trong thơ Du Tử Lê
Trước hết, danh từ nghệ thuật đâ bao gồm các bộ môn có chất liệu hình, sắc, âm thanh và các bộ môn với chất liệu vô hình như tư tưởng, đam mê, tình cảm...
Oscar Wilde sinh năm 1854, mất năm 1890, gốc người Hòa Lan, tổ tiên sang phục vụ vương triều Anh, thế kỷ 17, và được cấp thưởng đất đai ở Ái Nhĩ Lan. Cha Oscar là một y sĩ nổi tiếng quốc tế với nhiều phát minh về chữa nhài quạt mắt, mẹ viết nhiều thơ văn tranh đấu cho sắc dân Ái Nhĩ Lan. Oscar thụ huấn tại đại học nổi tiếng Oxford, và chịu ảnh hưởng nhiều của hai học giả John Ruskin và Walter Pater, là những nhân vật chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Do đó, Osacar đưa ra: Mỹ thuật thuyết (Aestheticism,) chủ trương lý tưởng hóa cái đẹp đến độ Mỹ thuật vị mỹ thuật.
Oscar Wilde khởi sự viết rất nhiều thơ, làm báo, chuyển sang viết văn với cuốn The Picture of Dorian Gray, gây nên một cuộc tranh luận kịch liệt giữa hai phe tán thưởng và chống đối. Về kịch, Oscar có cuốn The Importance of Being Earnest, cũng thành công rực rỡ.
Thoạt đầu văn nghiệp của Oscar Wilde rất mịt mờ ở Anh, nhờ sau khi xuất bản tập thơ 1882, ông được mời qua Mỹ diễn thuyết tại nhiều nơi về văn nghệ. Khi hồi hương, sự nổi tiếng ở Mỹ đã giúp đẩy ông lên dài vinh quang tại quê nhà.
Ngoài thơ văn và kịch, ông còn gây được nhiều ảnh hưởng đương thời và sau này nhờ những bài tiểu luận về phê bình về quan niệm sáng tác và phê bìnhcác công trình nghệ thuật, ông được coi là một trong những đàm thoại gia sâu sắc, dí dỏm nhất nhân loại. Khi Thủ tướng Churchill được hỏi: “Sau khi về bên kia thế giới, Ngài muốn dược nói chuyện với ai?” Không đắn đo, Churchill đáp gọn: “Chắc chắn là Oscar Wilde.”
Quan niệm nghệ thuật và phê bình nghệ thuật sau đây của Oscar Wilde, dựa phần lớn ở tiểu luận The Critic As An Artist.
Theo ông, trong cách ngành văn nghệ thì văn chương là là phương tiện truyềøn thông tốt hơn các bộ môn có chất liệu hữu hình như điêu khắc, hội họa, bởi tự kỹ thuật những môn này khi hoàn tất coi như đã mang nội dung của chính mầu sắc, đường cong,... đầy đủ rồi (finite.) Trong khi một trong những yếu tính của nghệ thuật là bất tận (infinite.) Nên văn chương, với phương tiện diễn đạt là ngôn ngữ giúp cho người thưởng ngoạn nhìn thấy, nghe thấy và dĩ nhiên tưởng tượng thêm. Vẫn theo ông thì nhạc lại là bộ môn hoàn hảo nhất vì tính cách bất túc của nó (incomplete.) Ý nói nghe tiếng nhạc lâng lâng đi vào hồn ta, tiếp tục phiêu lãng trong cái chưa đủ, chưa thỏa mãn của trạng huống tinh thần.
Vì sống là thất bại (Life is a failure) do tính cách ngắn ngủi của cuộc đời, cùng với tính cách bất phản hồi của thời gian. Như Lý Bạch, nhà thơ Trung Hoa được Tây phương cực kỳ tán thưởng, đã viết: chiêu như thanh ty, mộ như tuyết. Nên theo Oscar, nghệ thuật phải ở trên đời sống. Và vì vạn vật trong vũ trụ sớm muộn đều bị tiêu diệt, duy nhất nghệ thuật còn sống và trường tồn qua thời gian.
