Anh hùng tận Hề, ta trở lại gian nhà cỏ Trường Sa hành Trời mưa đêm xa nhà Góa phụ Đãng tử Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Qua sông Vườn hạ Em nhỏ, làm chi chim biển bắc Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai
Tô Thùy Yên khởi thi nghiệp trong nửa sau của thập kỷ 1950, chủ yếu làm thơ tự do, là hình thức thơ đang "nóng" ở Miền Nam lúc bấy giờ. Đến khoảng giữa thập kỷ 1960, Tô Thùy Yên chợt bắt đầu làm nhiều thơ luật. Về nghệ thuật, Tô Thùy Yên rất thành công với thơ luật và không mấy thành công với thơ tự do.
Thơ Tô Thùy Yên chứa thứ nội dung gì? Võ Phiến bảo nó "có chủ đề triết lý".(1)
Triết có mấy "quan". Tô Thùy Yên chuyên trị vũ trụ quan. Cái nhìn vũ trụ của ông ra sao? "Tôi hoàn toàn không tin vào Thượng Đế như một Đấng Toàn Thiện, Toàn Năng."(2) Tức ông không tin Chúa. Mặt khác, tuy Tô Thùy Yên thỉnh thoảng có dùng một đôi từ trong kinh Phật, thậm chí có "đi về" "suốt bãi sông Hằng"(3), nhưng hình như trước sau Phật cũng không xuất hiện lồ lộ trong thơ ông lần nào. Không Phật không Chúa, cũng không xướng lên một triết thuyết mới... Lại Võ Phiến: "Băn khoăn siêu hình là chủ yếu (...) Gần như toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông là một dấu hỏi khổng lồ nêu lên trước cái bí ẩn muôn đời của vũ trụ."
Thế thì đối với vũ trụ Tô Thùy Yên có thái độ giống Chế Lan Viên sao? Tưởng không hẳn. Chế Lan Viên thiên về nghĩ, trong khi Tô Thùy Yên thiên về cảm, tuy không cảm nhiều như Huy Cận. Ông Tô lại đặc biệt "nhạy" với thời gian, như ông từng tâm sự: "Thời gian (...) là nỗi ám ảnh lớn lao thường trực của tôi."(4) Vậy người gần ông nhất chính là Võ Phiến chứ ai!(5)
Vẫn về nội dung, Võ Phiến bảo vì thơ Tô Thùy Yên có nội dung siêu hình nên ông "gần gũi miền Bắc tận trong tâm hồn". Như chúng tôi có lần bàn, "nội dung siêu hình có hai loại. Thơ Tô Thùy Yên thuộc loại ngoài truyền thống, tức tâm hồn ông gần Trung, không phải gần Bắc. Thơ ấy gần với thơ Hàn, thơ Chế, thơ Huy, thơ Võ v.v. hơn là với thơ Phạm Thiên Thư chứ. Nó ít giống Ba Vì, mà giống Trường Sơn đi lạc xuống đồng bằng sông Cửu!"(6)
Không Bắc về nội dung, nhưng thơ Tô Thùy Yên có chỗ chia xẻ với văn học miền Bắc. Ấy là việc sử dụng tiếng Việt hết sức điêu luyện. Dĩ nhiên đó không do tình cờ. Nhà thơ đã nhận thức đúng: "Những chữ trong một câu thơ thành công (...) là những chữ (...) không thể thay thế bằng những chữ tương tự nào khác được"(7), và đã ra công thực hiện cho được cái lý tưởng văn chương.
... Tô Thùy Yên là người Nam. Cái chất Nam nó nằm đâu trong thơ ông nhỉ? Ở ngôn ngữ và ở hình tượng, tuy nói chung không rõ ràng lắm.
Tô Thùy Yên làm thứ thơ tiếng Nam cảnh Nam, nội dung Trung, với lời điêu luyện như lời Bắc! Thơ ấy có những bài hay vào bậc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.
Vì thơ Tô Thùy Yên nhiều bài rất dài, cho tiện phổ biến phải chia làm mấy tuyển. Sau đây là tuyển 1, chọn từ những bài làm trước 1975.
Anh hùng tận
"Phía phía rừng tràm xanh mịt mịt", chính giữa là rừng "anh hùng tận" "dô, dô tở mở" đến nỗi "muỗi thủy triều" cũng phải tạm rút!
"Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi...".(8)
Dĩ nhiên các "hào sĩ" bạn bè không tên của "ta" đã nâng nắp bi-đông đựng rượu đế mà "túy ngọa sa trường"!
Lời bài thơ toát ra được rất mạnh mẽ cái cảm xúc độc đáo trong một buổi chiều đã có thể cuối cùng...
