Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, tôi đã là một đứa con gái mù. Có lẽ do suốt thời gian mang thai tôi, mẹ tôi đã khóc hết nước mắt vì quá đau khổ và tuyệt vọng trước sự bỏ đi đột ngột và bi thảm của cha tôi. Cha tôi là một Đại đức, giáo sư môn Triết Tây năm thứ ba của mẹ tôi ở đại học. Ông đã phải lòng cô sinh viên xinh đẹp, có dáng vẻ kiêu sa thuần khiết. Và nhan sắc ấy như tăng thêm sức mê hoặc không cưỡng được khi cô ngồi trước đàn dương cầm, mà ông tình cờ bắt gặp trong giảng đường vắng bóng.
Đại đức quên mất con thuyền cứu độ chúng sinh, đứng bất động, chiêm ngưỡng cái dáng vẻ thanh thoát ấy cùng những âm thanh hút hồn vang lên, hòa quyện từ những ngón tay trau chuốt trên những phím đàn buốt vào tận tim gan ông. Ông đỏ mặt lên khi cô sinh viên bất ngờ quay ngoắc lại, bắt gặp có kẻ nghe lén tiếng đàn của mình. Lửa với lửa gặp nhau. Đại đức cởi áo nâu trả lại chùa để đi theo tiếng gọi của con tim và cô sinh viên bị cuốn vào cơn bão tình không đắn đo, toan tính. Từ đây một thiên tình sử thơ mộng bắt đầu, dù khói lửa chiến tranh hừng hực vây quanh. Nhưng khi cô sinh viên có thai, ông thầy tu không một chút kinh nghiệm đời hốt hoảng nhận ra tội lỗi của mình, hổ thẹn, vội vàng xin bỏ dạy, đi tìm nơi ẩn tu. Suốt mấy tháng trời mẹ tôi như chiếc bóng vật vờ đi tìm cha, hỏi cho rõ ngọn nguồn.
Khi tìm đến nơi cha ở, mẹ chỉ còn thấy xác cha treo lơ lửng trên gác chuông. Mẹ chết đi, sống lại mấy lần. Đã vậy, ông bà ngoại tôi, các cậu dì tôi đã cương quyết xua đuổi mẹ tôi ra khỏi nhà, dù mẹ tôi đã hết lời van xin. Họ kết án mẹ tôi là một đứa con gái hư hỏng, có thai với ông thầy tu phá giới luật, làm điếm nhục gia phong. Mẹ tôi một phụ nữ chân yếu tay mềm, lại còn bụng mang dạ chửa, một mình cất gánh ra đi. Đi mà không biết đi đâu và làm gì với cái bào thai đang lớn dần lên.
Đã bao nhiêu lần vì quá đau khổ tưởng không còn chịu đựng nổi, mẹ tôi đã toan kết liễu đời mình, nhưng rồi không làm được chỉ vì chút sinh linh trong bụng. Mẹ tôi đành chấp nhận mọi sự trả giá, cho dù có chịu bao nhiêu khổ đau, nhục nhã cũng phải sống để cho tôi được chào đời. Cái đêm sinh tôi ra, khi nhận ra đôi mắt tôi mù lòa, mẹ đã khóc ngất. Bà đã tự oán trách, tự cấu xé dằn vặt mình chỉ vì cái tội quyến rũ người của Thiền môn đã làm Thượng Đế nổi giận giáng hình phạt xuống cuộc đời tôi. Và với bà điều đó còn thảm khốc hơn nghìn vạn lần hình phạt trực tiếp giáng lên số phận của mình.
Tôi lớn lên bên mẹ tôi trong một căn nhà trên bãi biển, căn nhà không đến nỗi quá chật hẹp hay thiếu tiện nghi. Tôi cũng không biết làm cách nào mẹ tôi có thể có được căn nhà này. Vì mù lòa, tất cả khái niệm của tôi về những biến chuyển của xã hội, về các đổi thay của thiên nhiên quanh tôi đều thông qua lý giải và cách nhìn của mẹ tôi. Nhưng tôi thật sự không có khái niệm gì về màu sắc, mặc dù mẹ tôi luôn giải thích cho tôi rằng lá cây thì màu xanh, nước biển cũng màu xanh. Nhưng khi cầm chiếc lá trong lòng bàn tay, với khi hớp một ngụm nước biển mặn đắng qua cổ họng, tôi cảm giác hình như hai màu xanh này không giống nhau. Tôi lại càng khó phân biệt giữa nước biển và hạt sương mà tôi hứng nhận trên cành lá vào buổi sớm mai khác nhau thế nào về màu sắc.
