Vào những ngày đầu năm, ở Saigon Nhỏ Quận Cam
Con đường Bolsa chạy về phía Bắc đến góc
Trong những ngày ở Saigon Nhỏ, chạy theo con đường Bolsa về phía nam đến
Từ Bàn Viết Houson, trên tờ Văn nghệ năm 1993, đi vào con đường Y khoa và văn nghệ, xưa như Louis Pasteur vừa là nhà khoa học và là triết gia vừa là nhà văn, từ bài viết về “ngừa bệnh dại” cho đến đoạn văn đọc khi ông về thăm căn nhà cũ sau khi ông đoạt giải Nobel, ca tụng công ơn cha mẹ đã là những áng văn bất hủ đã để lại trong kho tàng văn chương thế giới. Câu nói của ông: “Nhìn dưới kính hiển vi thấy những sinh vật vô cùng nhỏ, khi nhìn lên bầu trời bao la lại thấy những vật vô cùng to lớn mới thấy vũ trụ được cấu tạo bởi một bàn tay huyền diệu” là một câu triết học của con người khoa học.
Sau Louis Pasteur có nhà bác học Christian Barnard với cuốn “Y khoa thực nghiệm” đã dựng nên nền tảng khoa học và triết học Tây phương. Tiếp theo, bác sĩ Alexis Carrel, nhà giải phẫu mạch máu, giải Nobel, là tác giả cuốn “Homme cet inconnu” một cuốân sách để đời cho y khoa và văn học.
Nhà văn nổi tiếng Sommerset Maugham, nổi tiếng với cuốn Of Human Bondage (Kiếp người, 1915) đã bỏ hẳn nghề y sĩ sản khoa để theo đuổi sự nghiệp văn chương. Ông viết dễ dàng nhờ những kinh nghiệm của cuộc đời y sĩ vì có gì huyền nhiệm hơn tử sinh?
Có gì trầm thống hơn nỗi đau khổ của con người? Phật thấy tứ khổ sau chuyến du ngoạn ngoài hoàng thành còn người y sĩ nhìn thấy tứ khổ mỗi ngày và trong suốt cuộc đời y sĩ. Những nỗi đau khổ của kiếp người và sự tàn tật của cá nhân ông đã giúp Sommerset Maugham xử dụng những chất liệu giầu có và đẹp đẽ trong các tác phẩm khác của ông như Moon and six pence, The Razor’s edge và The Magician.
Có thể nói, nếu không có nhà thơ “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu” thì đã không có cột mục Từ Bàn Viết Houston. Sau khi tờ Văn Nghệ đình bản, có lẽ một phần vì lời hứa sau ly
Hơn 13 năm trước, khi gặp Du Tử Lê, tôi biết được cả hai chúng tôi đều có cùng một tật do trời sanh ra. Tật sáu ngón, cùng dư ngón cái ở bàn tay phải. Người ta hay nói, có tật có tài. Điều đó đúng với Du Tử Lê, một người nhiều tài và nhiều tật còn tôi ngược lại ít tài và nhiều tật. Một trong những tật từ nhỏ không bỏ được là quên nghề nghiệp đi la cà với giới văn nghệ và mê sách vở. Cũng chỉ vì hai tật này mà tôi gặp Du Tử Lê qua ông Trọng Kim.
Ông thi sĩ “đi với về cùng một nghĩa như nhau” chỉ khác tôi ở cái tật nghịch ngợm. Bố của thi sĩ, vì tật sáu ngón tay, đã dăt cho ông con tên Lê Cự Phách, ngón tay lớn, còn cha tôi thực tế hơn khi tôi lên năm tuổi trước khi đi học được ông đem vào bệnh viện Chợ Rãy để cắt đi cái ngón tay dư nằm cạnh ngón tay cái dài hơn ngón giữa vướng víu khi cầm viết. Cái ngón tay dư đó được tôi cấât vào trong chai alcohol, bỏ trong túi quần mỗi ngày đến trường. Nhờ con chó Jacquot to lớn và ngón tay dư đó mà tôi tránh được cảnh các ông con nít hàng xóm bắt nạt cho đến một ngày tôi bắt buộc phải ném lọ cồn chứa ngón tay vào mặt ông nhô con bắt nạt tôi, lọ cồn vỡ, ngón tay bị bạn bè đá như đá bóng thì ngón tay dư đó mới rời khỏi hẳn cuộc đời tôi. Nó không đi theo tôi như cái tên Lê Cự Phách đi theo Du Tử Lê suốt cuộc đời.