Oscar Wilde cũng chủ trương nghệ thuật ngoài Luân Lý bởi kết quả tức khắc của một nghệ phẩm là khơi dậy một trạng huống tinh thần (to create a mood,) mà trạng huống tinh thần tự nó không xấu, cũng không tốt.
Trong lãnh vực nghệ thuật, Oscar Wilde cũng như Carl Jung đi tới lập luận: nguồn cảm hứng của nghệ thuật có thể tiềm tàng từ di truyền trong vô thức, kéo dài hàng triệu triệu năm, và như vậy, trí tưởng tượng sáng tạo là kết tinh của kinh nghiệm giòng giống (Imagination is simply concentrated race-expirience.)
Sang phần phê bình nghệ thuật, ở bình diện cao nhất phê bình chính là sáng tạo. Sự sáng tạo phê bình này có tính chất tế nhận, mà không phải là diễn tả. Cùng lúc, nó có tính độc lập vì nhà phê bình không giống như sáng tác gia bị lệ thuộc vào sự lựa chọn các chất liệu, đề mục của sáng tác phẩm.
Nhà phê bình cũng có thể ở một bình diện thấp hơn và chỉ đóng vai trò người diễn đạt nội dung của tác phẩm. Ngay ở trình độ này, nhà phê bình vẫn cần có một kiến thức bao quát và vững chắc về các lãnh vực văn hóa, để không rơi vào tình trạng chỉ lập lại điều sáng tác gia muốn truyền thông, và như vậy đã rời bỏ lãnh vực phê bình như một sáng tác nghệ thuật mà rớt xuống những mục điểm sách, điểm thơ, xem tranh, nghe nhạc..., thường thấy trên báo chí với mục đích phổ biến tin tức, kể cả tin tức văn nghệ.
Vì phê bình là sáng tạo, một loại sáng tạo của sáng tạo, nên để đạt tới mức độ đó, nhà phê bình xứng đáng với ý nghĩa này, phải tiềm tàng trong đầu óc, trong đời sống những tư tưởng, cảm xúc, ước mơ từ hàng ngàn vạn thế hệ trước đây. Đối với họ, không một hình thức tư duy nào là xa lạ; không một biểu tượng nghệ thuật nào là tối tăm, khó hiểu.
Nghệ thuật cao hơn đời sống. Đời sống chỉ là sự chồng chất các biểu tượng. Nghệ thuật chính là biểu tượng của các biểu tượng.
Nghệ thuật cao hơn thiên nhiên bởi thiên nhiên quá rậm rạp và thô sơ. Những bài thơ tồi cũng xuất phát từ rung động chân thành trước thiên nhiên thô sơ và rõ rệt. Cái gì rõ rệt là cái phản nghệ thuật (to be obvious is inartistic.)
Để thực hiện được phê bình như một nhà nghệ sĩ, Oscar Wide theo quan niệm không làm gì, chỉ tĩnh tọa và quán thông, nhàn lãm (contemplation) đời sống, để được hiện sinh và đang lập thành (The aim of life is not doing, but being, not being merely, but becoming.) Quan niệm này rất gần với thuyết vô vi thanh tịnh của Lão Trang. Oscar Wilde đã không nề hà thú nhận xuất xứ khi nại tới Trang Tử...“Nhà hiền triết mắt hạnh nhân nâu Trang Tử của sông Hoàng Hà đã chứng minh con người dù có thiện ý nhưng quá bận rộn với cuộc sống đã làm thui chột đi cái đức sáng sẵn có trong mình...”
Một lập luận về phê bình thật thi vị và thăng hoa của Oscar Wilde là tác phẩm có nghệ thuật phải tạo cho người thưởng ngoạn niềm ngỡ ngàng, kinh ngạc (wonder) và cảm thấy còn những điều kỳ bí (mysteries,) như vậy có vẻ chưa hoàn tất. - Chính do sự chưa hoàn tất mà tác phẩm trở nên tuyệt vời. – Chính do ngỡ ngàng và kỳ bí mà nhà phê bình đào sâu thêm, mở rộng ra, tái tạo được cái màn sương huyền ảo rất thân thiết, gần gụi cả với thần linh. Và với những người sùng bái thần linh nữa.
