Nhà xuất bản Giấy Vụn, Saigon, trong những ngày qua, đã ấn hành thi phẩm “viết trong bóng tối. Amen” của nhà thơ và, cũng là họa sĩ nổi tiếng Lê Thánh Thư.
Có thể nhiều người quên rằng trước khi trở thành họa sĩ nổi tiếng, có tranh được trưng bày tại nhiều bảo tàng viện quốc tế, họ Lê vốn là một nhà thơ. Chính thi ca là một bệ phóng cao vời huy hoắc, để tác giả “viết trong bóng tối. Amen” (vtbt.A) ném mình vào thế giới hình tượng và, màu sắc.
Từ nền tảng thi ca giàu có của mình, họ Lê đã có được cho tranh của ông những dung lượng thơ mộng, lãng mạn và, luôn cả độ trầm sâu của những game màu, đưa ông tới được những quảng trường hội họa thế giới.
Trong cảm nhận của tôi, sự tương tác giữa Thi ca và Hội họa nơi tài năng Lê Thánh Thư, là một tương tác hữu cơ máu, thịt. Như sự tương tác bất khả phân giữa nắng, gió đất trời, giữa tài năng và những xúc chạm siêu hình, hư ảo.
Cũng nhờ tương tác có tính máu, thịt kể trên mà, tài hoa Lê Thánh Thư, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, như một thân mộc lớn, xuôi thuận thời gian, trổ thêm nhiều cành, nhánh sáng tạo sum suê hoa, trái…
Ngay nhan đề “viết trong bóng tối. Amen” của họ Lê, tôi cho rằng, nó cũng đã là một thực chứng cho những tựu thành, những kết tủa đẹp đẽ, ý nghĩa nằm trong nỗ lực không ngừng đi tới, của tác giả này.
Viết hay vẽ trong “bóng tối” là gì? Nếu không phải là một chỉ rõ, một xác nhận những dòng thơ (hay những sắc màu, đường nét, hình tượng) vốn đi ra từ vô thức hoặc tiềm thức? Tâm lý học nhập môn từng giải thích đại để sinh hoạt ý thức của con người có hai phần. Phần hiện ra rõ trên mặt nước của một dòng sông, là phần ý thức. Phần chìm khuất dưới mặt nước là vô thức hoặc tiềm thức. Nói cách khác, tiềm thức là một thứ “tàng kinh các,” một kho chứa những cảm nghiệm, những thành / bại, buồn / vui, khổ đau hay hoan lạc của con người.
.
Là
người có đôi chút kinh nghiệm trong lãnh vực chữ,
nghĩa, tôi thấy có dễ cũng nên đề cập tới sự hiện
ra bất ngờ của những con chữ nơi trang viết. Bất ngờ
hiểu theo nghĩa không một chút dự báo, những con chữ ở
cõi thinh không nào đó, thình lình hiện ra, rớt xuống
và, ở lại trong một câu, một khổ thơ. Chúng nằm ngoài
chủ tâm kiếm tìm, kiến tạo của tác giả.
Đó là những con chữ vẫn theo tôi, như được một bàn tay bí nhiệm nào, cầm lấy những ngón tay thi sĩ, để sai khiển thi sĩ viết xuống. Dù cường điệu tới đâu, trước những con chữ bất ngờ, “đắc địa,” mang ánh sáng chói lòa về cho nguyên cả một khổ hay một bài thơ, tôi nghĩ, tác giả cũng không thể xác quyết rằng ông ta đã có ý thức, chủ tâm từ trước rằng, tới câu thơ kia, con chữ đó sẽ xuất hiện ở vị trí ấy!!!
Ở một cấp độ khác, thi ca còn mang lại cho tác giả, cho người đọc những con chữ tuy không mang tính tương thông huyền bí giữa thinh không và con người; nhưng nếu nó có được tính dữ dội thì, những con chữ đó, cũng có khả năng nâng cấp bài thơ. Chúng cũng chứng tỏ được phần nào, mức độ tài hoa của tác giả.
Sự có mặt của những con chữ như thế, (cũng như sự có mặt của một tảng mầu, một đường nét, một hình tượng trong một họa phẩm,) thường tạo những cơn địa chân nhỏ về phương diện mỹ học hoặc tu từ học.
