"Một bài thơ cũ" do Lê Hoàng Tuấn Kiệt phụ trách
Buồn ở đâu theo tối xuống rồi,
Đã tràn u ám cả hồn tôi
Đang ngồi say khướt bên ao vắng
Tha thẩn nhớ người không nhớ tôi.
Viết vội mấy dòng kẻo ý tan
Đang khi hồn ở chốn mơ màng
Để mong ân ái vài giây phút
Giữa lúc say say tưởng cạnh nàng.
Viết được mấy dòng rặt những: em
Thế rồi khoa chén uống huyên thiên
Bởi vì mai tỉnh, giờ vui hết,
Nàng sẽ quay về ở chốn tiên.
Người ở tiên cung vốn lạnh lùng
Có bao giờ bận với yêu mong
Mà tôi yêu lắm, tôi mong lắm,
Nàng có bao giờ biết thế không?
Chả nhẽ suốt đời trong mộng tưởng
Chỉ say mới dám ngỏ yêu nàng!
Lòng ơi! Gió đã về bên ấy
Còn đợi bao giờ nhắn ý sang?
*
Qua lại say rồi, nay lại say,
Rượu vơi, buồn vẫn lẩn đâu đây.
Nghiêng hồ tôi rót cho đầy chén
Để giữ người yêu hết trọn ngày.
Nàng chỉ thăm tôi những lúc buồn,
Khi hồ đầy rượu, buổi hoàng hôn,
Lúc hồn chuếnh choáng say say ấy
Rồi lại quay về tận cuối thôn.
Nàng về thôn nảo thôn nao ấy
Sau núi nghiêng nghiêng đá trập trùng
Những buổi chiều vàng, sau nắng lạt,
Theo chiều lại đến với yêu mong.
Chiều nay nàng đến trong ly rượu
Tôi uống vơi vơi hết cả nàng.
Tôi uống dặt dè từng hớp một,
Sợ mai nàng bận chẳng buồn sang.
Trăng đã lên cao. Rượu cạn rồi,
Cả nàng đã đắm cả hồn tôi.
Ngày mai rượu hết nghiêng hồ rỗng
Vét chút hương còn ép sát môi.
Đăng trên Tiểu thuyết thứ Năm
Đỗ Huy Nhiệm
Đỗ Huy Nhiệm sinh ngày 16/3/1915, là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến, chánh quán ở Phú
Yên, nhưng sinh ra ở Nam Định. Trước ông họ Hồ, sau đổi ra họ Đỗ.
Thuở nhỏ, ông học ở Nam Định cho đến khi đỗ bằng thành chung, rồi lên Hà Nội học tiếp cho
đến khi thi đỗ tú tài.
Khoảng năm 1941, ông vào làm ở Sở Trước bạ Hà Nội. Tháng 10/1941, ông được Hoài Thanh
và Hoài Chân viết bài giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).
Ông có thơ đăng trên các báo thời bấy giờ, như: Phụ nữ thời đàm, Tân thiếu niên, Tiến hoá, Văn
học tạp chí, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ năm...
Tháng 9/1968, Đỗ Huy Nhiệm lại được Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu
trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (1969).
Ông còn dùng các bút danh Đỗ Phủ, Thiếu Lăng.
Tác phẩm:
- Khúc ly tao (thơ, 1934)
- Thiên diễm tuyệt (thơ, 1936)
- Tiền kiếp (tập truyện ngắn, Tam Kỳ thư xã Hà Nội xuất bản, 1943).
Buồn ở đâu theo tối xuống rồi,
Đã tràn u ám cả hồn tôi
Đang ngồi say khướt bên ao vắng
Tha thẩn nhớ người không nhớ tôi.
Viết vội mấy dòng kẻo ý tan
Đang khi hồn ở chốn mơ màng
Để mong ân ái vài giây phút
Giữa lúc say say tưởng cạnh nàng.
Viết được mấy dòng rặt những: em
Thế rồi khoa chén uống huyên thiên
Bởi vì mai tỉnh, giờ vui hết,
Nàng sẽ quay về ở chốn tiên.
Người ở tiên cung vốn lạnh lùng
Có bao giờ bận với yêu mong
Mà tôi yêu lắm, tôi mong lắm,
Nàng có bao giờ biết thế không?
Chả nhẽ suốt đời trong mộng tưởng
Chỉ say mới dám ngỏ yêu nàng!
Lòng ơi! Gió đã về bên ấy
Còn đợi bao giờ nhắn ý sang?
*
Qua lại say rồi, nay lại say,
Rượu vơi, buồn vẫn lẩn đâu đây.
Nghiêng hồ tôi rót cho đầy chén
Để giữ người yêu hết trọn ngày.
Nàng chỉ thăm tôi những lúc buồn,
Khi hồ đầy rượu, buổi hoàng hôn,
Lúc hồn chuếnh choáng say say ấy
Rồi lại quay về tận cuối thôn.
Nàng về thôn nảo thôn nao ấy
Sau núi nghiêng nghiêng đá trập trùng
Những buổi chiều vàng, sau nắng lạt,
Theo chiều lại đến với yêu mong.
Chiều nay nàng đến trong ly rượu
Tôi uống vơi vơi hết cả nàng.
Tôi uống dặt dè từng hớp một,
Sợ mai nàng bận chẳng buồn sang.
Trăng đã lên cao. Rượu cạn rồi,
Cả nàng đã đắm cả hồn tôi.
Ngày mai rượu hết nghiêng hồ rỗng
Vét chút hương còn ép sát môi.
Đăng trên Tiểu thuyết thứ Năm
Đỗ Huy Nhiệm
Đỗ Huy Nhiệm sinh ngày 16/3/1915, là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến, chánh quán ở Phú
Yên, nhưng sinh ra ở Nam Định. Trước ông họ Hồ, sau đổi ra họ Đỗ.
Thuở nhỏ, ông học ở Nam Định cho đến khi đỗ bằng thành chung, rồi lên Hà Nội học tiếp cho
đến khi thi đỗ tú tài.
Khoảng năm 1941, ông vào làm ở Sở Trước bạ Hà Nội. Tháng 10/1941, ông được Hoài Thanh
và Hoài Chân viết bài giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).
Ông có thơ đăng trên các báo thời bấy giờ, như: Phụ nữ thời đàm, Tân thiếu niên, Tiến hoá, Văn
học tạp chí, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ năm...
Tháng 9/1968, Đỗ Huy Nhiệm lại được Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu
trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (1969).
Ông còn dùng các bút danh Đỗ Phủ, Thiếu Lăng.
Tác phẩm:
- Khúc ly tao (thơ, 1934)
- Thiên diễm tuyệt (thơ, 1936)
- Tiền kiếp (tập truyện ngắn, Tam Kỳ thư xã Hà Nội xuất bản, 1943).
Gửi ý kiến của bạn