Tôi đã lược ghi quan niệm về nghệ thuật và phê bình nghệ thuật của Oscar Wilde. Nay tới lúc chúng ta lựa một ít thơ của Du Tử Lê để coi xem có sự tương đồng trong thơ chàng và quan niệm trên chăng?
Trước hết tôi chọn hai bài Ở Phương Đông và Vẫn Mãi Ở Phương Đông trong tập thơ Đời mãi Ở Phương Đông. Bài đầu, thi sĩ đã có sự lựa chọn thiên nhiên làm bối cảnh cho vỗ về, hứa hẹn:
...nơi sương sa như sữa suốt buổi chiều
nơi đêm bước những bàn chân rất chậm
riêng hàng cây vẫn đứng đó lầm lì
khi anh bỗng hôn em (trời lu sao tỏ)...
Rồi từ dòng thơ “Ta sẽ thở bằng trầm hương của gió” cho tới “Hoa vẫn nở ối vàng hồn tưởng tiếc...,” vẫn là thiên nhiên được đãi lọc, thi vị hóa và phà hơi sống, nhắm mục đích động lòng người tình, gây cảm khoái cho người đọc.
Trong bài sau, bài Vẫn Mãi Ở Phương Đông, bối cảnh thời gian đã khác nên thiên nhiên cũng đổi thay. Sự lựa chọn vẫn rất tinh tế và xót xa “...và những con nước kia – còn vỗ hoài hai bên bở tâm hồn ta xoi đá...”
Nhưng điều này đã có ở bài đầu, không còn lạ nữa. Điều lạ và đặc biệt ở đây, Du Tử Lê đã dùng chất liệu từ cõi thẳm sâu vô cùng của giòng giống con người trong tiến trình sinh hóa hàng triệu năm. Tại sao lại Phương Đông? Phải chăng vì đời sống chỉ có thể phát sinh với sự ấm áp của mặt trời mọc lên từ phương đông? Trong thơ Du Tử Lê đã xuất hiện “sự kết tinh của kinh nghiệm gòng giống.” Hãy đọc mấy câu thơ sau, ta dễ cảm thấy cái di truyền xa lắc của tiền sử:
“...Khổ ải đã như rừng / ta cố công mở lối
“...Ôi những móng tư thù / ngập vó đời bầm dập
“...cay đắng đã như sông / cách gì ta lấp được...”
Nói về tính chất di truyền và kết tinh giòng giống, tôi xin trích dẫn bài thơ sau đây, có một câu gây nên nhiều thắc mắc, thậm chí bị coi là tối nghĩa. Ai ngờ đâu chính sự tối nghĩa đó là một điều kiện tối cần cho thần linh và cả những người sùng bái thần linh như Oscar Wilde đã khẳng định; để được coi là “tới,” là tối hảo! Đó là một câu trong bài Đêm, Nhớ Trăng Saigòn.
Bắt đầu từ câu thứ nhì tới câu thứ sáu, đoạn thơ đã hội tụ đủ các tính cách di truyền kết tinh, vượt lên thiên nhiên, đọa hồn của một cặp trai gái mới lớn trong một tình yêu đầu đời dang dở mà người nữ chọn một con đường cụt bi thảm nơi một tu viện Cao nguyên; người nam mang nhục nhằn của một thân phận con dân da màu, nhược tiểu, lang bạt theo lốc bụi tàn khốc của nhân gian... Ở quê hương chúng ta, chắc từ lâu lắm đã có sự kiện đèn nến hai hàng thắp lên trong các vụ ma chay, giỗ chạp. Người nữ tu có thể nghe phong thanh người yêu chết trong những ngày cuối của chiến tranh Việt Nam; đã đau xót thắp lên những hương nến trong lòng; cùng lúc nhớ lại những hẹn hò, chậm tìm thấy nhau vì màn sương dầy đặc, chỗ đậm chỗ lạt, như những vuông khăn quàng trên cổ hàng cây cuối phố:
“...Tìm tôi đèn thắp hai hàng
lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây...”
