Quanh năm tất bật công việc, chạy đua với thời gian lo toan bao chuyện cơm áo gạo tiền... Nhất là những thị dân, đầu óc thường xuyên căng thẳng khi ra đường, với biết bao mê hồn trận kẹt xe, ngập nước.Cả khi về tới nhà cũng mệt mỏi với chuyện học hành của con cái, rồi cuối năm giá cả tăng chóng mặt.Nên mấy ngày tết là thời gian nghỉ ngơi, thư giãn, giảm stress. Người có điều kiện thì đi du lịch hay tranh thủ về thăm quê, cốt tránh xa không khí thị thành ngột ngạt. Kẻ không tiền thì đóng cửa, làm như vắng nhà để tìm cảm giác thanh thản,an nhàn. Tết năm rồi, người viết rơi vào trường hợp thứ hai,nghĩa là đóng cửa nằm nhà đọc sách. Nhân lục đọc lại những bài cổ thi, tình cờ phát hiện một sự trùng hợp khá thú vị trong thơ viết về mùa xuân của danh tướng Trần Quang Khải và nhà văn hóa lớn Nguyễn Trãi. Trong bài Cảm hứng mùa xuân, Trần Quang Khải viết: “Lâm râm mưa bụi gội hoa mai/ Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng ngồi…” (Ngô Tất Tố dịch). Còn Nguyễn Trãi với bài Cuối xuân tức sự:“Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn/ Khách tục không ai bén mảng gần…” ( Khương Hữu Dụng dịch).Cả hai người sau khi đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử (Trần Quang Khải góp công lớn giúp vua Trần Nhân Tôn, cùng Hưng Đạo Vương đánh thắng giặc Nguyên, còn Nguyễn Trãi giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi) đã đóng cửa phòng văn, phòng thơ, ung dung tự tại thưởng xuân bằng những vần thơ. Những câu thơ hào sảng của Trần Quang Khải:“Đảm khí ngày nào rày vẫn đó/ Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi”. Đúng là giọng hào sảng của tác giả những câu thơ “Chương Dương cướp giáo giặc/Hàm Tử bắt quân thù”. Còn Nguyễn Trãi thì với tâm thế phân vân:“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn/ Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”.Tiếc và đau cho Nguyễn Trãi dù đã lui về ẩn dật ở Côn Sơn, nhưng rồi phải ngậm hờn nơi chín suối vì cái án oan “ Lệ Chi viên” bị tru di tam tộc.Trong một lần viếng đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, khi thắp nén hương tưởng niệm cụ, tận trong tâm tưởng kẻ hậu sinh vẫn gợn nỗi ngậm ngùi về cái án tru di gần sáu trăm năm trước.
Và vì vậy khi đến hành hương nơi rừng trúc Yên Tử,tôi mới thấy sự vĩ đại của Phật Hoàng Trần Nhân Tôn. Sau hai chiến thắng lẫy lừng đánh đuổi quân Nguyên, khi mới ba mươi lăm tuổi, hoàng đế Trần Nhân Tôn đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn, lên làm Thái Thượng Hoàng và lui về phủ Thiên Trường, rồi sau đó lên núi Yên Tửmặc cà sa, dựng am tu học Phật pháp. Tương truyền sau khi Ngài rời bỏ cung điện đi tu, nhiều cung nữ đã lên núi Yên Tử cầu xin đức vua hồi cung, nhưng Trần Nhân Tôn đóng cửa am mây, quyết dứt nợ trần lo bề tu tập Phật pháp. Không cầu xin được, các cung nữ đã cùng nhảy xuống suối quyên sinh. Trần Nhân Tôn rất thương cảm, cho lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan cho các cung nữ. Chùa ấy là chùa Giải Oan. Và con suối ấy cũng mang tên suối Giải Oan từ bấy… Trần Nhân Tôn là vị tổ sư khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - một Thiền phái Việt đầu tiên, đời sau tôn kính gọi ngài là Phật Hoàng. Ngài còn là một nhà thơ, nổi tiếng với nhiều bài thơ xuân, như bài Buổi sáng mùa xuân: “Ngủ dậy ngó song mây/ Xuân về vẫn chửa hay/ Song song đôi bướm trắng/ Phất phới phấn hoa bay.” ( Ngô Tất Tố dịch); hoặc bài Ngày xuân thăm chiêu lăngcó mấy câu khen ngợi những chiến binh già trong trận thắng quân Nguyên lần thứ nhất năm 1258 - cũng là năm sinh của Trần Nhân Tôn - như những lời động viên các chiến binh trong hai trận đại chiến với quân Nguyên lần hai và ba:“Người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện Nguyên Phong”. ( Nguyên Phong là niên hiệu của Trần Thái Tôn). Hay bàiSơn phòng mạn hứng làm sau khi đã đi tu, ý thơ thoát tục:“Ai trói mà mong cầu giải thoát/Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên?… /Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng/ Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.”(Thích Thanh Từ dịch).
