Trích HK “Về người cha thi sĩ”
Chương: Những người bạn của cha.
Khi còn ở Hà Nội, tôi thường nghe cha ngâm nga “trời hỡi bao giờ tôi chết đi/ bao giờ tôi hết được yêu vì…/ ai đem tôi bỏ xuống hầm sâu…” lời bài thơ sao tội nghiệp, cay đắng làm vậy, tôi tò mò hỏi cụ, và ông kể cho nghe về người công dân số hai của nhóm thi hữu ở đất Bàn Thành thuộc xứ Nẫu…
Sau giải phóng, năm 1988, ba tôi vào Sài Gòn thăm con và bạn thơ. Ông trình ra một tờ giấy A4 chi chít tên người và địa chỉ những người cần đi thăm trong dịp này.
Rồi, sau khi thăm nữ sĩ Mộng Tuyết phu nhân của nhà thơ Đông Hồ, đến chú Chế Lan Viên, ông Tôn Thất Kham, ông Nguyễn Bá Tín - em Hàn Mặc Tử; ông bảo với con rể “Mai ta sẽ đến thăm cô Mai Đình, bạn gái chú Tử nghe con”.
Nghe đến tên Mai Đình, tôi ngỡ ông đang nhắc tới một huyền thoại, một nhân vật trong chuyện cổ tích ở tận chân trời góc biển nào đó. Ngờ đâu cô chỉ ở cách tôi có hai phường. Cô ở P.25, tôi P.27- Quận Bình Thạnh.
Tính tôi rất tò mò, mỗi khi nghe tên ai dính đến Hàn Mặc Tử, tôi muốn tỏ tường về những người đàn bà của nhà thơ giàu ngôn ngữ tình yêu nhưng nghèo sức sống này lắm.
Sau khi đi thăm cô Mai Đình về, nhìn vẻ tươi rói của ba khiến tôi càng tò mò. Tôi hỏi ngay: “Cô Mai Đình giờ thế nào ba?” Ý tôi muốn biết diện mạo, tính tình hiện nay của cô. Chả là vì, khi xem bản thảo HK “Hàn Mặc Tử anh tôi” của ông Nguyễn Bá Tín - em Hàn Mặc Tử, thì nhân vật cô Mai Đình là một thanh nữ không nhan sắc, không đứng đắn, đơn phương yêu Hàn say đắm nhưng không được đáp lại, còn bị bác Tử không dám nhìn mặt vì quá xấu. Đáp lại sự tò mò của tôi, ông già nói: “Cô già nhưng trông rất trí thức, rất sôi nổi và nhiệt tình ”. Tôi không thích câu trả lời này, nhưng sau đó ông nói tiếp: “Gặp ba, bà mừng như “cá gặp nước, như rồng gặp mây. Suốt buổi trò chuyện với ba, bà chỉ nhắc tới Hàn. Ba thấy tình cảm của bà đối với Hàn còn nồng nàn lắm… Bà say sưa kể về ông mà không màng đến có người chồng đang ngồi cạnh ba, bà đọc thơ tình viết về Hàn cho ba nghe làm ba ái ngại quá
Em vẫn bên anh
Lần
này em đã quyết tâm
Về
đây ở một hai năm mới đành
Để
em theo dõi bệnh tình
Bữa
ăn, giấc ngủ cho anh đỡ sầu…
Quả thật, gặp ba tôi-người cuối cùng của Bàn Thành tứ hữu, cô Mai Đình vui lắm, dường như đã thỏa nỗi khát khao được trút hết bầu tâm sự cho người bạn của người mình thương nhớ mà bấy lâu chưa giải bày được với ai cả. Nghe cô Mai Đình nói về tình cảm của mình đối với Hàn Mặc Tử, thành thật mà nói, ba tôi vô cùng cảm phục ở cô điều mà ít ai làm được .
Còn tôi, nghe mấy bài thơ , tôi càng bái phục tình cảm của cô đối với bác Hàn. Ối! sao có thứ tình yêu đẹp, thanh cao, thánh thiện đến khó tin như vậy, mà lại thực 100% kia đấy. Chính những bài thơ này đã bộc lộ hết tình cảm chân thật của bà đạt tới mức đến vô thường . Bà như trải hết lòng mình, như một lời thách thức với văn chương, với bạn bè, và người thân vể mối tình của mình:
Tuyên bố
Tôi
chẳng sợ cảnh nghèo hèn đói khó,
Tôi
không kiêng thứ da thịt khác người
Vì
lòng tôi, tôi chỉ biết yêu thôi
Và
thân thể có phải đâu châu ngọc?