Mẹ tôi cũng nói cho tôi biết mặt trời thì màu đỏ, nhưng với tôi màu đỏ của mặt trời buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều không giống nhau; và những ngày khô nắng cũng không giống những ngày mưa bão. Mẹ tôi cũng chỉ dẫn cho tôi: hoa phượng màu đỏ, hoa cúc màu vàng, hoa violette màu tím, hoa huệ màu trắng. Chỉ có màu đen thì hầu như mẹ tôi không bao giờ muốn nói đến. Hình như mẹ tôi không nói được, không cảm nhận được như tôi cái hương vị đặc biệt nơi mỗi loài hoa, bởi đối với tôi, hương vị còn quan trọng và dễ dàng phân biệt hơn cả màu sắc. Có lẽ bao nhiêu kiến thức về thực vật học mà mẹ tôi đã đọc ngấu nghiến ở đâu đó để truyền dạy cho tôi, đã làm cho cái đầu của tôi trở nên đau nhức, muốn vỡ tung ra từng mảnh. Bởi vì, trong mắt tôi cuối cùng chỉ toàn là màu đen. Một màu đen khô khốc, đặc quánh như chính thân phận của tôi. Điều quan trọng hơn hết là chính mẹ tôi đã truyền đạt cho tôi đức tin. Mẹ tôi tin có đời sau, có phán xét, và những đau khổ nghiệt ngã ở trần gian này chính là thử thách mà Thượng Đế đã đặt lên số phận của mỗi con người. Mẹ tôi thường khuyên nhủ tôi:’’Con hành động như một người có đức tin thì đức tin sẽ hiến tặng con; nếu con cầu nguyện mà lòng còn ngờ vực, nhưng vẫn cứ thành tâm cầu nguyện, thì ngờ vực rồi sẽ tiêu tan”. Có thể nhờ có lòng tin đó mà mẹ tôi có thể tồn tại cho đến hôm nay. Cuộc sống có ý nghĩa gì và phải sống như thế nào, tôi thật sự không biết. Nhưng"dù đau khổ hay bất hạnh, con vẫn phải tin yêu Thượng Đế, cũng như Thượng Đế đã yêu thương con. Người đã hiến dâng chính bản thân mình để cứu rỗi cho nhân loại, nhất là những kẻ đau khổ, tật bệnh như con”. .
Mẹ tôi đã nói thế, mà mẹ tôi thì chẳng bao giờ dối trá với tôi. Tôi có lòng tin về quyền năng của Thượng Đế, nhưng tôi lại luôn luôn khát thèm được nhìn thấy ánh sáng. Không biết hai điều đó có mâu thuẫn gì với nhau? Không biết bao nhiêu lần tôi đã mơ ước một buổi sáng nào đó khi thức dậy, mở mắt ra, chung quanh tôi ngập đầy ánh sáng, và tôi sẽ thấy được, phân biệt được thế giới đang hiện hữu trước mắt tôi. Tôi khát khao một lần được mở mắt ra, chỉ một lần thôi cũng đủ. Tôi có thể vụng về ôm ghì lấy thứ ánh sáng đó vào lòng, rồi chết ngộp trong đó cũng không một chút ân hận, oán thán. Có khi tôi muốn đem điều thắc mắc trong lòng ra hỏi mẹ tôi, rằng sao Thượng Đế có quyền năng và đầy lòng nhân ái mà Người không chấp nhận lời cầu xin của tôi, có phải vì tôi chưa hết lòng hay vì Thượng Đế vẫn cứ muốn tiếp tục thử thách tôi? Có rất nhiều đêm tôi không ngủ, cứ thao thức mơ ước được đùa giỡn với ánh sáng. Cái thứ ánh sáng mà đối với người khác là quá bình thường, đơn giản, họ không cầu mong cũng vẫn có được. Theo lời mẹ tôi, Thượng Đế đã đặc biệt yêu thương và đã chọn lựa tôi, muốn dành cho tôi một thử thách lớn ở trần gian này, nếu tôi vượt qua được thì khi lìa bỏ cuộc đời, tôi xứng đáng đón nhận phần thưởng hạnh phúc ở nước Trời. Nhưng tôi thầm nghĩ , tôi đâu có muốn được thử thách, đâu có muốn chiến thắng để được phần thưởng. Tôi chỉ muốn được nhìn thấy ánh sáng của trần gian này, chỉ muốn nhìn thấy khuôn mặt của mẹ tôi, của những người sống quanh tôi; và tôi cũng rất muốn được nhìn vào gương để thấy khuôn mặt của mình. Tôi nhớ có lần đang ngồi trước nhà, Phúc bạo dạn nắm lấy tay tôi hỏi :
- Hạnh có biết Hạnh đẹp như một thiên thần không? Tất cả nữ sinh viên ở trường anh không có ai đẹp bằng Hạnh cả!