----
Dựng súng trường cởi nón sắt Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều Đây ngã ba sông, làng sát nước Xuồng ba lá đậu kế chân bàn Trời mới tạnh mưa còn thấp ướt Lục bình, mây mỏi chuyến lang thang Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn Nên gặp nhau không giấu nỗi mừng Ta gạn dăm lời thơ tặng bạn Dẫu từ lâu bỏ việc văn chương Thiệt tình tên bạn ta không nhớ Nhưng mà trông mặt thấy quen quen Hề chi, ta uống cho say đã Nào có ra gì một cái tên... Tới đây toàn những tay hào sĩ Sống chết không làm thắt ruột gan Cũng không ai nhắc về thân thế Có vợ con mà như độc thân Bạn hỏi thăm ta cho có lệ Cuộc đời binh nghiệp. Ta cười bung: Còn mươi tháng nữa lên trung úy Có thể ngày mai chửa biết chừng Mặt bạn mặt ta còn trắng cả Như mặt trời chiều mới tạnh mưa Tiếng hò mời "dô, dô" tở mở Muỗi thủy triều chừng cũng giạt ra Phía phía rừng tràm xanh mịt mịt Sông không bờ, trời cũng không chân Người thuở trước tìm vàng khẩn đất Tiêu xác thân, để lại oan hồn Ngày nay, ta bạn đến đây nữa Đất thì không khẩn, vàng không tìm... Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm Ta chắt cho nhau giọt rượu sót Tưởng đời sót chút thiếu niên đây Giờ cất quân, đưa tay bắt Ước cõi âm còn gặp để say.
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Đọc tên thi phẩm sau đây, sực nhớ truyện Tam Quốc. Do "bị" Lưu Huyền Đức "tam cố", Khổng Minh phải rời "thảo lư" lên đường giúp Lưu săn hươu. Mấy chục năm đầy sóng gió, quân sư đôi khi có nhớ "gian nhà cỏ"?
Vào năm làm bài Hề... (trước 1975) Tô Thùy Yên đi chưa xa, thế mà ông đã tưởng tượng ngày trở lại. Nói tưởng tượng, vì thời cuộc lúc ấy đâu dễ dàng cho bất cứ ai "lẳng lặng đi đi khuất, trong lãng quên xanh hút thời gian".
Dù sao, thi sĩ "trở lại gian nhà cỏ" là để vui thú điền viên, để "lòng ta vô sự, ta vui vẻ", có thực chăng? E không đâu. Vô sự lối gì mà, chẳng hạn, đứng "ngắm gốc cây nứt nở vỏ" lại "nghĩ tới bao điều thầm lặng lớn (mà) trí ta không đủ lực đo lường"! Thường xuyên bị "bao điều thầm lặng lớn" ám ảnh, là Tô Thùy Yên đó. Đi hay về, vẫn cứ bị "ám" nặng thôi.
Quân sư tính toán chuyện quân, đánh được một trận Xích Bích thích chí. Nhà thơ băn khoăn chuyện cây nứt vỏ, viết nên trăm câu thơ một hơi, chắc cũng thích chí.
----
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ Giữa cánh đồng không, bên kia sông Trống trải hồn ta cơn gió rã Tiếng tàn tàn rụng suốt mênh mông
Hừng đông hùng vĩ và thanh thản Sương hứa nguyên ngày nắng rực say Ta dậy khi gà truyền nhiễm gáy Chân mây rách đỏ vết thương dài
Ta ngồi trước ngõ nghe xao động Trời đất bào thai cựa cựa nhanh Mầm cỏ ngoi ngoi lên rạo rực Con chim chèo bẻo hót lanh chanh
Ta ngồi cho đến khi trời trắng Đồng ruộng xanh đông đúc tiếng người Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi
Ở đây, ta có dăm người bạn Phúc tự tâm, không lý đến đời Ở đây, ta có dăm pho sách Và một dòng sông, mấy cụm mây
Dòng sông u hiển trôi vô lượng Dòng sông hiền triết chảy vô tâm Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ Mà ta thân thiết tựa tri âm
Lòng ta vô sự, ta vui vẻ Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ Mùa hạ tàn trôi trôi đóm lửa Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ
Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp Thiên cổ mang mang, thế sự nhòa Trận lốc cười tròn trên quá vãng Ta làm lại cả tâm hồn ta
Buổi trưa như buổi trưa nào đó Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi Điệu hát ầu ơ hoa cỏ lịm Nước mây buồn bã chợt quên trôi
Ta thiếp trong vòm xanh đại thọ Đời đời giương rộng lượng bao dung Ví dầu ta ngủ không còn dậy Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng
Chuyện trần thế bấy lâu thanh thỏa Sống một ngày, ta rõ một ngày Thôi vướng mắc dài duyên với nợ Ân oán đời, phong kiếm rửa tay
Còn lại chăng cây đàn lở tróc Gảy mình nghe đôi điệu xưa xưa Còn lại chăng chút u hoài mốc Pha cùng rượu uống đến say thua
Gặp buổi trời mưa bay phới phới Lá cành sáng rỡ sắc hồi xuân Ta nhìn ngọn cỏ, lòng mê mẩn Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân
Sống trên đời, chuyện ghê gớm quá Vậy mà ta sống có kỳ không? Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới Những người đã chết, chết như rơm...