Bây giờ thi nhân tưởng tượng trong mưa bay có hồn tu xứ, nơi chốn bạn bầu thân thiết, dìu dắt, nâng đỡ người yêu bé bỏng. Rồi chợt chiêng trống nổi lên... Chiêng trống cờ xí đón ai vậy? – Quan Nghè vinh quy chăng? – Không, chàng tưởng tượng ra người yêu đau khổ tự lừa mình bằng hoạt cảnh một đám cưới tưng bừng với nhịp trống chiêng, và có lẽ thêm cả hương nồng của pháo! Nhưng thi nhân còn tế ghi được sự kiện phũ phàng tàn nhẫn của định mệnh:
“...Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
tôi chiêng, trống gọi mỗi ngày mỗi xa...”
Chỉ một câu thôi, một câu thơ như “ngỡ hồn tu xứ mưa bay” cũng đủ choán cả tâm hồn ta, đưa ta hòa nhập làm một với vũ trụ, với dĩ vãng...
Nói về “hồn tu xứ,” trong một tình cờ, tôi được một cựu nữ tu sống trong tu viện cả chục năm để được thụ chức Ma soeur , phụng vụ Chúa, cho biết: vì tu viện là nơi đã dung nạp một khoảng thời gian khá dài, bao cảm xúc từ nhẫn nại, âu lo, thắc mắc; từ những dằng xé của tuổi dậy thì với các phát triển tự nhiên của nữ tính của “không hiểu vì đâu chim gọi nhau,” [...] tất cả họp lại như có một hồn chung, chia sẻ những manh nha tình cảm âm thầm của bày chim non dành riêng cho một sứ mạng...
Lại nói về một câu thơ cũng đủ nói lên cái tài hoa, cái nghệ thuật đã tới của một nghệ sĩ, tôi xin đan cử:
Thời kỳ sau 1945, người Hà Nội di cư khỏi nội thành đi dần vào chiến khu, tôi nhớ hai câu thơ được gán cho Nhạc sĩ văn Cao (?) “Mái buồn nghe sấu rụng – người xa xa chưa về...” Tôi có cảm giác như các mái nhà ở những dẫy phố hai bên đường trồng sấu, đều có tâm hồn, một tâm hồn biết buồn thương, tiếc nhớ. Lại khi ở Saigòn, tình cờ đọc một bài thơ trong Sáng Tạo, của Nguyên Sa, tôi nhớ câu thơ, độc nhất câu này thôi: “Tóc em chở củi làm thuyền.” (Nếu không đúng nguyên văn, xin cáo lỗi với tác giả.) Câu thơ gợi cho tôi tóc vàng của nữ lang, còn chở củi làm thuyền, tôi mường tượng tới người yêu của nàng vào núi đốn cây làm thành thuyền bè cho người vợ trẻ đẹp chở từng chuyến về xuôi. Câu thơ vang vọng mãi trong tôi cho tới nay.
Lại gần đây, một người bạn từ Chicago sang chơi vào dịp lễ Tạ Ơn, cho biết, báo chí Việt bên đó, đang ồn ào về tập thơ của Mai Thảo, Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền.
Tính chất kết tinh di truyền quá hiển nhiên, những người tiền sử sau buổi săn thú, thường về các hang động, xì sụp trước các totems. Sự kiện này đã tái diễn nơi tổ tiên ta trong các ngày lễ... Và Mai Thảo thấy trong các tiến kiếp xa xưa của mình sự hiện diện đều đặn nơi các miếu đền, có khi anh viễn cảm thấy hồn văn thơ của anh có thể “trở về ngôi” như Vũ Hoàng Chương đã viết...