Ngày xuân, nếu bạn nào có điều kiện, hãy làm một chuyến du lịch về Trúc Lâm Yên Tử ( Quảng Ninh) và khu di tích lịch sử Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương) để vừa viếng cảnh chùa, đền lẩn trong núi rừng u tịch, vừa chiêm nghiệm cái cảm giác chạm vào những dấu tích lịch sử đầy kiêu hãnh của một dân tộc ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, giữ vững non sông…Quần thể di tích lịch sử Côn Sơn- Kiếp Bạc gồm có đền thờ Trần Hưng Đạo ở Kiếp Bạc, chùa Côn Sơn và đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, đã được công nhận là khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Đền thờ Trần Hưng Đạo có từ thế kỷ 14, hàng năm có lễ hội đức Thánh Trần vào ngày 20 tháng 8 âm lịch, gọi là lễ hội mùa thu Kiếp Bạc. Đền thờ Nguyễn Trãi thì vừa được đại trùng tu, xây dựng tại chân núi Ngũ Nhạc rất hoành tráng. Chùa Côn Sơn là một ngôi cổ tự có từ thời Lý - Trần, nơi đệ tam tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử là Huyền Quang tôn giả trụ trì. Đền thờ cụ Nguyễn có dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam uốn lượn ôm lấy khu đền. Hàng năm có hội xuân Côn Sơn.
Khu du lịch tâm linh Yên Tử còn gọi là “ Non thiêng Yên Tử” với hệ thống chùa - am - tháp nằm lẩn khuất trong rừng núi chập chùng, đèo dốc quanh co. Dọc đường lên núi là những hàng tùng cổ thụ, hiện còn hơn 200 “cụ tùng” đã hơn 700 năm tuổi, cùng những chùa lớn nhỏ: Chùa Bí Thượng, chùa Suối Tắm, chùa Cầm Thực, chùa Giải Oan,chùa Hoa Yên, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu; và nằm trên đỉnh Yên Tử là chùa Đồng, đúc toàn đồng, chỉ rộng chừng 20 m2, dáng như một hoa sen nở. Quan trọng nhất là Thiền viện Trúc Lâm, được xây trên dấu tích chùa Lân ngày xưa, nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tôn giảng kinh, hiện là Thiền viện lớn nhất nước. Hệ thống am nằm khiêm tốn lẩn khuất trong các lùm cây, bờ đá là các am Thung, am Dược, am Thiền Định, cùng cụm tháp Huệ Quang( tức khu tháp tổ) và tháp Hòn Ngọc làm toàn bằng đá...
Hàng năm hội xuân Yên Tử kéo dài cả mùa xuân, khai hội từ mồng mười tháng Giêng đến hết tháng Ba âm lịch.Nếu như trước kia khách hành hương phải leo lên hàng mấy ngàn bậc đá dài đến sáu cây số đường dốc lên đỉnh Yên Tử, có khi mất cả ngày, thì bây giờ đã có hệ thống cáp treo hiện đại, chỉ mất chừng nửa giờ. Các bạn có thể ung dung ngồi trên ca-bin nhìn xuống thung lũng, con đường đá quanh co với những chùa tháp chìm khuất trong sương đầu xuân đẹp như tranh thủy mạc.
P.C.S