Gặp buổi trời trong dàn bát ngát Ngọn cây ô! đã giát hoàng hôn Cơn gió mơn man bờ bụi rậm Kể dạo quanh vườn chuyện trống không
Ta ngắm gốc cây nứt nở vỏ Gốc cây to đến mấy người ôm Nghĩ tới bao điều thầm lặng lớn Trí ta không đủ lực đo lường
Nên ta phó mặc cho trời đất Trời đất vô ngôn lại bất nhân Nên ta lẳng lặng đi đi khuất Trong lãng quên xanh hút thời gian
Đêm tối êm ru lời thủ thỉ Bên hè có tiếng dế ca ran Vầng trăng ta thấy thời thơ ấu Mọc lại cho ta thuở xế tàn
Hình như mọi sự đều như thế Kể cả lòng ta cũng thế thôi Các việc vô công làm miết miết Quên tiệt đời ta như nấm mai
Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ Ta thức đêm nay chơi với trăng Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi Trên mồ ta, trăng phải lang thang
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa Trên dốc thời gian, hòn đá tuột Lăn dài kinh động cả hư vô
Xa nghe đợt gió lên cơn bão Nhân loại quay cuồng biến đổi sâu Bầy chó năm châu cắn sủa rộ Quỉ ma cười khóc rợn đêm thâu
Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng ăn sạch quân, trừ lính được thua Hỡi ai tráng sĩ mài dao nhọn Xin nhớ đời không mỗi sắc vua
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ Tử tội mừng ơn lịch sử tha Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ Ngày qua ngày, cho hết đời ta.
Trường Sa hành
Có lần bảo Hát Ngao Trên Tuyết của Cao Tần là bài hành xuất sắc thứ tư của thơ Việt Nam. Bảo thế là lỗi trầm trọng: năm 1974 Tô Thùy Yên có bài "hành Trường Sa" tuyệt vời.
Lỗi to, vì nỗi: hành Cao Tần cùng loại nội dung với hành Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Thanh Nam, trong khi hành Tô Thùy Yên khác hẳn, khiến đầu óc người đọc tự nhiên xếp nó vào một chỗ khác...
Trong khi bốn "hành sĩ" kia không lúc nào rời mặt đất, Tô Thùy Yên hay đi lạc tận... cõi Vô Biên.
Ngoài Vô Biên, thân "hữu hạn" tha hồ "tủi nhỏ nhoi", tha hồ "đập hoảng" mà gọi "đất liền", mà cố mở cho kỳ được "khoảng cách đặc"!
Trường Sa, có phải bất quá một cái vỏ đặc biệt thích hợp cho ông Tô tuôn những cảm xúc vũ trụ độc đáo của mình vào...
Cảm xúc mạnh, thơ dài mà như làm một hơi. Còn thơ nào hơn.
----
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề Lính thú mươi người lạ sóng nước Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi Khiến cả lòng ta cũng rách tưa Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh Lên xác thân người mãi đứng yên
Bốn trăm hải lý nhớ không tới Ta khóc cười như tự bạo hành Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi ? Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi Đám cây bật gốc chờ tan xác Có hối ra đời chẳng chọn nơi ?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng Những cụm rong óng ả bập bềnh Như những tầng buồn lay động mãi Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển Vầng khói chim đen thảng thốt quần Kinh động đất trời như cháy đảo... Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân
Ta ngồi bên đống lửa man rợ Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
Chú em hãy hát, hát thật lớn Những điệu vui, bất kể điệu nào Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ Cho mái đầu ta chớ cúi sâu
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc Như người bị bức tử canh khuya Xé toang từng mảng đời tê điếng Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê
Ta nói với từng tinh tú một Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng Bãi lân tinh thức âm u sáng Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng
Đất liền, ta gọi, nghe ta không ? Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc Con chim động giấc gào cô đơn
Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa Ánh sáng vang lừng điệu múa điên Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên
Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã Hay đến ngày bờ tái tạo xanh
San hô mọc tủa thêm cành nhánh Những nỗi niềm kia cũng mãn khai Thời gian kết đá mốc u tịch Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
Trời mưa đêm xa nhà
Đêm mưa lạnh, "góc ga thưa", có một cái... tượng ngồi chờ tàu.