Du Tử Lê làm thơ rất dễ dàng như “Đêm ở biển Galvleston với Việt Nguyên, tưởng thấy Vũng Tàu, cũ” được Lê làm ngay sau khi chúng tôi nằm nói chuyện với nhau, một đêm, tiếng sóng
“Dễ chừng hai mươi năm
Chúng ta đã quên khuấy những cây bàng bãi trước
Sự thật chẳng còn gì để nói thêm về biển
Ngoài việc hãy dựng ngay đài kỷ niệm
Làm trại tạm cư cho trăm ngàn linh hồn uổng tử
Tổ quốc thở ngoài ta, nói gì không giả dối
. . . . . .
Sự thật chẳng có gì để nói thêm về biển
Ngày em cũng quên
Buổi sáng. Bãi sau. Ông Tàu già hiện thân thùng nước lèo, Tô hủ tiếu
Những sợi bánh em nút ngon lành.
Nhiều năm sau nữa, những trận mưa ở thành phố
ở đó tôi với những người bạn khác trong những cơn gió mịt mùng vẫn nhớ đến những câu thơ chót của Du Tử Lê trong bài thơ ấy:
“Sự thật chẳng còn điều gì để nói thêm về biển
Một trận mưa nửa đêm
Đủ vùi chôn hết thảy
Nếu ta được tái sinh
Xin làm: Đêm. Biển ấy”
Khi tôi viết về một căn nhà của tôi, một ngày đã bỏ đi, một ngày lại được trở về. Khi tôi viết về bà mẹ, bà mẹ già của Du Tử Lê lại đến với tôi. Hình như Du Tử Lê làm thơ về mẹ anh cũng giống như mẹ tôi và những bà mẹ khác. Một người mẹ già suốt đời cần cù rồi cuối cuộc đời cũng trắng tay.
“Trí nhớ tôi là căn nhà nằm ven sông Đáy
Ngôi nhà có rất nhiều cửa sổ
Có cánh cửa ngó xuống nỗi lầm than của mấy đời chạy
giặc”.
Một bà mẹ chất phác và ngỡ ngàng, mất hẳn một ngôi nhà cũ quen thuộc, bà mẹ của Lê đã làm tôi nhớ về bà cụ mẹ của vợ tôi vừa qua đời:
“Những khuya tỉnh dậy
Mẹ tôi chỉ băn khoăn có một điều: cửa giả
Bà sợ chúng tôi quên khóa cửa
Kẻ trộm sẽ vào lấy gạo, lấy cơm
Hơn hai mươi năm ở đây
Chưa bao giờ mẹ tôi tin rằng bà đã ra ngoài đất nước
Hai mươi năm không thật
Hơn hai mươi mẹ tôi sống như còn ở quê nhà”.
Bà mẹ của Du Tử Lê như bà mẹ Việt
“Trong ký ức tôi
Chỉ có một mẹ già
Một buổi sáng bước ra
Ngỡ ngàng đặt tay trên lồng ngực lép
Lồng ngực Việt
Lòng ngực buồn như đất nước xa
Lồng ngực thở bao năm. Lồng ngực Phủ Lý, Bắc Cạn,
Nho Quan, Đồng Quan, Đồng Văn, Cống Thần, Chợ Đại
Lồng ngực hom hem vì dứt ra cho con
Những chuyến xe nửa đường nửa đoạn
Những chuyến xe chưa kịp về sông Đáy đã nghe buồn
trên những trở lui.” (Thơ Mẹ Du Tử Lê)
Và, cũng những ngày ở quận
“Nhớ nghĩa trang quê bạn bè
Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường”
Ở chỗ này, nhân gian đều hiểu tấm lòng của Du Tử Lê.
Việt Nguyên
(Bán nguyệt san Ngày Nay,