dutule.com: Chúng tôi đăng lại, bài Du Tử Lê viết về bạn mình, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, như món quà muộn, mừng Sinh Nhật anh.
***
Là một nhà văn nổi tiếng của miền Năm từ những năm cuối thập niên 60, Nguyễn Xuân Hoàng có lẽ là nhà văn có ít tác phẩm nhất so với những người cùng thời với ông, như Nguyễn Mộng Giác, Phan Nhật Nam, Cung Tích Biền,...
Bởi vì, mỗi tác phẩm, với Nguyễn Xuân Hoàng, là một công trình văn chương tổng hợp hai yếu tính: cách viết hay kỹ thuật viết và, không khí truyện.
Chúng ta có thể nói, Nguyễn Xuân Hoàng là một nhà văn thận trọng với tất cả mọi điều ông viết xuống, mà không phải e ngại rằng, đã có một vội vàng nào đó, qua ghi nhận ấy.
Mới đây, trong một bài viết, như một bài viết, nhằm trình bày quan điểm riêng của họ Nguyễn, nhiều hơn là một tiểu luận văn chương, đó là bài viết nhan đề:
“Tượng Tượng và Hiện Thực,” đăng tải trên nhật báo Người Việt, số Chủ Nhật, số đề ngày 4 tháng 11 năm 2001.
Mở đầu bài viết của mình, tác giả “Bụi và Rác” viết:
“Có lần tôi được nghe một ‘ông bạn cầm bút’ bảo: ‘Này ông, tôi biết tay X. chưa bao giờ ở Hà Nội một ngày mà sao dám viết về Hà Nội. Tôi đã sống cả một thời tuổi trẻ ở đó mà tôi còn chưa viết nổi về nó, thế mà...!’
“Nhận xét của ‘ông bạn’ thật đơn giản như hai với hai là bốn. Người ta không thể viết về con người hay sự việc mà người ta không biết. Không biết thì không thể viết. Đó là chân lý.
Nhưng ngay sau đó, tác giả dùng chính mình làm dẫn chứng về mới liên hệ máu, thịt giữa nơi chốn sinh sống và, sự thể hiện trong văn chương, rằng: ông đã ở Mỹ hơn mười năm, nhưng ông chẳng biết được bao nhiêu về đời sống, sinh hoạt của nước Mỹ, ngoài cái không gian nhỏ bé là quận hạt Orange County, và, cũng chỉ một mảnh nhỏ, rất nhỏ, của Orange County, bát ngát. Theo họ Nguyễn thế hệ nhà văn ở tuổi năm mươi trở lên, sinh sống tại Hoa Kỳ, gặp hai bức tường ngăn chận to lớn là ngôn ngữ và tuổi trẻ.
Những người cầm bút ở độ tuổi ba mươi, tất nhiên không gặp trở ngại này. Nhưng vẫn theo họ Nguyễn thì, tuy nhiên, văn chương của họ cũng chỉ có thể chinh phục người bản xứ bằng một khi họ quay về nguồn cội của họ. “Việt Nam trong phần sâu thẳm của trái tim họ sẽ là sức hút của tác phẩm họ với người đọc.”
Trở lại với tương quan kinh nghiệm đời sống và sự hình thành nhân vật của tác phẩm, tác giả “Kẻ Tà Đạo” xác nhận bằng những dẫn chứng trích dẫn từ những nhân vật trong tác phẩm của các tác giả ngoại quốc cũng như Việt Nam. Từ Turgeniev với tác phẩm “Cha và Con,” hay Pasternak với tới tác phẩm “Dr. Zhivago,” tới “Đồng Cỏ” của Nguyễn Đình Toàn, hay “Mùa Biển Động” của Nguyễn Mộng Giác, Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã cho thấy những nhân vật trong các tác phẩm của những nhà văn đó, ít nhiều, đều là những nhân vật trong tầm quan sát, nếu không phải là những người sống kề cận, quanh quẩn các nhà văn. Ông gọi đó là những kẻ từ đường phố, trong đời sống đi vào trang giấy. Ông viết:
“Người cầm bút nào chẳng xây dựng hình tượng có trong cuộc sống, thậm chí đôi khi nhân vật trong tác phẩm mang cả da thịt của chính tác giả nữa.”
Nhưng họ Nguyễn cũng nêu vấn nạn đâu là sự khác biệt giữa nhà văn và một người thợ chụp hình, kẻ thâu nhận mọi việc một cách khách quan vô ngã như một chiếc máy. Chính xác và trung thực?
Để trả lời câu hỏi này, tác giả “Người Đi Trên Mây” viết:
“Hãy trở lại Turgeniev với cuốn ‘Cha và Con.’ Ông nói ấn tượng mà con người thầy thuốc tỉnh lẻ đã giúp ông sáng tạo nhân vật Bazarov thật mạnh mẽ, nhưng đồng thời vẫn chưa phải là yếu tố làm thành tác phẩm. ‘Cha và Con’ chỉ chào đời sau khi ông đã để trí tưởng tượng sáng tạo hoàn tất tác phẩm của ông.
(...)