Vì chính đời sống của Oscar Wilde thường đi bên ngoài nề nếp bảo thủ, khe khắt của Thanh Giáo dưới triều đại Victoria, bị coi là sa đọa, nên quan niệm nghệ thuật ngoài luân lý của ông, cũng gây ra nhiều phản đối, mặc dầu, đúng như ông đã lập luận: nghệ thuật chỉ nhắm tạo ra một trạng huống tinh thần (creation of a mood,) nên tự nó không thể là xấu hay tốt. Chỉ có hành động mới được xét là hợp hay không với luân lý. Cũng như tội lỗi, sa đọa mỗi thời, theo mỗi tôn giáo, luân lý đều có thay đổi và khác nhau
Thơ của Du Tử Lê cũng vượt ra ngoài khuôn khổ luân lý bình thường, nhất là khi nói về tình yêu. Hãy nghe Du Tử Lê kêu gọi ái ân và dựa vào một khẳng định tôn giáo để dẫn dụ, cổ súy cho yêu đương trong cuốn Thơ Du Tử Lê 1967-1972, xuất bản năm 1973, trang 133:
...Hãy đắp lên người anh
thịt da em ngào ngọt
ôi hương vị ái ân
ứ ngực anh hạnh phúc
...Hãy cám ơn tổ tông
mở đường cho ta thấy
tội lỗi muôn ngàn năm
không bao giờ xóa sạch...
Du Tử Lê cũng thản nhiên đến lạnh lùng, khi đề cập tới những điều cấm kỵ; những điều không thể nói ra; những chỗ không thể nhắc đến, như trong tập Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi, trang 41:
...và ký ức trả thơm về ngọn nhớ
ta trả ta về chỗ kín em / nâu
Hoặc:
ngay tự thuở thiên đàng chưa tiếng khóc
ai di truyền gene nhớ ấy cho ta...
Khi viết tới “chỗ kín” và “nhớ ấy” Du Tử Lê đã không kể giũ gìn đứng đắn...Và cũng không biết tới lỗi hay tội ở trong bài Tình Như Một Đường Gươm, nằm trong tập Đời Mãi Ở Phương Đông:
...sống như một vết thương...
dẫu địa ngục thiên đàng
ta là ta trước đã...
ôi đớn đau xé đời
bật lên ân nghĩa mới
dù uống cạn tình điên
có chi là đắc tội...
...bởi tôi cần cứu rỗi
Chúa xuống tự làn môi
em thổi tôi lớn dậy...
Lại nữa, trong tập Thơ Tình Du Tử Lê, trang 178, không thể nói rõ hơn về yêu đương trai gái trong phòng riêng:
em về trên chiếu chăn tôi
mùi hương Tháng Chín, nụ cười cuối năm
xót nhau bật máu, chỗ nằm
vết răng Tháng Chạp, dấu bầm Tháng Hai...
......
da người dấu cắn răng tôi
đó em. Giây phút mở đời đã ghi...
Theo Oscar Wilde, một tính cách khác của nghệ thuật thành công là sự tạo mới một hình thể (form,) để từ đó trỗi dậy bản năng mỹ thuật và bản năng này không hề sai lầm trong việc phát hiện cái đẹp của mỗi sáng tác phẩm. Trong chiều hướng này ta thấy sự đổi mới trong thể thơ Lục Bát của Du Tử Lê, với 4 bài mở đầu tập Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra, xuất bản năm 1993.
Trước hết là sự xử dụng bình thanh và trầm bình thanh hoàn toàn trong câu 6 chữ, thứ đến là sự ngắt đoạn trong mỗi câu tùy theo ý thơ, âm hưởng và hơi thơ như trong bài Nhật Thực:
...chiều co. Chiều co, tay gầy
duỗi đôi chân mỏng lên ngày tháng, lu
môi người. Môi người đang trưa
đỏ trong nhật thực. Ầm. Lua tiếng còn.