Tôi nhẹ nhàng rút tay lại và mỉm cười :
- Có bao giờ anh nhìn thấy thiên thần chưa?
Giọng Phúc vẫn trầm ấm :
- Có, rất nhiều lần trong giấc mơ!
Tôi chợt khựng lại. Những lời của Phúc làm tôi xúc động, nhưng tôi không dám tin đó là sự thật vì tôi có bao giờ được nhìn thấy khuôn mặt của tôi đâu. Nhưng những lời nói đó lại đánh thức cái khát khao mãnh liệt ẩn chứa trong lòng tôi.
- Điều gì đã làm em sợ hãi?
- Em không biết!
- Hãy nói cho anh nghe!
- Không!
- Nói đi em!
- Bóng tối và luôn cả ánh sáng. Em đã mơ thấy em chết ngay giữa cái phút giao thoa của ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối .
- Đừng nói gở!
Bỗng hai tay anh choàng qua người tôi, ôm ghì lấy tôi. Tôi run lên với những xúc cảm kỳ diệụ, lần đầu tiên da thịt tôi va chạm với một người khác giống, một nỗi khát khao, thèm muốn. Môi tôi mở ra chờ đợi. Chợt nhiên, tôi có cảm giác bóng tối như một tảng đá lớn sắp đổ ập xuống. Tôi hốt hoảng đẩy anh ra, đứng bật dậy chạy nhanh vào nhà. Tôi khóc. Bóng tối vẫn vây quanh tôi.
Căn nhà của mẹ con tôi ở gần bãi biển, nhưng tôi vẫn muốn gần với biển hơn, càng gần càng tốt. Nên mỗi khi hoàng hôn xuống tôi vẫn có thói quen ngồi nhìn ra phía trước để nghe tiếng sóng biển vỗ đều dưới chân hay có lúc như giận dữ gào thét, hoặc để nghe những tiếng kêu của bầy hải âu bay lượn trên mặt nước và tiếng xào xạc của những tàu dừa đập vào nhau... Tôi không thấy được màu sắc đậm nhạt của những áng mây vần vũ, nhưng tôi rất thích được ngồi lặng yên nghe tiếng mưa bay trên mặt sóng khi những cơn gió thổi tạt qua. Những âm thanh quen thuộc đó luôn làm cho tôi cảm thấy một niềm phấn khởi và một nguồn vui cao cả. Tôi tưởng chừng như được giải thoát khỏi thể xác, khỏi thân phận nghiệt ngã của tôi. Nhưng chỉ những khoảnh khắc đó thôi. Khi đêm về một mình tôi đối diện với tôi trong căn phòng. Không chỉ có những khát thèm âm ỉ trỗi dậy trong cơ thể của đứa con gái mới lớn, mà tôi còn khao khát được nhìn thấy những gì mẹ tôi mô tả, như khi ánh mặt trời hiện ra với tất cả vẻ rực rỡ của nó... Đột nhiên, tôi cảm thấy đau đớn và tuyệt vọng đến cùng cực, tôi nảy sinh ý nghĩ muốn tự hủy hoại, muốn chấm dứt vĩnh viễn cái bóng tối nghiệt ngã đang phủ chụp lên cuộc đời mình. Tôi vùng dậy, bậm môi lấy sợi dây thừng dưới chân giường, ném lên cái đà ngang của trần nhà, cột nút thắt. Tôi đặt cái ghế ngay dưới sợi dây, rồi bước lên ghế, đút đầu vào tròng. Chỉ cần hất cái ghế, sức nặng thân thể tôi sẽ kéo giật xuống, mọi việc coi như chấm dứt. Nhưng ngay phút giây đó, tôi bất chợt nhớ đến những lời mẹ tôi dạy bảo. Cuối cùng, thay vì đưa cổ vào thòng lọng, tôi kéo tuột sợi dây ném vào một góc, rồi quăng mình xuống giường, nghiến chặt hai hàm răng đến độ rướm máu.