Gần tượng, có "đường sắt phân ly mấy cành", có "gỗ tênh hênh" trong vòng tay cỏ, có "đèn le lói (như) vết thương tươi".
Xa tượng, nhưng không xa lắm, có núi "khoác rừng dày ngồi lì".
Núi dầm mưa không biết có lạnh không, chứ người không dầm mưa, không bị "giọt cường toan" nào nhỏ trúng, mà tim cứ "quằn quại hàng hàng"...
----
Ga dầm mưa chịu co ro Cưu mang tàu thấm rét chờ sáng đi Khoác rừng dày núi ngồi lì Vân vi đường sắt phân ly mấy cành Vài thân súc gỗ tênh hênh Cỏ ôm ấp hẳn lãng quên tay người Đèn le lói vết thương tươi Trời da thi thể mưa ngùi chấm than Hiên ga nhỏ giọt cường toan Xuống tim quằn quại hàng hàng ưu tư Trong cơ thể máu chần chừ Ngoài trời khói thuốc vật vờ ngại bay Làm gì đây để giải khuây Ngắm tay mới biết mình gầy hơn xưa Ngồi chờ tàu góc ga thưa Nghe hồn ẩm mốc một mùa lạnh căm.
Góa phụ
Ai khóc ai đêm khuya, trong tiếng "chó tru thăm thẳm ngây thiên địa"?
Có là không, "em khóc hoài chi" cái nỗi có hóa không.
----
Con chim nhào chết khô trên cửa Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ Sao người khai giải chưa về thăm?
Em chạy tìm anh ngoài cõi gió Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn Tiếng kêu đá lở long thiên cổ Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn
Em độc thoại lời kinh ánh xanh Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị Thắp trắng thời gian mái tóc em Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh Hồn xa con đóm lạc sâu đêm
Cỏ cây sống chết há ta thán Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh Thảng như con ngựa già vô dụng Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.
Đãng tử
Vào lúc làm bài thơ này, khoảng cuối thập kỷ 1960 đầu thập kỷ 1970, "đãng tử" Tô Thùy Yên đã "tuần du" được mấy đâu, "một đời" đã "biến đổi" được "bao" đâu, thế mà đã tưởng tượng đến ngày "trở lại ngôi Nhà Lớn"!
Từ bấy đến nay, "vũ trụ miên man chuyển động", người "đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê", vừa chèo vừa "thuận tay (...) ngắt một cành sậy" "làm cây sáo thổi cạn hồn sầu", thổi thành thơ "bay tản" khắp trong ngoài nước...
Thiết tưởng "ngày kia" trong "ngôi Nhà Lớn", nếu (hồn) thi sĩ được ngồi đọc lại tất cả mình, đọc đến những bài như Đãng Tử, chắc "lòng những bằng lòng một kiếp thơ"!
----
Ngày kia trở lại ngôi Nhà Lớn Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.
Bạn có nghe, này bạn có nghe Ở bìa rừng bên gió sửa soạn Tuần du - cuộc tuần du bất tận Bạn có nghe, này bạn có nghe Giữa tầng trời cao chim giục giã Từng giàn như những thủy triều sôi Bạn có nghe, này bạn có nghe Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao Về nơi hẹn nào không định trước Bạn có nghe, này bạn có nghe Vũ trụ miên man chuyển động đều Chim đã bay quanh từ vạn cổ Gió thật xưa, mây thật già nua Nên với một đời bao biến đổi Mà trong vô hạn có chi đâu Ly rượu rót mời, xin uống cạn Bài ca ta hát đến đâu rồi Xin hát nốt - còn đi kẻo muộn Cho úp ly - bóng xế đường dài Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê Đến ngả ba, đành theo một lối Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm Lược sử ta trong bí lục nào Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn Thiên thu lóe tắt vệt phù du Thuận tay, ta ngắt một cành sậy Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu Bay tản khắp vô cùng trống trải Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau...
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Đào Tiềm thì về thật, nên viết Qui Khứ Lai Từ. Còn Tô Thùy Yên thì chỉ mới tưởng tượng đến về, nên viết...
Ông Đào với ông Tô về hay muốn về, đều do không chịu được chuyện xảy ra nơi đang ở, chứ không phải do "nợ tang bồng" đã "trang trắng" mà "vỗ tay reo" mà về như ông Nguyễn (Công Trứ).
Ông Đào trả ấn từ quan về vui thú ruộng vườn. Ông Tô mơ về "bản trạch", nhưng trong giấc mơ ít nhất lúc đầu ông chưa vui:
"Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Là rồi một chuyện kể chưa xong",
"Ta bằng lòng phận que diêm tắt Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông".