Tôi
yêu chàng đã khắc sâu vào tim óc,
Tôi
thờ chàng như một vị thần linh…
Từ khi hai người gặp lại, ở quê, ba tôi thường xuyên nhận được thư cô gửi ra thăm. Những năm cuối ba tôi đau yếu cô rất quan tâm đến sức khỏe của ông như cô em đối với người thân còn lại. Lần nào về Qui Nhơn, bận gì bận cô vẫn tìm cách lên thăm ông. Cô còn làm cầu “nối vòng tay lớn” giữa nhà thơ với đồng hương Bình Định. Trong đó có cô Hoa Phương, vợ của nhà thơ Lam Giang. Tiếc thay hai người chưa có dịp hội ngộ: Cô Hoa Phương để lại thư cho ba tôi:
“…Rất tiếc là anh đi vắng. Vì thế tôi không được may mắn làm quen với anh. Tôi tâm nguyện là khi về tới Qui Nhơn sẽ tìm đến thăm anh chị với tất cả tấm lòng quí mến. Thơ anh rất hay, tình anh chị rất đẹp “qua thơ của anh” cho nên tôi ước ao được gặp, thật đáng buồn! Tôi đã già, gần 70 tuổi khó lòng về Qui Nhơn được nữa để thăm anh chị-một nhà thơ vào bậc thầy. Tôi xin phép anh cho tôi được gửi đến tặng anh vài bài thơ mới tập làm. Trước đó cũng có làm chơi một vài bài nhưng chưa gọi là thơ, chưa hiểu gì về luật-mong được anh thương những cô em gái tỉnh nhà yêu thơ-mà đừng cười chê, trái lại xin anh nâng đỡ những cây bút nữ còn rất híếm hoi trong tỉnh nhà để đàn em nó nhờ.
Kính chúc anh chóng bình phục, chị trọn vẹn hạnh phúc bên anh đến giờ chót của cuộc đời.
Thân kính
Qui Nhơn 29/5/1991
Để bạn đọc hiểu thêm vấn đề về cô Mai Đình, tôi trích thêm đoạn văn sau:
Đầu tháng 6 năm 1989, một người đàn ông đến nhà tìm tôi. Ông to con, rắn chắc, có lẻ hơn tuổi ba tôi. Khuôn mặt chữ điền, đôi mắt nghiêm nghị làm tôi ngài ngại. Ông tự giới thiệu “tôi là Nguyễn Bá Tín - em Hàn Mặc Tử, tìm cháu Bích Thủy-con nhà thơ Yến Lan”. Liền tức khắc, tôi mời ông vào nhà. Ông đưa cho tôi tập giấy kẻ ô vuông, khổ A3; trên viết chằng chịt chữ nhỏ ri rí. Tập giấy hơi nhàu, có lẽ đã qua tay nhiều người. Ông bảo “Nghe ba cháu nói, cơ quan cháu hay ra Bắc, nơi tin cậy bảo đảm bản thảo Hồi ký này đến được tay ba cháu”. Ông dặn đi dặn lại “Sở dĩ chú không gửi bưu điện vì sợ thất lạc. Chú chỉ có bản viết tay này, không có bản thứ hai”.
Tôi nhận và chuyển cho ba liền sau đó. Một tuần sau, ba tôi trả lời đã nhận được. Không hiểu sao, giờ nghĩ lại, tôi thấy mình quá chủ quan, bởi gửi kiểu này đôi lúc cũng bị thất lạc. May mà một thời gian sau hồi ký “Hàn Mặc Tử anh tôi” đã xuất hiện trên các sạp báo!
Ngày ấy, đọc thư ông Tín gửi cho ba, tôi thấy có vấn đề là ông Tín tỏ ra ấm ức, tức giận bác Quách Tấn và xem cô Mai Đình là người không tốt, mời bạn xem thư:
Ngày
25 tháng 6 năm 1989
Anh
Yến Lan thân, kính
Được thư anh 2 hôm nay, mãi đi tìm địa chỉ cháu Bích Thủy chạy khắp Sài Gòn, vì anh quên ghi tên đường. Hôm nay mới tìm ra thì lại là ngày chủ nhật, nên chưa tiếp xúc được.