Tôi hối hận và chán ghét luôn chính bản thân. Đã không ít lần tôi tìm đến cái chết, nhưng không lần nào quyết định dứt khoát. Mỗi lần như thế, như được thần linh mách bảo, mẹ tôi bất ngờ tông cửa chạy vào, ôm choàng lấy tôi, giọng tràn đầy nước mắt :
- Hãy bình tĩnh đi con yêu của mẹ. Mẹ luôn luôn ở bên con!
Trong cái vỗ về dịu dàng và đầy yêu thương của mẹ, tôi cảm thấy hổ thẹn vì thấy mình có lỗi, đã không được như lòng mong mỏi của mẹ. Tôi lật người lên, úp mặt vào lòng mẹ và không kiềm giữ nữa, tôi cứ để mặc cho nước mắt tuôn trào. Giọng mẹ tôi thật ấm dịu:
- Không có cuộc chiến đấu nào không gian nguy mà chiến thắng lại vẻ vang cả con ạ!
Tôi ngước lên, mắt vẫn nhòa lệ:
- Nhưng con đâu có muốn chiến thắng. Con chỉ muốn nhìn thấy ánh sáng mặt trời!
Mẹ tôi vuốt nhẹ lên tóc tôi, rồi cúi xuống đặt nụ hôn trên trán tôi :
- Nhưng con đã được chọn lựa để chiến thắng. Cuộc đời càng đau khổ, càng đen tối thì lại càng trở nên có ý nghĩa và lại càng đáng sống! Tôi đã thiếp đi tự lúc nào không biết. Trong giấc ngủ hình như tôi đã mơ thấy tôi đang đùa giỡn với thần mặt trời và các tinh tú trên bãi biển trước những lượn sóng cuồn cuộn đổ xô vào bờ. Sáng hôm sau thức dậy, người tôi run lên bần bật và mệt lả. Tôi biết sức lực của tôi ngày càng kiệt dần.
Đêm hôm đó, trời lại phủ mây và cơn mưa nhẹ bắt đầu rơi. Sức khỏe của tôi tưởng như không còn nữa. Nhưng tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng của mẹ tôi trong ràn rụa nước
- Mẹ rất đau khổ khi phải xa lìa con, nhưng mẹ cũng rất sung sướng trước thời điểm
Người cất gánh nặng thử thách trên đôi vai con ở trần gian này. Mẹ hy vọng sẽ sớm gặp lại con. Tôi muốn nắm lấy bàn tay của mẹ định kéo ghì lại, nhưng sức lực của tôi đã không cho phép tôi thực hiện ý định đó. Tôi sắp rời bỏ trần gian và xa lìa mẹ tôi vĩnh viễn. Tôi như ngọn đèn leo lét trước gió. Linh hồn tôi đang thoát dần ra khỏi thể xác của tôi, rồi đột ngột rơi tỏm vào một thế giới khác, với bóng tối dầy đặc bao trùm. Tôi hoang mang chưa kịp nhận thức được cái thế giới mà tôi vừa đặt chân đến là đâu. Bất ngờ, có tiếng nói trong bóng tối ngay bên cạnh:
- Chào linh hồn, chúng tôi là thiên sứ được lệnh đưa linh hồn về nước Trời ra mắt
Thượng Đế!
Tôi hấp tấp lên tiếng:
- Đôi mắt của tôi vẫn không nhìn thấy gì cả.
Một trong hai thiên sứ, tôi đoán vậy, đã trả lời :
- Người đầu tiên mà linh hồn được nhìn thấy là dung nhan Thượng Đế. Linh hồn hãy chuẩn bị cùng chúng tôi lên đường.