Vì lòng không vui, nên lắng tiếng sóng ông nghe tiếng "biển cử ai rần bãi rã rời", trông hình "tàu chuối xác xơ" ông thấy "nỗi đời bi thiết xé lưa tưa"...
Thơ Đào Tiềm người ta hay nói tuy có cái vẻ bình dị, điềm đạm, nhưng không phải là không gọt giũa mà chính là "gọt giũa đến mức tự nhiên".
Tô Thùy Yên trau chuốt thơ mình cũng rất thành công. Có điều, người có bình dị thì tự nhiên mới là bình dị. Tô Thùy Yên không bình dị, nên thơ Tô Thùy Yên sau khi đến mức tự nhiên vẫn không bình dị.
Cái đẹp muôn vẻ, thơ sao cho lộ được cái vẻ của mình!
----
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Gió đưa nhớ rải dọc trần gian Trên đồng ngọn cỏ tranh khom mỏi Đời nặng cơn bi lụy dịu dàng
Rồi thôi, im mãi, im vô vọng Ta tiếc dài sao đã đến đây Lờn rờn bóng lá đong đưa nắng Thảm thiết dây leo quấn quít cây
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Ơn dày chôn trả đất bao dung Cụm mây trôi rã trong trời lớn Như giấc chiêm bao thấy giữa chừng
Con đường đi mỏi mà không tận Lượn sóng trên ghềnh nhọn rách tơi Ai thở dài chi cho não nuột? Cơn mưa hư tưởng mơ màng rơi
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Về luôn như một tiếng kêu khơi Đã buông trong bạt ngàn xanh ngắt... Biển cử ai rần bãi rã rời
Chuồn chuồn vui đậu trên nhành lúa Để lại bay đi lúc kịp buồn Điệu hát nào lan man vướng vất Như hơi ẩm mục mặt hồ sương
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Đóa hoa buông cánh khi tàn hương Tiếng rụng tuyệt âm rền tịch mịch Dòng sông tới biển nức tuôn, tuôn...
Các mùa chuyển động trong trời trống Di điểu qua sông xẻ luống sầu Ly biệt chẳng từ hạt cát ngọc Tuần hoàn đến cả giọt sương châu
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Là rồi một chuyện kể chưa xong Mùa hè cọ sát điên kim loại Con quạ kêu ran giữa quãng không
Tàu chuối xác xơ reo ngất ngất Nỗi đời bi thiết xé lưa tưa Hòn ngói lia bay bay mặt nước Chìm sâu dĩ vãng đục không dò
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Bãi bùn trơ trẽn thủy triều lui Con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn Càng nhẹ tênh trên cõi ngậm ngùi
Ta bằng lòng phận que diêm tắt Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông Thôi nói, bởi còn chi để nói Núi xa, chim giục giã hoàng hôn
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Áo phơi xanh phới nhánh đào hồng Mùa xuân bay múa trên trời biếc Ta búng văng tàn thuốc xuống sông.
Qua sông
Bờ sông thường cao hơn mặt sông rõ ràng. "Đứng trên bờ nhìn xuống", "đến bến, lên bờ" v.v. Nhưng ở trong Nam có những nơi bờ sông thấp gần sát mặt nước. Đứng ở những nơi ấy, thấy mặt sông cao như ngang... mặt mình, thấy như đã gần dinh... Hà Bá, sợ lắm!
"Mùa mưa đã tới", ở "châu thổ mang mang trời nước sát" giữa người đã gục với người chưa gục có "độ cao" gì đáng kể đâu. Cho nên trông "đám", người trông rất dễ
"... Nao nao mường tượng bóng mình Mịt mùng cõi tới u minh tiếng rền".
U minh "trào lên mắt ngời" trước mặt. Bước tới vài bước, coi như "đời đã bỏ quên"...
----
Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa Con đường đáo nhậm xa như nhớ Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò Quán chật xanh lên rừng lính ướt Mặt bơ phờ dính gió bao la Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa Vang lên những địa danh huyền hoặc Mỗi địa danh nồng một xót xa Giặc đánh lớn - mùa mưa đã tới Mùa mưa như một trận mưa liền Châu thổ mang mang trời nước sát Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên Tiếp tế khó - đôi lần phải lục Trên người bạn gục đạn mươi viên Di tản khó - sâu dòi lúc nhúc Trong vết thương người bạn nín rên Người chết mấy ngày chưa lấy xác Thây sình mặt nát lạch mương tanh... Sông cái nước men bờ sóng sánh Cồn xa cây vướng sáng mơ màng Áo quan phong quốc kỳ anh liệt Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang Quê xa không tiện đường đưa tiễn Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh Thêm một chút gì như hối hả Người thân chưa khóc ráo thâm tình... ... Nao nao mường tượng bóng mình Mịt mùng cõi tới u minh tiếng rền Xuống đò, đời đã bỏ quên... Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.