Tôi rất mong được các anh đọc hồi ký này trong tinh thần huynh đệ và giúp đỡ….Tập hồi ký này có nhiều chuyện mà chắc anh và các bạn không bao giờ ngờ được đến như thế, nếu chỉ nghe, hay đọc không chính thấy, hoặc dụng ý riêng tư.
Bản thảo này tôi đưa cho anh Dịch nghiền ngẫm hơn một tháng, Dịch rất chân tình và vui vẻ. Tôi cũng rất nhiều lần sửa đi sửa lại nhưng không hề tránh né hay thêm bớt gì. Vì vậy có lẽ anh đã nhận thấy tôi rất dè dặt không muốn ai xem bản thảo trước khi được xuất bản ngoại trừ các anh…”
Khi tập Hồi ký ra đời, tôi thấy bạn đọc đã hiểu sai về tấm lòng của bác Tấn đối với Hàn Mặc Tử rất lớn. Về vấn đề này được ba tôi trả lời :
PV “Gần đây có một cuốn sách của em ruột Hàn Mặc Tử cho rằng Quách Tấn không vô tư trong việc này. Ý kiến bác thế nào?
Yến Lan: “Đối với chúng ta, làm một điều gì để cho mọi người hiểu thêm về thiên tài Hàn Mặc Tử đều tốt cả, nhưng đừng bắt người chết phải gánh lấy những thiên kiến sai lệch của cuộc sống.
Thuở sinh thời Hàn MặcTử rất yêu quí anh Quách Tấn, Quách Tấn đối xử Hàn cũng như di cảo của Hàn là rất chí nghĩa, chí tình. Quyển “Hàn Mặc Tử anh tôi” khi xong bản thảo có gửi ra nhờ tôi góp ý…tôi thấy cộm lên mấy chuyện: Vấn đề Quách Tấn, vấn đề Hàn Mặc Tử bị Thúc Tề bóc lột, vấn đề Mai Đình bị nhìn nhận thành một cô gái thiếu đứng đắn.. tôi đã viết bốn lá thư phản đối gửi cho tác giả. Đặt vấn đề như vậy nhằm mục đích gì? Có lợi cho việc hiểu thêm thơ Hàn Mặc Tử hay nhân dip đó mà công kích người khác. Sau đó quyển sách in ra, vấn đề Thúc Tề và Mai Đình có được sữa chữa ít nhiều, vấn đề Quách Tấn vẫn giữ nguyên.
Tôi có đọc những bài báo của Quách Giao (Bách khoa văn học số 6 tháng 6 năm 1991), của Trần thị Huyền Trang (Tuần báo VN số 30 ngày 27.7.1991) viết về vấn đề này. Nói chung cần phải làm cho mọi người hiểu tấm lòng anh Quách Tấn.
PV: Có dư luận cho rằng sao Quách Tấn giữ được tờ giao bản quyền mà không giữ được bản thảo thơ? (Tờ giao bản quyền có photocoppy và in trong bài báo của Quách Giao)
YL: Trước Cách mạng, thư viện anh Quách Tấn ngoài sách báo ra còn có nhiều bản thảo, di bút của bạn bè trong Nam ngoài Bắc rất quí giá. Nhiều nhất là của Tản Đà, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê…các tập thơ chưa xuất bản của tôi cũng có ở đây. Năm 1944 anh Tấn đóng cửa nhờ một người láng giềng coi hộ rồi tản cư về Bình Định, chỉ mang theo tư trang tối thiểu và những giấy tờ tùy thân cần thiết như Giấy chứng nhận giao bản quyền.
À, bản quyền thơ Hàn Mặc Tử anh mang theo được vì nó chỉ là một tờ giấy. Còn di cảo thơ thì hàng nghìn tờ làm sao mang theo hết. Thời trước tự tay anh Quách Tấn đánh máy thơ Hàn Mặc Tử thành nhiều bản, 2 bản nộp cho Bộ giáo dục ở Huế, một bản cho gia đình Hàn, một bản cho Trọng Miên mang vào Sài Gòn, một bản cho Bích Khê ở Quãng Ngãi. Sau 1954 tài liệu ở nhà anh Quách Tấn bị mất. Hỏi Bộ giáo dục ở Huế cũng không còn. Các bản khác cũng không ai giữ được.
Tất cả mọi điều trên, anh Quách Tấn có viết trong hồi ký, đã xuất bản ở Miền Nam trước năm 1975. Chỉ cần chịu khó đọc và có thiện ý một chút, chắc không ai nỡ trách móc anh …”