Hoặc cũng như trong bài Khúc Lầm Than Hạnh T., Thứ Nhất:
tìm người: chim không bay ngang
máu đông kỷ niệm, xương than, củi chờ
tìm người: đèn nhang hư, vô
sáng xin gia hộ. Chiều cầu siêu sinh...
Trong số các bài thơ của Du Tử Lê lựa ra để áp dụng theo tiêu chuẩn nghệ thuật và phê bình nghệ thuật của Oscar Wilde, có những bài thơ tôi sẽ kể sau đây, dĩ nhiên có hội tụ được nhiều điểm trên, nhưng đồng thời cũng gây cho tôi một cảm giác vời xa, bằn bặt, rồi như thiếp đi trong cơn mộng du, ra khỏi địa cầu nhỏ hẹp này. Càng đọc, càng suy cảm, trong óc tôi chợt lóe lên một tia sáng: Ồ! đây chính là sự sáng tạo trong phê bình nghệ thuật mà Oscar Wilde đã đề ra. Vào cuối thế kỷ 19 là quãng đời sinh hoạt nghệ thuật của Oscar Wilde, khoa học, nhất là khoa Vật-Lý-Thiên-Văn (Astro-Physics) chưa tìm ra rằngThái dương hệ của chúng ta là thế hệ thứ nhì, có nghĩa sinh sau, hợp thành lối 4 tỷ năm rưỡi sau thế hệ sao thiên hà thứ nhất. Chính nhờ sinh sau nên thái dương hệ, trong đó có trái đất, mới quy tụ được một số hợp chất nặng và nhờ hợp chất nặng này mới có sự sinh hóa thành các sinh vật hiện nay. Trong cơ thể con người có tới 99% các hợp chất đồng tính hiện có trong các vì sao. Vậy thì đi xa hơn kết tinh kinh nghiệm giòng giống hàng triệu năm, thơ Du Tử Lê đã vô thức đi ngược dòng thời gian biền biệt về tới chỗ hầu như là khởi đầu của cội nguồn: từ các vì sao nguyên sơ cách xa ta hàng ngàn, hàng tỷ năm ánh sáng!
Trong tập Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, trang 152, bài Thiên Địa Kinh, Du Tử Lê viết:
trời đất mênh mông
chẳng nơi nương tựa
......
ta như trăng sao
ở ngoài nhân thế...
Chỉ nguyên 4 câu đã cho ta thấy linh cảm của Nhà thơ gần như được hướng dẫn bởi Thượng Đế vì tôi biết Du Tử Lê không đọc Thiên-văn-vũ-trụ. Chắc chắn Du Tử Lê không biết lý thuyết mới nhất cho rằng vũ trụ là một khoảng không vô tận, vô bờ vô bến, hệt như trái đất “không nơi nương dựa.” Rồi kiếp trước, trước mãi... của Du Tử Lê là một trong những hợp chất tiên khởi ở một tinh cầu vô danh xa vời nào đó...
Nơi bài Lục Bát Sao Kim, trang 82, tập Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra:
...cây gùi chim đi theo đêm
núi bưng mắt nhọn. Suối vòng cung. Riêng
tôi lên rừng bồng sao Kim
những chân gió thúc. Cuồng điên vực, người.
Tôi không muốn tưởng tượng đi qua xá. Nhưng phải cảm được làm thế nào... “bồng được sao Kim” nếu thẳm xa trước đây thi sĩ không phải là một thành phần của một supernova nào đó, đã nổ tan và phân hóa ra một số các vì sao, hành tinh nhỏ khác; trong đó có sao Kim?