Vườn hạ
Tô Thùy Yên năm ấy mới 36 tuổi, sao lại "Tím hận một đời..." với "Tuổi già gom lại..."? Coi vậy, chớ "mùa hạ trước" qua cũng đã hăm mấy năm rồi. "Mai kia mốt nọ", tính đại thêm hăm mấy năm nữa, để khi "anh về chơi" cho đủ tuổi!
Tính năm tính tháng đùa chút thôi, chớ cũng biết người trẻ hồn già là chuyện có xảy ra. Hồn một khi đã "chín" thì thời gian có khi không trôi nữa:
"Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh Ngoài quãng chói chang hư ảo múa Dường như ai réo ấu danh anh...".
"Mai kia mốt nọ anh về chơi", nằm một mình dưới gốc cây nghe "ve kêu như biển lâng lâng dậy", nghe "mương nước rì rào sao sáng thở", nghe "thủy triều lui bậc bậc sầu", có lúc cất bước loanh quanh khiến "chú dế giang hồ (quen) hát say sưa dưới cỏ buồn" sợ, nín hát, làm "cô tịch bưng ồn như máu tuôn"...
"Anh", thiệt ngộ hết chỗ nói!
"Thơ ấu, dậy đi, mừng dụi mắt Cùng anh chạy nhảy tiếp thời vui"!
----
Mai kia mốt nọ anh về chơi Vườn ủ đêm dư, nắng mật ngời Thơ ấu, dậy đi, mừng dụi mắt Cùng anh chạy nhảy tiếp thời vui.
ăn trái chín cây mùa hạ trước Thấy nhành ớt động bóng chim quen Hỏi em, em lấy chồng xa xứ Hỏi bạn, bạn lìa quê bặt tin
Thời gian đứt quãng dài vô định Như sợi dây diều băng mất tăm Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng Kỷ niệm buông tay rú ngất chìm
Ai ngắt giùm anh cây cỏ sướt Làm đôi gà đá, đá ăn cười Mùa hè đi khuất kêu không lại Bãi mía điêu tàn gốc cháy thui
Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh Ngoài quãng chói chang hư ảo múa Dường như ai réo ấu danh anh
Hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc Đất ẩm vương hương cỏ trở màu Ai cúi soi mương rong khỏa mặt Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao
Còn đợi cây mưa lớn bất thần Ấu thơ, mừng nhá, chạy la rân Đá bong bóng nước cơn vui vỡ Mưa tạnh, ngồi nghe tuổi hạ tàn
Ve kêu như biển lâng lâng dậy Xô giạt hồn anh mộng chập chờn Ngủ chín giấc chiều trên xác lá Tàn măng âu yếm đắp thân đơn
Mênh mang lưu thủy trường trăng lạnh Con chó tung tăng giỡn bóng mình Mương nước rì rào sao sáng thở Đài hoa sương nạm hạt lân tinh
Đây rồi, chú dế giang hồ ấy Vẫn hát say sưa dưới cỏ buồn Nghe tiếng chân người chợt nín lặng... Cô tịch bưng ồn như máu tuôn
Thấp thoáng ánh đèn rây lưới lá Đàn ai lên cổ khúc hoài lang Tình ơi, ta hát thầm theo nhạc Lời nhớ, lời quên, dạ xốn xang
Đêm lịm chầy khuya, trăng nhợt sương Liễu đi đâu tóc xõa canh trường Con chim lạc bạn kêu trời rộng Hồn chết trôi miền dạ lý hương
Nằm đây phủ sáng hằng hà sao Nghe thủy triều lui bậc bậc sầu Nghe tiếng mõ chùa khô khốc khóc U minh ngày tháng bóng lao đao
Cát bụi đã đành thân tấm mẳn Thì danh với phận kể mà chi Cảm thương con cá thia lia bại Có sót huy hoàng cũng xếp vi
Cọc xu thảy hết ra ngoài mức Đồng cái, thua buồn cũng liệng sông Tím hận một đời tay cứng vụng Chơi cầu âu cả cái tâm ngông
Em có tìm không mùa hạ trước Chiếc vành xưa đánh lạc về đâu? Đám tranh thuở ấy cao là vậy Vành lạc, chân không ngại bước vào...
Cây cỗi càng sưng vết chặt lồi Chờ nhau cho đáng kiếp chờ thôi Tuổi già gom lại bao thương tưởng Như cuối vườn chiều mót củi rơi.
