dutule.com (ngày 27-11-2012): Thừa hưởng huyết thống văn chương tài hoa lấp lánh của thân phụ, nhà văn Thạch Lam / Nguyễn Tường Lân, theo tôi nếu Nguyễn Tường Giang không viết văn, làm thơ mới là điều đáng ngạc nhiên và, đáng tiếc.
Bước vào thế giới thơ, văn từ những năm còn là sinh viên Đại học Y Khoa Saigon đầu thập niên (19)60, nhà văn, nhà thơ Nguyễn Tường Giang từng cộng tác với các nhóm văn hóa như Thái Độ, Đất Nước. Ông cũng là một trong những thành viên chủ trương tạp chí Văn Chương, thành lập nhà xuất bản Thạch Ngữ. Ở hải ngoại, Nguyễn Tường Giang đi tiếp con đường chữ, nghĩa thừa hưởng từ thân phụ, qua những sáng tác đăng tải trên các tạp chí như Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21…Nhưng, mãi tới hôm nay, họ Nguyễn mới cho ấn hành tuyển tập thơ, văn đầu tiên “Khói Hồ Bay” ở quê người.
Với gần 400 trang sách khổ lớn, mẫu bìa trang nhã tới mức khiến cho người đọc tự nhiên cảm thấy muốn nâng niu, tựa nếu không, hương khói văn chương họ Nguyễn, có thể bất bình mà bay mất!
Trong lời tựa, trước khi mở vào tác phẩm, nhà văn Phạm Phú Minh ghi nhận một giai đoạn thi ca của Nguyễn Tường Giang như sau:
“Nỗi buồn (trong thơ Nguyễn Tường Giang) tồn tại như một phẩm hạnh của tâm hồn nhà thơ, nó xác nhận một cái gì bất biến nơi ông, trước những biến đổi cực kỳ lớn cho đời ông cũng như cho đất nước Việt Nam. Dù phải hoàn toàn làm lại cuộc đời nơi xứ lạ, phong tục tập quán và văn hóa cuộc sống chung quanh đều thay đổi, nhưng trong thâm tâm ông đã kết tinh một viên ngọc của yêu thương lẫn đau thương, một loại trái tim Trương Chi không bao giờ tan biến. Đó là chỗ đáng yêu và đáng phục nhất của của tâm hồn Nguyễn Tường Giang, nằm ẩn một cách sâu xa và kín đáo trong tâm sự thi ca của ông…”
Trước khi bước vào phần văn xuôi Nguyễn Tường Giang, nhà văn Nguyễn Tường Thiết viết về người em có chung một huyết thống gia tộc với mình như sau:
“Khi chú Sáu của tôi (nhà văn Thạch Lam) qua đời năm 1942 tuổi của Giang lúc ấy vỏn vẹn ba ngày. Khi bác Tam (Nhất Linh) của Giang mất năm 1963 tuổi tôi hai mươi ba.
“Với Giang, Thạch Lam là cái bóng trong tâm tưởng. Với tôi, Nhất Linh là cái hình trong hồi ức.
“Giang mở đầu một bài hồi ký về cha mình bằng một cái chết:
“ ‘Chết là giải thoát một đời. Chết là đầu bên kia của sợi dây ngày tháng. Một sớm kia, một tối nào. Tôi hay anh, cũng thế. Bên kia cái chết là nội cỏ ngàn cây hoa mộng hay bên kia cái chết là thảng thốt khổ đau. Tôi đã nhìn thấy nhiều cái chết, nhiều khuôn mặt chết. Quá nhiều. Nhưng không bao giờ, mãi mãi, tôi có thể hình dung được một cái chết, một khuôn mặt chết thân yêu nhất và buồn bã nhất của đời tôi. Cái chết của cha tôi, Thạch Lam.’ ” (Khói Hồ Bay – Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng).
Nếu những trang thơ của Nguyễn Tường Giang là những cật vấn trực tiếp với cuộc đời, với nhân thế thì, những trang văn của họ Nguyễn lại là những nhát cuốc đào xới quá khứ lao lung. Một qúa khứ lênh đênh, bập bềnh những những mất mát. Thất lạc. Chia tan.
Theo tôi, chúng ta đọc thơ Nguyễn Tường Giang để về gần với những câu hỏi căn bản như con người từ đâu đến? Sống để làm gì? Chết sẽ đi về đâu? Trong khi văn xuôi của Nguyễn Tường Giang lại cho ta về gần (rất gần) kỷ niệm. Kỷ niệm riêng mà chung! Bởi chúng là những nấm mộ. Những nấm một không chỉ trong ký ức. Trong hồi tưởng. Mà, những nấm mộ, hiểu theo một nghĩa nào, cũng chính là nơi chúng ta sẽ tìm về, nằm lại. Vĩnh viễn. Như một lần chúng ta tình cờ bị / được định mệnh dắt tay bước qua ngưỡng cửa đời sống, để ở trong cuộc đời này, dù chỉ khoảnh khắc.
Nhưng, vẫn theo tôi, văn chương Nguyễn Tường Giang, ngược lại. Nó vượt khỏi vạch vấn khoảnh khắc. Nó có cho riêng nó một định mệnh.
Định mệnh, khác.