Trên đường Bolsa ngày xưa có một restaurant tên Phở Ngon, rất rộng, có bục sân khấu nho nhỏ, các ca sĩ đi hát về khuya, các nhạc sĩ, văn sĩ, ký giả… tụ hội rất vui hàng đêm. Tôi nhớ tiếng kèn Đặng Nho, một người bạn tôi thích. Bốn mươi năm không gặp, chả hiểu còn sống hay đã chết. Bạn bè văn nghệ mỗi ngày một vơi. Tiếng hát mạnh của Nguyễn Đức Quang, nhạc sĩ du ca của một thời, cũng đã thành đất. Trước, mỗi lần gặp tôi trên chiếc xe lăn, anh thường lắc đầu trắc ẩn,
“Ráng khỏe vui với anh em…”
Tôi không khỏe nhưng vẫn lây lất đến hôm nay, còn anh thì… Buồn quá, bạn bè.
Một buổi tối tôi đến Phở Ngon cùng với Cao Xuân Huy, Phạm Công Thiện, hình như có cả Lê Giang Trần (phải không, LGT? Già, trí nhớ cùn nhụt). Bàn cạnh là Mai Thảo cùng vài người bạn đứng tuổi. Chúng tôi uống cô nhắc. Hơn nửa chai, tôi bắt đầu muốn cà khịa. Tôi có một tật vô cùng xấu, vì tật này tôi mất nhiều bạn: say, hay quậy. Ai làm tôi gai mắt, thế nào tôi cũng tìm cớ cà khịa. Đánh nhau không hơn ai, nhưng lại muốn đánh nhau, để… bị đánh! Nay già rồi, lại tật nguyền, máu nóng xưa kia đã nguội, nghĩ lại, bậy bạ hết sức. Mai Thảo oang oang mắng Vũ Huy Quang,
“Mày mà viết lách gì, thằng chợ giời!”
Vũ Huy Quang:
“Anh nói thế nào, tôi cũng có sách xuất bản hẳn hòi. “
“Hườm… vất sọt rác, văn chương phải giời đất, viết như mày…”
Vũ Huy Quang rất yêu Mai Thảo, anh thích chọc cho Mai Thảo nổi giận, chửi vung, để vui.
Ngược lại Mai Thảo chưa ghét bỏ ai bao giờ. Anh chửi, như một thói quen, một cách mắng yêu, chỉ trong bàn nhậu. Suốt cuộc đời sống với văn chương, tôi cũng như mọi anh em khác, chưa thấy Mai Thảo chửi ai trên giấy trắng mực đen.
“Sao lại chửi nhau nhỉ, chữ nghĩa đẹp lắm cơ, phải tử tế với nó.”
Bài học này, một cách gián tiếp, Mai Thảo đã dạy tôi. Mấy mươi năm cầm bút, nhiều lúc bức xúc quá, vì bị dí đến chân tường, tôi có phản ứng, nhưng kìm được ngay. Tôi nghĩ đến Mai Thảo.
Nhưng đó là chuyện sau này, khi đã quen với Mai Thảo, tình thân gắn bó chúng tôi, hơn cả anh em ruột. Tuy không đồng ý với chủ trương hợp lưu do tôi chủ xướng, nhưng người đầu tiên tôi phỏng vấn cho số Hợp Lưu ra mắt là nhà văn Mai Thảo. Anh trả lời tôi vì tình thân hơn vì chính kiến.
Trở lại chuyện chính.
Nghe Mai Thảo mắng Vũ Huy Quang, tôi nóng máu đứng dậy qua bàn anh, cà khịa,
“Văn chương anh ra cái đếch gì, ỏng a ỏng ẹo làm duyên làm dáng không giống ai. Bày đặt chửi người này người nọ.”
Mai Thảo nhướng mắt, nhìn,
“Thằng nào thế nhỉ….”
Phạm Công Thiện nói với qua,
“KT, mày say rồi. Mai Thảo, nó say, bỏ qua đi.”
“Hườm… Say à, uống được nữa không, ngồi xuống.”
Thế đấy, tôi quen Mai Thảo như thế đấy.