Khả năng gây mê người đọc (người xem tranh) của loại con chữ vừa kể, theo tôi là một tương tác mang tính siêu hình. Tôi nghĩ, khó ai có thể lý giải một cách tường tận, rốt ráo. Cũng như người ta không thể thuật lại một cách minh bạch sự tương quan giữa thần linh và những trang thơ, bức tranh, bản nhạc…của nhiều tác giả nổi danh trong lãnh văn học và nghệ thuật.
.
Thay vì theo thứ tự, đi từ bài thơ đầu tiên của thi phẩm “vtbt.A,” tôi mở đọc bài cuối. Bài thơ nhan đề “Mọi ngày, ghi…” của Lê Thánh Thư:
“Ngày cả gió
“em về
“nụ cười phủ bóng đèn
“đỏ cái nhìn trai tân
“phồn hoa
“bần thần
“kẻ mộng
“ngậm bùa ăn ngải
“đêm mê
“giấc đàn bà…”
(vtbt.A. trang 128.)
Tôi
hiểu, hai chữ “bóng đèn” dẫn tác giả tới tĩnh từ
“đỏ” (màu sắc hay cường độ dòng điện.) Tĩnh từ
“đỏ” lại gọi, mời tác giả đi qua phần thị lực
là “cái nhìn.” Nhưng hai chữ “trai tân,” định danh
cho một người thanh niên còn ngây thơ, trong trắng trong
vấn đề nữ giới, thì tôi không nghĩ nó đã được
chuẩn bị từ trước. Tôi cho nó có mặt tình cờ. Nó
bật ra, ở lại cuối câu thơ, như một thú nhận
vội-vàng-hân-hoan của một cảm xúc đột biến. Nó nâng,
đẩy cả khổ thơ vào không gian bất ngờ, mới mẻ.
Cũng thế, ở bài thơ thứ ba (vẫn tính từ cuối sách, tính ngược lên,) nhan đề “Blue trên cánh đồng”:
“Người đàn ông trở về đứng trên thành cầu
“nghe tiếng tù và tan trên cánh đồng nắng hạn
“đôi mắt màu tro
“ứa ra những hồi niệm nhiều năm mê sảng.
“Tiếng tù và loang kín mặt sông con
“người đàn ông ném đốm lửa chưa tàn
“cánh đồng rạn vỡ chân chim
“nơi này
“cỏ không thể xanh.
“Nơi đây người thức bên kia sông
“bao dáng hình củi mục tưởng trọn đời không thể sống
“vẫn hom hem nụ cười góa bụa
“vẫn hồn quê thanh khiết sáng cả sân nhà
“vẫn thân cò lặn lội qua sông
“bàn chân cắm xuống mặt đất nhếch nhác mùa màng
“người mắt màu tro
“lặng lẽ
“tẩm mình trong nhang khói.”
(vtbt.A. trang 125).
Đó là ba khổ thơ đầu của bài “Blue trên cánh đồng”. Cả ba khổ thơ đều mang tính mô tả cảm nhận, hành động của người đàn ông có “đôi mắt màu tro,” “đứng hát trên cầu,” “nghe tiếng tù và” - - Cùng những con đường mà, tiếng tù và vẽ ra, dẫn người đàn ông tới những cảnh vật (thiên nhiên,) tới những phần số bấp bênh, bèo bọt (con người)…
Đó là những bức tranh mà, chúng ta có thể đặt kề bên nhau, thành những “bộ tam,” “bộ tứ” có cùng một tông màu xám, hợp.
Qua gần 20 chục câu thơ, cá nhân tôi, không cảm nhận được một con chữ nào mang tính bất ngờ hiện ra, rớt xuống dọc trên lộ trình vận hành chữ nghiã của bài thơ. Phải đợi tới khổ thơ thứ tư, khổ thơ chót:
“Tiếng tù và cày xới hoàng hôn
“trên cánh đồng tràn ngập mộ chí
“đâu đây vẳng tiếng kêu
“phải tiếng linh hồn gọi nhau từ làng dưới ngược lên
“níu ngày chậm lại
“chậm lại tàn hương.”
(vtbt.A. trang 126.)
Khi họ Lê dùng động từ “cày xới,” tuy là một dạng của kỹ thuật nhân cách hóa và, độ nóng của hai chữ “cày xới” chưa tới mức như hai hòn than hồng, có thể làm “phỏng” mắt người đọc - - Nhưng, với tôi, tự thân, nó cũng đã có được cho nó, tính dữ dội của con chữ! Khi đi theo ngay sau nó là hai chữ “hoàng hôn.”
Du Tử Lê
(Còn tiếp một kỳ.)