Nói về tính chất phản hồi về nguyên thủy vũ trụ trong thơ, tôi sẽ thiếu sót nhiều nếu không đề cập tới bài “Hạnh Phúc Cũ 27 Năm Sau Gửi Huyền Châu”, trang 41, tập Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu. Ngay 2 câu đầu:
đường trên cao. Dốc dưới đèo
lá ôm vai tội. Cây treo giữa trời
Đã tả y hệt khung cảnh trong đoạn đầu bài “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn” và rõ ràng bài trước, đoạn đầu, dù tác giả ý thức được hay không, cũng đã dành cho Huyền Châu, người đã đi tìm hạnh phúc với nhà thơ 27 năm trước đây. Sau hai câu đó, là những kỷ niệm thật nên thơ, thật dễ thương của cập tình nhân có cả một thái dương hệ quay cuồng, nhẩy múa, mừng vui cho lứa đôi trong một địa đàng hiếm họa.
Điều đặc biệt sau cùng trong bài thơ này cũng liên quan tới khoa vật-lý-vũ-trụ học, là theo một giả thuyết, con người qua tốc độ của ánh sáng, có thể đi ngược về dĩ vãng, từ đó gây cảm hứng cho cuốn phim Back to the Future. Thử đọc hai câu:
...năm hai ngàn. Năm hai ngàn
tình yêu ta cũng võ vàng: thôi nôi...
Ta cảm thấy có Back to the Future và Ahead into the Past.
Để kết luận, tôi cảm thấy hài lòng trong việc tìm hiểu thơ Du Tử Lê dưới ánh sáng quan niệm nghệ thuật của Oscar Wilde. Tôi cũng hân hoan thấy mình đã theo được những yếu tính “sáng tạo trong sáng tạo” cần thiết của một nhà phê bình.
Cuối cùng, tôi chỉ còn ao ước sẽ có một số cá nhân hoặc một tổ chức văn hóa nghệ thuật đủ điều kiện gom vốn và sức để xuất bản một Thơ Du Tử Lê Toàn Tập như cuốn “Complete Works of Oscar Wilde” của nhà xuất bản Collins mà tôi đang đọc lại.
LÊ VƯƠNG NGỌC
(Aliso Viejo 3-2-98)
thái tú hạp
Quyền Uy Trong Vương Quốc Của Nhà Thơ Du Tử Lê
(bài nói chuyện tại trụ sở Cộng đồng Người Việt vùng San Fernando Valley, ngày 28-11-97)
“Nếu tôi có được quyền uy trong vương quốc của nhà thơ Du Tử Lê, tôi sẽ mời tất cả những người tình của Du Tử Lê đến, để trao tặng một đóa hoa hồng cảm ơn. Vì chính những người phái nữ này, là nguyên nhân đối tượng để cho nhà thơ Du Tử Lê cảm hứng sáng tạo nên những bài thơ tình say đắm, diễm tuyệt...”
TTH.
Như một đồng điệu thân thiết, hơn ba mươi năm qua từ những thi phẩm xuất hiện đầu tiên trên những tạp chí văn học ở Saigòn, cho đến nay, trên những chặng đường trôi nổi thăng trầm của lịch sử, của mệnh nước, và của cuộc đời, tất cả đã tạo cho chúng ta một kết luận để nhận định rằng: Du Tử Lê, chàng lãng tử đã ăn ở thủy chung với văn chương Việt Nam lâu dài nhất.
Với văn chương, Du Tử Lê chưa hẳn là nơi chốn giải sầu, tạm quên lãng những phù trầm nhân thế, những giải tỏa niềm đau khoảnh khắc, là cõi tịnh an sau những miệt mài xông xáo vào cuộc sống đầy khói xe và tiếng động.
Văn chương Du Tử Lê hiện thực, đầy tim óc và tủy xương tận tình như một nghiệp dĩ. Bóng với hình đeo đuổi nhau đến suốt một đời. Không biết có phải đó là một ân huệ hạnh phúc, hay là những nỗi niềm chua cay của tâm trạng người vác thập tự giá băng ngang cuộc đời đầy khổ lụy. Chúng ta có thể tìm thấy tâm trạng khắc khoải, u uẩn đó trong Thơ Tình, trong Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà, hay Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, Đi Với Về Cũng Một Nghĩa Như Nhau...
