Tôi không nhớ, tính tới ngày 30 tháng 4-1975 thì, đã bao lâu tôi không có dịp gặp lại bạn tôi, Đỗ Ngọc Yến. Chỉ nhớ trước đấy, khoảng giữa thập niên (19)60, đôi lần tôi gặp ông ở trường Văn Khoa cũ, đường Nguyễn Trung Trực Saigon. Và, lần gặp sau cùng, khi họ Đỗ cộng tác với nhật báo Đại Dân Tộc(?) ở đường Gia Long. Tôi không nhớ rõ vì việc gì khiến tôi tới tòa soạn này. Chỉ nhớ, họ Đỗ ngồi nơi chiếc bàn đầu tiên, ngay đầu cầu thang. Khi tôi tới, cả tòa soạn lúc đó, chỉ có mình ông làm việc. Ông giữ tôi ngồi lại ít phút, hỏi thăm công việc, gia đình, đời sống… Tuyệt nhiên, chúng tôi không đề cập tới chuyện chính trị, văn chương. Làm như giữa chúng tôi có một khoảng cách lớn với hai phạm trù này. Tới lúc đó, cách xưng hô giữa chúng tôi vẫn là “ông / tôi.”

Từ trái: Ngọc Hoài Phương, Đỗ Ngọc Yến, Du Tử Lê, Lê Thiệp, Đỗ Bảo Anh
Cách xưng hô quen thuộc này được họ Đỗ chủ động thay đổi vào cuối năm 1978, sau một buổi tối, khi tôi ghé căn duplex ông thuê, ở đường Euclid. Tôi tới tìm Việt Dzũng.
Khi tôi lách mình qua chiếc cửa garage xập xuống non nửa, họ Đỗ đang cặm cụi bỏ dấu những trang tin.
Ông ngừng tay. Ngước lên. Rời ghế. Tôi cảm được niềm vui hay nỗi mừng rỡ tỏa ra từ bàn tay ông. Và, tôi tin, ông cũng cảm nhận được điều tương tự ở nơi tôi.
(Thời đầu tỵ nạn, mỗi khi tình cờ gặp lại người quen biết cũ, là một niềm vui lớn!)
Cũng như những ngày Saigon, họ Đỗ hỏi thăm tôi về tình trạng gia đình? Ở đâu? Làm gì? Sau đấy, chúng tôi xoay qua nói chuyện thơ.
Ông bảo, cuộc viếng thăm bất ngờ của tôi, khiến ông nhớ bài thơ “bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Và ông đọc:
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà / Trẻ thì đi vắng, chợ thời xa / Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá / Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà / Cải chửa ra cây, cà mới nụ / Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa / Đầu trò tiếp khách, trầu không có / Bác đến chơi đây, ta với ta.”
Giọng đọc êm đềm, thủ thỉ, thông minh, không chút ngập ngừng của ông, quyến rũ tôi. Tôi nhắc bài “Khóc Dương Khuê”, ông đọc ngay:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi / nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (…) Muốn đi lại tuổi già thêm nhác / Trước ba năm gặp bác một lần / Cầm tay hỏi hết xa gần / Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can (…) Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở / Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương / Tuổi già hạt lệ như sương / Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”
Cũng như tôi, có dễ quá lâu bạn tôi không có dịp nói chuyện về thơ, nên nhiều tiếng sau đó, chúng tôi say mê nói về thơ, giữa tiếng mưa lúc nhặt, lúc khoan reo, vang từ mười ngón tay Việt Dzũng. Và, sương mù lấp kín phần cửa garage xập xuống non nửa, tòa soạn Người Việt Cali.
Từ Nguyễn Khuyến, chúng tôi “nhảy cóc” sang Hồ Dzếnh. Tôi nói giới phê bình văn học tiền chiến đã bất công với lục bát Hồ Dzếnh, khi chỉ nhắc tới lục bát Huy Cận. Tôi dẫn chứng mấy câu như “khi vàng đứng bóng im trưa / tiếng khô lá rụng làm thưa phố phường.” Hoặc “ đâu hình tàu chậm quên ga / bâng khuâng, gió nhớ về qua lá dày…”
Đỗ Ngọc Yến nói, ông không biết mấy câu lục bát ấy. Nhưng ông thấy nó quen quen, hình như chúng đã tái hiện đâu đó, trong lục bát sau này thời chúng ta. Và, ông đọc “Phút linh cầu” của tác giả “Chiều”. Từ “Chiều” (thơ Hồ Dzếnh, nhạc Dương Thiệu Tước), chúng tôi tìm vào thơ Quang Dũng. Rồi Tản Đà. Lý Bạch. Thế Lữ… Chúng tôi tranh nhau nói. Tranh nhau đọc. Như sợ thời gian sẽ không dành cho chúng tôi một cơ hội nào khác!
Với tôi, đó là một buổi tối hạnh phúc hiếm. Một buổi tối, tôi được sống thoải mái với thơ. Với Đỗ Ngọc Yến. Không dè dặt. Không lựa lời. Không giả ngây, giả điếc… (Như những gặp gỡ, chuyện trò trước và sau đó.)
Lúc chia tay, bạn tôi nói, hàng tuần chịu khó viết về thơ, ngăn ngắn, cho Người Việt Cali. Tôi nhận lời ngay.
Thời đó, chưa có computer, cũng chưa có máy Vary typer. Việt Dzũng đánh máy bài bằng chiếc IBM quả cầu. Không dấu. Nên sau khi đưa bài một hai ngày, phải tôi trở lại tòa soạn để tự bỏ dấu bài của mình. Những lần ghé tòa soạn, sau đêm… “đọc thơ trong garage,” bạn tôi không còn dùng cụm từ “ ông / tôi” mà là “tôi / bác.”
Đổi thay này, khiến tôi thấy tôi gần gũi hơn với họ Đỗ. Như thể, chúng tôi đã là bằng hữu của nhau từ một tiền kiếp xa xôi nào.
*
Sau này, thỉnh thoảng cũng có người xưng hô “tôi / bác” với tôi. Tôi hiểu họ gọi thay cho con. Nhưng tôi vẫn không thấy thoải mái…
Với tôi, cách xưng hô ấy, đã theo bạn tôi, Đỗ Ngọc Yến, “đi xa” cả chục năm rồi!
Nó chỉ còn trong ký ức tôi: Tháng mười hai. 1978. Căn duplex đường Euclid. Sương mù. Cánh cửa garage xập xuống non nửa. Tiếng mưa, lúc nhặt, lúc khoan reo, vang từ mười ngón tay Việt Dzũng. Và, lung linh tiếng thơ Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Thế Lữ, Hồ Dzếnh, Quang Dũng…qua giọng đọc êm đềm, thông minh, thủ thỉ, của Bác-Yến-tôi, mà thôi.
Du Tử Lê
(Garden Grove, Sept. 2013)
Gửi ý kiến của bạn