Câu hỏi của Nguyệt Mai:
Kính thưa anh Đỗ Hồng Ngọc,
Em rất cám ơn anh đã kể cho
nghe những giai thoại văn chương mà với ngòi bút duyên
dáng của anh, những câu chuyện đó thật hay, sống động
và thú vị.
Em tin chắc rằng mọi người
đều thấy thích, nên đề nghị anh tiếp tục kể thêm...
Thơ, nhạc và họa thường đi
chung với nhau. Vậy lần này anh cho nghe chuyện của thi
sĩ, nhạc sĩ và họa sĩ nhé.
Cám ơn anh rất nhiều và hứa
sẽ không làm "rộn" anh nữa đâu! (Nói giỡn với
anh thôi, chứ có thắc mắc gì thì em sẽ hỏi tiếp).
Nguyệt Mai
________________
*Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trả lời
Tôi nhớ nhất nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu. Anh là tác giả của những ca khúc nổi tiếng như Trường làng tôi, Mùa thu không trở lại: Em ra đi mùa thu/ Mùa thu không trở lại/ Em ra đi mùa thu/ Sương mờ giăng âm u… Ngày em đi/ Nghe chơi vơi não nề/ qua vườn Luxembourg/ Sương rơi che phố mờ… Tôi biết vườn Luxembourg cũng là nhờ Anatole France và Phạm Trọng Cầu. Năm 1997, tôi có dịp lang thang ở Luxembourg và nhớ lại hình ảnh cậu bé con vai đeo cặp vở tung tăng của Anatole France và “mùa thu không trở lại” của anh. Phạm Trọng Cầu rất vui tánh. Hồi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hay hát: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui/ Chọn những bông hoa và những nụ cười… thì anh đã “chế’ thành: “Mỗi ngày tôi nhậu một lần thôi/ Từ sáng tinh mơ cho tới chiều tà…”
Rồi cùng mà cười!
Sau 1975, một hôm, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu chống nạng đến tìm tôi tại nhà nói là gặp “để tặng cho tác giả thơ”, bài nhạc “Thư cho bé sơ sinh” mà anh đã phổ thơ tôi ngày còn ở trong tù, nhờ đọc được bài thơ này trên một tạp chí y học! Anh nói anh viết để cho Thái Thanh hát, nhưng bây giờ tình thế đã khác rồi! Rồi anh hát thử tôi nghe với cái giọng ồ ề dễ thương của anh! Tôi rất cảm động. Và đó là lần đầu tiên tôi quen anh.
Bài thơ Thư cho bé sơ sinh tôi viết năm 1965, trong một đêm trực ở Bệnh viện Từ Dũ, sau một ca đỡ đẻ đầu tiên trong đời của một sinh viên y khoa thực tập. Hồi đó, phải học đến năm thứ ba y khoa chúng tôi mới được phép đỡ đẻ trên người. Mỗi sinh viên phải đỡ ít nhất 20 “ca” sanh thường, không bệnh lý. Tối tối, chúng tôi túc trực ở phòng nhận bệnh để “bắt ca”. Một hôm, tôi bắt được ca “4 cm”, nghĩa là ca mà cổ tử cung đã nở gần trọn, sắp sanh. Tôi đưa sản phụ lên phòng sanh, thăm khám, làm vệ sinh các thứ, theo dõi cơn co tử cung, ghi chép cẩn thận vào hồ sơ bệnh án rồi ngồi bên trò chuyện cho sản phụ quên đau. Tôi nghĩ đến mẹ mình, đến những giọt mồ hôi của biết bao bà mẹ chờ sanh khác. Đến gần sáng thì cơn đau đã rột. “Lúng túng” một cách lành nghề, tôi cũng đã đỡ được ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Lòng lâng lâng tôi đẩy xe cho hai mẹ con về phòng, rồi viết bản “phúc trình”. Trời đã hửng sáng. Bên ngoài khung kính cửa phòng sanh, Sài Gòn tấp nập và hừng hực không khí ngột ngạt những ngày tháng này của năm 1965. Đột nhiên, một cảm xúc trào dâng, tôi viết liền một mạch ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ: Thư cho bé sơ sinh.