Một bài thơ biểu trưng, Cõi Tôi:
cõi tôi, cõi nát, cõi tàn
cõi hoang mang, vội, cõi bàng hoàng, qua
cõi vui thân thế cỗi già
cõi lang thang mượn mái nhà hư, không
cõi xanh, cõi lạnh, cõi cùng
cõi con muốn bỏ, cõi chồng, vợ, xa
cõi em muốn dạt chân về
cõi đau nhân thế, cõi thề thốt, quên
cõi nào cõi thật, tôi riêng?
cõi đêm máu chẩy, cõi thương, nhớ, trùng
cõi tôi, cõi mịt, cõi mùng
thôi em có ghé xin đừng nghỉ lâu
cõi đời đó, có chi đâu!
Chỉ bài thơ này thôi, Du Tử Lê đã vẽ lên chân dung đích thực, và cho chúng ta cảm nhận rõ nét nhất. Đối với tôi, Du Tử Lê vẫn là người lãng tử hạnh phúc nhất. Ông đã vượt tới cái tâm thức bát nhã, cái thể lý đồng nhất của vũ trụ... Tiếng vọng lại bên kia bờ tử sinh chỉ là cõi tâm động ngoài biên giới tình yêu.
Hòa nhập vào cõi thơ Du Tử Lê mà chỉ đề cập đến hơi thở riêng tư của tình yêu thì hơi qúa hồ đồ, thiển cận.
Trong cõi thơ Du Tử Lê chúng ta còn tìm thấy cái mênh mông của tình yêu, từ tiểu ngã đến đại ngã, từ giọt nước hòa nhập vào đại dương để hóa thân thành tình bằng hữu, tình sông núi quê hương, tổ quốc ngàn dậm xa cách. Cho dù ở cửa ngõ nào của tình yêu, Du Tử Lê vẫn là chàng lãng tử thủy chung với văn chương Việt Nam dài lâu nhất. Anh viết văn làm thơ không mệt mỏi, phong phú, luôn luôn mải miết khám phá những sáng tạo tân kỳ, như nhà hướng đạo tiên phong luôn luôn tìm kiếm khai quang con lộ mới văn chương. Mỗi năm Du Tử Lê đều có thơ, văn trình diện với đời, với bằng hữu. Quả đúng như nhận xét của nhà văn Mai Thảo:
“Tiếng thơ Du Tử Lê bây giờ, theo tôi, là tiếng thơ vô địch. Hắn bỏ lại sau lưng những người đồng thời. Trong sự bỏ lại kia, có cả tôi nữa.
“ Tôi ví tiếng thơ Du Tử Lê là tiếng thơ Aùo Vàng. Và ngôi vị vô địch của Du Tử Lê, tôi nghĩ khó ai có thể theo kịp hoặc thay thế nổi.”
Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của nhà văn Mai Thảo. Nhưng theo tôi vẫn chưa đủ, và hình như không công bằng.
Chúng ta chỉ nhìn thấy những sắc mầu rực rỡ của những đóa hoa trong khu vườn xinh đẹp, mà không nghĩ đến những đối tượng tạo thành, như đất nước, khí trời, và cả người làm vườn tỉa sâu, chăm sóc.
Chúng tôi muốn nói đến nguyên nhân đối tượng thầm lặng. Nếu tôi có được quyền uy trong vương quốc của nhà thơ Du Tử Lê, tôi sẽ mời tất cả những người tình của Du Tử Lê đến, để trao tặng một đóa hoa hồng cảm ơn. Vì chính những người thuộc phái nữ này, là nguyên nhân đối tượng để cho nhà thơ Du Tử Lê cảm hứng sáng tạo nên những bài thơ tình say đắm, diễm tuyệt; (và theo nhận xét của riêng tôi, thơ tình Du Tử Lê vẫn trội vượt hơn cả.)
Chính từ những xúc cảm đó, chúng ta mới có duyên may thưởng ngoạn, chia xẻ với nhau trong Đêm Thơ Du Tử Lê này.
THÁI TÚ HẠP
Nguyễn Khắc Nhân
Về Du Tử Lê
(Không có bài)