Hình như có một sợi dây vô hình gắn bó chúng tôi. Tôi gây với anh nhưng lòng tôi không bực bỏ. Anh cũng thế, mấy mươi năm, chưa một lần anh mắng tôi. Chả phải anh sợ vạ gì tôi, anh thương tôi như thương một đứa em ngỗ nghịch.
Trên dưới 50 tác phẩm của anh, tôi đọc, không thích phần lớn. Xưa, anh sống thuần túy bằng chữ nghĩa, có dạo anh viết đến 6 truyện dài đăng từng kỳ cho 6 nhật báo. Nhậu, nhảy đầm, bài bạc, gái trai nhăng nhít, thì giờ đâu để đầu tư. Viết nhiều như thế làm sao hay được. Nhiều đến nỗi anh không nhớ đã viết gì, trước đó. Anh đến tòa báo, bảo quản lý đưa anh số hôm qua, đọc sơ lại để nắm diễn tiến câu truyện, hầu viết tiếp. Thậm chí khi các nhà xuất bản gom lại in thành sách, độc giả đọc, than phiền sao nhân vật nữ này chưa có chồng, giữa truyện lại về thăm con, đã gần 4 tuổi. Anh đã nhớ lầm một truyện khác, khi viết!
Nhưng tôi rất mến anh, bởi phong thái sống, bởi sự hào sảng (anh thường chia hai cọc tiền vốn kinh niên mỏng của mình cho tôi những lúc tôi sạch túi), trượng phu, nam tính, không bao giờ làm phiền ai, ngoại trừ trường hợp chẳng đặng đừng. Anh luôn tự trọng. Vô cùng tự trọng. Tôi có một phòng kế phòng anh, một hôm tôi bệnh, nằm bẹp dí trong phòng. Anh cũng đang bệnh, văn hữu đến thăm, anh bảo,
“KT nó bệnh, qua với nó đi, tôi không sao.”
Tôi chỉ bệnh do thời khí. Anh bệnh, như ngọn đèn cạn dầu, mỗi ngày một yếu. Anh không lo cho bản thân, chỉ lo cho thằng em ngỗ nghịch.
Một buổi sáng tôi qua tính chở anh đi uống cà phê. Cửa phòng khép hờ, tôi gõ cửa vài lần, không ai lên tiếng. Tôi hảy nhẹ vai, bước vào. Phòng trống. một bức vách ngăn chia “phòng” trước và “phòng” sau, nơi có bồn rửa mặt, bồn tắm, cũng là nơi để chén đĩa soong nồi, bếp điện. Mai Thảo đang lốp ngốp trong bồn ngập nước, ướt sũng, cố bước ra ngoài bồn nhưng không được, anh quá yếu, không nhấc chân nổi qua thành bồn. Tôi vội bước nhanh lại, bế anh ra giường, lục tìm bộ quần áo khô,
“Anh thay đồ đi, lạnh.”
Mai Thảo cười hom hem, chữa thẹn,
“Bố khỉ cái bồn tắm, sao nó làm cao thế.”
Tôi nhìn anh, ứa nước mắt.
Đó là những ngày cuối đời. Không lâu sau anh vào phòng hồi sinh. Tôi, Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Xuân Hoàng, Bùi Bảo Trúc vào thăm. Anh da bọc xương, nằm thoi thóp trên giường, ống mủ ngang dọc khắp người,
“KT, lấy chai rượu mời anh em hộ tôi, hôm qua say quá không dậy nổi, xin lỗi các bạn nhé.”
Bùi Bảo Trúc nói nhỏ,
“Mai Thảo lẫn rồi.”
Ngày hôm sau chúng tôi đến, Mai Thảo đã ra đi, người ta đã mang anh xuống nhà xác.
Cô y tá nói,
“Nửa đêm ổng bức hết dây truyền dưỡng khí, truyền nước biển. Sáng ra chúng tôi đến thì ổng đã chết.
Trên bia mộ Mai Thảo, tôi đề nghị khắc bốn câu thơ của anh:
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao, khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Gửi ý kiến của bạn