“Có thể nói, mặc dù nhiều người cầm bút có cùng chung một kinh nghiệm, nhưng chính trí tưởng tượng sáng tạo của họ đã làm tác phẩm của mỗi người mang một khuôn mặt riêng, một vóc dáng riêng, một chiều sâu khác với những tác phẩm khác.
“Tưởng tượng sáng tạo cũng làm cho bút pháp của nhà văn này khác với nhà văn kia. Bút pháp là tác giả.
“Mặt khác, lời chỉ trích của ông bạn cầm bút trên, dường như cũng không thể giải thích được sự hình thành tác phẩm nghệ thuật trong nhiều trường hợp.
Thử hỏi kinh nghiệm nào, con người nào đã giúp Jules Verne viết được ‘Hai ngàn dặm dưới đáy biển,’ Nguyễn Tuân viết được ‘Chùa Đàn,’ George Orwell với ‘Trại Loài Vật’...?
(...)
“Tôi đã sống ở Saigòn khá nhiều năm, ít nhất cũng là trên hai mươi năm, thế mà sao muốn viết một bài về thành phố này khó thế!
“Thành ra yêu cầu của ông bạn cầm bút nói trên có vẻ như chỉ đáp ứng có một yếu tố. Để hoàn tất một tác phẩm nghệ thuật, yếu tố đó quá mỏng. Đòi hỏi đó chỉ cốt yếu cho những người theo chủ nghĩa tự nhiên. Bởi vì trong văn học nghệ thuật bỏ quên cá tính sáng tạo, người viết chỉ còn một thể loại để theo là hoàn thành những thiên phóng sự cho những trang báo tin tức thời sự, xa hơn là những bài ký, ký sự, hồi ký, ghi chép... Nhưng ngay cả trong những thể loại này, hình như người đọc cũng không bằng lòng với vai trò chụp ảnh của người ký giả. Thiếu một bút pháp riêng biệt, thiếu một trí tưởng tượng sáng tạo, những trang viết của ông ta chỉ là những trang chữ ‘vô bản sắc, nhạt nhẽo, buồn bã.”
Để hỗ trợ cho quan điểm “vai trò của trí tưởng sáng tạo” của mình, tác giả “Ngôi Nhà Mái Đỏ” đã dẫn chứng những phát biểu qua tác phẩm mang tính xác quyết của Pautovsky, với tác phẩm “Bông Hồng Vàng;” Saint Exupéry với “Le Petit Prince,” Garcia Marquez với “Trăm Năm Cô Đơn;” Dante với “Thần Khúc”...
Nguyễn Xuân Hoàng cũng đề cập tới sự phân loại hiện thực theo nhà văn Nathalie Sarraute, khi bà nói có hai loại hiện thực. Một loại là hiện thực nhìn thấy được nơi xã hội mà nhà văn đang sống, và loại hiện thực thứ hai, là hiện thực phóng chiếu từ hiện thực đời sống. Loại hiện thực thứ nhất, theo Sarraute không thể làm thành tiểu thuyết.
Nơi cuối cùng bài tiểu luận văn học, có thể nhìn, như một phản ánh quan niệm văn chương của mình, Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng kết luận:
“Hãy viết bằng tiếng nói, bằng trái tim của mình. Hãy nói bằng cổ họng của mình. Đừng để cái giọng nói của người khác trong cổ họng của mình. Đừng để giọng nói của mình phát ra từ bất kỳ cổ họng một người nào khác. Hình như Turgeniev đã có lần nói như vậy.”
Những người theo dõi hành trình văn chương Nguyễn Xuân Hoàng, sẽ dễ dàng nhận ra rằng, ngay nơi tác phẩm thứ nhất, hay bước khởi hành đầu tiên trên dặm trường chữ nghĩa, với tập truyện “Mù Sương” xuất bản năm 1966, rồi “Sinh Nhật” năm 1968, họ Nguyễn đã cho thấy mối bận tâm lớn lao ông dành cho tác phẩm của mình, không hề là đề tài, hay cốt truyện. Mọi nỗ lực lao lung với văn chương của họ Nguyễn là bút pháp, là cách viết.
Người ta còn nhớ, cuối thập niên 50, khi trả lời câu hỏi đặt ra cho chính mình, câu hỏi “văn chương là gì?” Nhà văn được coi là lớn nhất thế kỷ 20, Jean Paul Sartre đã trả lời một cách ngắn gọn, nhưng dứt khóa, quyết liệt, rằng: “Văn chương là bút pháp.”
Nguyễn Xuân Hoàng, qua tất cả mọi tác phẩm của mình, dường cho thấy, ông có cùng một quan điểm với tác giả “La Nausée.”
Bên cạnh đó, họ Nguyễn cũng cho thấy, vẫn qua những tác phẩm của ông, điều ông đã nói trong tiểu luận “Tưởng Tượng và Hiện Thực” rằng: “... thậm chí đôi khi nhân vật trong tác phẩm mang cả da thịt của chính tác giả nữa.”
Và, với Nguyễn Xuân Hoàng, phần “da thịt của chính tác giả” không chỉ “đôi khi” mà, gần như nó luôn có mặt một cách nóng hổi niềm hân hoan hay nỗi ngậm ngùi của chính nó nữa.