Tôi chưa kịp phản ứng thì hai vị thiên sứ đã đỡ lấy hai cánh tay tôi đứng dậy, thân thể tôi nhẹ hẫng, cất lên. Hình như những tinh tú lướt qua vùn vụt sau lưng tôi. Tôi ngộp đi trước những cảm giác kỳ lạ chưa từng trải qua bao giờ. Tôi không biết đã cùng hai vị Thiên sứ bay đi như thế được bao lâu. Bất ngờ chúng tôi đi qua một thung lũng, tôi không thấy gì, nhưng cảm thấy nóng hừng hực, và từ trong đó tôi nghe hàng triệu triệu tiếng rên la kêu khóc thảm thiết .
Một thiên sứ lên tiếng, như muốn nói với tôi:
- Đây là Địa ngục, hình phạt cho những ai khi sống trên trần gian chỉ biết gây nên tội lỗi!
Thiên thần kia nói tiếp:
- Và những người đã không thừa nhận Thượng Đế!
Chúng tôi tiếp tục bay đi trên vùng đất lửa đó, tôi cảm thấy nóng, nóng đến không thể chịu nổi, nhưng tôi vẫn cố chịu đựng. Dù hai vị thiên sứ không nói ra nhưng tôi đoán có lẽ, đây là hình phạt dành cho tôi, bởi theo như tôi suy đoán thì trên trần gian có khi tôi cũng đã tuyệt vọng, không tuyệt đối tin vào quyền năng và sự chọn lựa của Người. Giữa khi đó, tôi bỗng nghe từ trong lửa đỏ, có tiếng gọi:
- Hỡi linh hồn đang cùng hai thiên sứ trên đường đi đến nước Trời kia. Ta chính là người cha bất hạnh trên trần thế của ngươi đây. Ta không xin tha thứ, nhưng ta chỉ xin ngươi chuyển lời đến với Thượng Đế rằng, dù trên trần gian ta có là kẻ phá giới luật, tự sát hại thể xác mình, và ngay những kẻ tội lỗi ngập đầy ở đây đi chăng nữa, thì trên trần gian chúng tôi cũng vẫn là những kẻ đaụ khổ, bị đày ải. Như một luồng điện chạy nhanh qua cơ thể, tôi cảm thấy xao động, đớn đau. Tôi lên
- Hai vị thiên sứ có thể ngừng lại cho phép tôi…
Làm như không nghe điều tôi vừa nói, hai vị thiên sứ đã kéo tôi đi thật nhanh.
Khi tôi nghe tiếng nhạc mỗi lúc một gần, rồi tiếng xao động rì rào của đám đông, tôi đoán biết tôi đã được đưa đến trước cửa Thiên đình. Hai vị thiên sứ dẫn tôi đi qua những bậc thang, theo những dãy hành lang vào thẳng bên trong. Đến nơi, hai vị thiên sứ ấn tôi quỳ xuống và nói nhỏ vào tai tôi:
- Trước mặt linh hồn trên ngôi cao là Thượng Đế toàn năng đang hiện diện cùng các bầy tôi của Ngài. Hãy chuẩn bị chờ đón ân sủng của Người!
Nói xong, hai vị thiên sứ bước lùi ra phía sau, để tôi một mình quỳ trước bệ rồng. Bất ngờ có tiếng kèn cất lên. Và khi tiếng kèn dứt thì có tiếng phán, giọng hết sức uy nghiêm:
- Hỡi con yêu của ta ! Khi ở trần gian con là một kẻ được ta chọn lựa để thử thách, và con đã chiến thắng được thử thách của ta, xứng đáng với lòng tin yêu của ta. Bây giờ theo lệnh của ta, con hãy mở mắt ra và mãi mãi ở bên ta chung vui với mọi người hưởng nhận nước Trời!
Tôi biết mọi người đang quay nhìn tôi. Tôi từ từ mở mắt, ngước nhìn lên, đôi mắt tôi như bị dội lại trước hào quang rực rỡ của Thượng Đế. Một ý nghĩ vừa xuất hiện rất nhanh trong đầu. Tôi cúi xuống ngập ngừng.
Từ trên ngai cao, Thượng Đế cất tiếng hỏi:
- Con có điều gì muốn bày tỏ?
Tôi ngước lên, lấy hết can đảm:
- Nếu Ngài đã cho con đôi mắt thì xin hãy cho con quay trở lại trần gian!
Sâm Thương.