Em nhỏ, làm chi chim biển bắc
Đọc mấy câu "(em) biệt xứ ra đi, trời bắt tội", "còn anh hệ lụy chằng trăm rễ", "em đẩy làm chi cửa não nề", chợt nhớ một cái truyện ngắn cũng của Tô Thùy Yên. Trong Nơi Chốn Đi Qua, "tôi" và Phụng rất thân nhau, hoàn cảnh khiến xa nhau, cả hai cùng bất như ý trong cuộc sống, một hôm tình cờ gặp lại...
Tôi trách "em nhỏ, làm chi chim biển bắc", nhưng thực ra tôi đâu có đi tìm em ở biển nam. Thực ra, chuyện em và tôi không quan trọng gì cả.
"... Còn vọng hằng hà sa số kiếp Lai sinh trời đất cũ chưa quên".
Yêu em, chẳng qua tôi yêu trời đất! Nhớ em, chẳng qua là tôi tưởng niệm thời gian!
----
Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc Xa rồi đám lửa cuối thiên thu Cửa thần phù dựng trường sơn sóng Mỗi ngọn xô chìm một giấc mơ
Ôi những con đường đến tự đâu Một lần gặp gỡ ngã tư nào Rồi trong vô hạn chia lìa miết Có cuốn theo mình bụi của nhau?
Biệt xứ ra đi, trời bắt tội Dài tơ tưởng rụng tóc mai xanh Trôi mòn vóc đá tào khê thức Nhướng mỏi ngàn sao đáy lặng thinh
Còn anh hệ lụy chằng trăm rễ Cam phận cây rừng tối đẫm rêu Nấm tủa tầng tầng thân mục tới Như mùa hoa trối tuổi già xiêu
Em đẩy làm chi cửa não nề Bản lề khô kẽo kẹt hôn mê Nhện giăng tơ mốc nhà hoang lạnh Tiếng gọi rền vang gỗ đá ê
Dựng dậy hồn oan dĩ vãng nào Con chim thần thoại mắt khoen sâu Giật mình như đã ngàn năm ngủ Giũ bụi lông, cất khản tiếng gào
Có nhớ không em rừng bóng lạnh Gốc cây ngời giọt nắng sao thưa Gió ru mê mệt trưa tàn tạ Hạnh phúc đùa xa tiếng thực hư
Khép mắt cho hồn bay diệu vợi Mà yêu đến khóc, đến u mê Để khi mở mắt, ta nhìn thấy Cả cuộc đời ta có đáng chi
Cây rách sâu thân chắt giọt lòng Nghiệp hờn trả nghĩa đất bao dung Mùa hè cháy hực cơn cuồng nộ Ồ, máu thơm còn ứa chẳng ngưng
Đồi lộng đưa nhau xuống cuối ngày Thấy âu sầu hiện mỗi thân cây Cỏ cao quấn quíu chân chùng bước Ghim xót xa đầy vạt áo bay
Làm sao đi hết những con đường Gió với cây cùng khóc hợp tan Mỗi đóa hoa trên đồng chói lọi Cũng xui phù thế ngậm ngùi thân
Cầu hân hoan chết như mưa lũ Nước kéo nhau đi trẩy khắp miền Còn vọng hằng hà sa số kiếp Lai sinh trời đất cũ chưa quên.
Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai
Đọc "những người..." sau đây, nhớ "thập loại chúng sinh".
Xưa đại loạn qua, phần ai nấy tế. Nguyễn Văn Thành xông pha trận mạc, tế riêng tướng sĩ. Nguyễn Du "trải qua một cuộc", chắc "trông thấy" không sót "điều" gì, nên tế chung tất cả cô hồn. Bài tế "mười loài" kết thúc với nội dung tôn giáo rõ ràng:
"Ai ơi lấy Phật làm lòng Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi"
Hồi Tô Thùy Yên làm thơ, đại loạn chưa qua. Thi sĩ không tế, lại hình như không có niềm tin nhất định, bèn chọn "biểu dương". "Biểu dương cùng tận" xong, "rồi tất cả sẽ nguôi ngoai"...
Hoặc sau bể dâu hoặc trong bể dâu, hoặc đậm màu tôn giáo hoặc không, "cảm sầu dội, xuyên suốt tâm linh" nên thơ để đời.
Để ý, trong thơ xưa chỉ toàn "cô hồn thất thưởng dọc ngang", trong thơ nay ngoài người kia kẻ nọ "thương thay" còn sừng sững "ta lớn lao và ta cô đơn"!