Sáng hôm sau, giáo sư HNM đọc bản phúc trình của tôi, gọi tôi vào rầy: “Đỡ đẻ không lo đỡ đẻ, lo làm thơ!”. Chẳng ngờ bài thơ viết vội trong đêm trực đã phổ biến nhanh trong giới sinh viên và nữ hộ sinh thời đó. Không biết ai đã viết lên bảng đen! Bài thơ được đăng trên báo Tình Thương, rồi in lại trong tập thơ “Tình người” của tôi, năm 1967. Số phận bài thơ khá ly kỳ. Năm 1973, Bác sĩ Lương Phán đăng lại “Thư cho bé sơ sinh” trong một tạp chí y học do ông phụ trách, và đã trả nhuận bút rất hậu! Tôi nhớ thời đó thơ ít khi được trả nhuận bút. Ngay cả báo Bách Khoa cũng chỉ trả trung bình 50 đồng cho một bài thơ, nhưng bác sĩ Lương Phán đã trả tôi… 5000 đồng! Ông nói, “vì tôi rất thích bài thơ này”. Khoảng năm 1995 tôi có dịp làm việc với ba vị bác sĩ, là giảng viên của Trường Trung học Y tế tỉnh Phú Thọ ở miền Bắc lần đầu vào Saigon. Trong lúc chuyện trò, có người tình cờ nhắc bài thơ “Thư cho bé sơ sinh” của tôi thời sinh viên thì thầy Nguyễn Hồng Hải, một trong ba vị bác sĩ đến từ Phú Thọ bỗng chồm lên, ôm lấy tôi, mừng rỡ: “Thế ra anh là tác giả bài thơ đó ư?”. Rồi thầy đọc liền một mạch. Thầy nói gần 20 năm nay, năm nào dạy lớp nữ hộ sinh ở Phú Thọ, thầy đều đọc cho họ nghe bài thơ mà thầy không biết tác giả là ai, chỉ nói “khuyết danh” thôi.
Gần đây, tôi tình cờ phát hiện trên mạng, có một bản dịch sang tiếng Anh bài Thư cho bé sơ sinh của Phát (Phat’blog), một người không quen biết, với những lời bình thật sâu sắc!
Còn nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu từ đó đã rất thân thiết với tôi. Chúng tôi vẫn thường gặp nhau luôn, nhất là mỗi khi anh có bài hát mới, thường kêu tôi tới để hát cho nghe! Anh luôn “mày tao” rất dễ thương, vì anh lớn hơn bọn tôi đến mấy tuổi!
Phạm Trọng Cầu sinh ở Phnom-Penh 1935 và mất ở Tp. HCM (Saigon) 1998, tốt nghiệp nhạc viện Paris, còn có bút danh là Phạm Trọng.
Thư cho bé sơ sinh
Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh
đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn
lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người
khóc
Trong
cùng một cảnh ngộ nghe em
Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói
là để ngừa đau mắt
Ngay
lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ
đừng hỏi vì sao đời tối đen
Khi anh cắt rún cho em
Anh
đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì
từ nay em đã phải cô đơn
Em
đã phải xa địa đàng lòng mẹ
Em là gái là trai anh chẳng quan
tâm
Nhưng
khi em biết thẹn thùng
Sẽ
biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi
tình yêu tìm đến
Anh đã không quên buộc étiquette vào tay
em
Em được
dán nhãn hiệu từ giây phút đó
Nhớ
đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng
đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu
Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh
cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một
ngày đã thức giấc với vội vàng, với hoang mang,
Với
những danh từ đao to búa lớn
Để
bịp lừa để đổ máu đó em
Thôi trân trọng chào em
Mời
em nhập cuộc
Chúng
mình cùng chung
Số
phận
Con
người…
Đỗ Nghê
(Đỗ Hồng Ngọc, Bv Từ Dũ, 1965)