----
Ra đi như nước ao lền đặc May gặp ngày mưa lớn thoát tràn Râu tóc rạng ngời, gậy trúc bóng Nẻo thơm trần thế, gió hân hoan
Ra đi như một bình minh lạ Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình Thi sĩ Bắc Nam đều chết rạp Ba trăm năm lịch sử làm thinh
Ra đi như một âm thanh sáng Xuyên suốt tâm linh, dội cảm sầu Hỡi gã du hành, hãy cất tiếng Bài ca thiên cổ chẳng thành câu
Tự do, ta thết mừng điên đảo Cuộc tiệc trăm năm nhục thánh thần Dưới bóng bao trùm hạt cát tỏa Đền rêu, miếu cỏ lạnh ma hoang
Con đường vô định chưa ai tới Hay tới nơi, thôi chẳng trở về Hỡi gã du hành, hãy nói lại Những điều ngươi thoáng thấy như mê
Ta mò đoán nghĩa dòng hư tự Mòn nét trong thiên địa ngập ngừng Ta thấy mặt tinh cầu xếp nếp Như lằn nhăn tuổi tác hư không
Những người thuở trước giương cung cứng Cưỡi ngựa điên, hoa kích ngàn cân Một trận tan tành ba triệu địch Nửa chiều chết đứng hận giai nhân
Những người thuở trước đi tìm mộng Lạc suối mê, hoa giạt ngược dòng Theo tiếng kinh quan san biệt dạng Buộc sầu, xõa tóc, thả thuyền rong
Những người thuở trước say vô hạn Mơ thuốc trường sinh lạc xác phàm Níu cánh chim bằng qua biển gió Cây minh linh tốt mấy ngàn năm
Những người thuở trước tham chung đỉnh Áo mũ xênh xang chốn ngọ môn Sơ thất, thương thay thân xuống lính Đày ra quan ngoại, chết không chôn
Những người thuở trước như là mộng Diễm tuyệt dung nhan thảo mộc sầu Hương phấn bay lừng xa khỏi kiếp Tiếng cười xé rách núi sông đau
Những người thuở trước bây giờ lạc Trong dã sử nào như bóng mây Trong trí nhớ nào như giọng hát Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!
Hỡi ôi, gió nổi lên cùng khắp Giục gã du hành rảo bước thôi! Ta uống giếng hoang, ăn trái lạ, Tâm hồn mãi mãi mới tinh khôi
Nhiều khi ta ngước lên ngơ ngẩn Nghe tiếng chim quen bay trớt qua Bóng thoáng như bàn tay dịu mát Lau nhanh hơi mỏi mặt mày ta
Hoàng hôn xô bóng ta trên cát Ta lớn lao và ta cô đơn Ngưỡng mộ cây xương rồng gắng gượng Thân trần đứng lẻ giữa đồng trơn
Bình minh như một làn da phỏng Ta dạo men bờ sóng tuyệt mù Cảm phục bồi hồi biển nhẫn nại Bắt đầu mãi mãi lượn thiên thu
Biểu dương - hãy biểu dương cùng tận Vinh dự lầm than của kiếp người Hi hữu một lần trên trái đất Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai. ________________
(1) Trong bộ Văn học Miền Nam, phần Thơ. (2) TTY trả lời phỏng vấn, đăng trong Lê Quỳnh Mai, Tác giả, với chúng ta, nxb. Khôi Nguyên, Mỹ, 2004. (3) Đi Về và Suốt Bãi Sông Hằng là tên hai bài thơ của TTY. (4) TTY trả lời phỏng vấn, xem chú thích 2. (5) Xem bài Nét Siêu Hình Trong Văn Miền Trung của TT, đăng trên trang gocnhin.net. (6) Xem bài Đất Nào Văn Nấy của TT, đăng trên trang gocnhin.net. (7) TTY trả lời phỏng vấn, xem chú thích 2. (8) Bài Lương Châu Từ của Vương Hàn: "Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi / Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi / Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi".
Tôi gặp bà lúc nhà thơ Huy Cận còn tại thế. Hai lần gặp, bà như cái bóng bên cạnh chồng, lặng lẽ, ít nói, thảng hoặc cười, thì nụ cười của bà, cũng kín đáo, rụt rè.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-260-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Khi gặp Bùi Xuân Phái, thấy nhau, chúng tôi cùng bùi ngùi. Chúng tôi không nói được với nhau một lời nào!.! chỉ nhìn nhau. Mặc cho những giọt mắt già nua, hiếm hoi, lặng lẽ chảy…
Tôi mượn câu thơ kết trong bài 'Đêm, nhớ trăng Sài Gòn' của Du Tử Lê để làm tựa cho bài viết này, bài viết về ông: Du Tử Lê - một nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn đối với văn chương Việt Nam.
A Lê, sáng nay Sài Gòn mưa nên khá buồn, em cũng vừa đốt thêm cho anh điếu thuốc. Ngày mai ở Cali là ngày giỗ đầu, mộ anh chắc sẽ nhiều hoa và khói ấm.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.