Tình cờ và cũng là may mắn nữa, vào Sài Gòn lần này tôi được gặp bà góa phụ Vũ Hoàng Chương, tức bà Thục Oanh ở nhà ông Trần Mai Châu, nơi đường Tự Đức cũ. Nhà ở xế ngôi trường Trần Văn Ơn vài chục mét. Nhận xét: Ông Trần Mai Châu là nhà giáo về hưu. Ông là dịch giả tập “Thơ Pháp thế kỷ 19”, đoạt giải văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997. Và ông cùng với nhà thơ quá cố Trần Dần, nhà triết học Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ lớn đã quá cố Vũ Hoàng Chương) lập ra nhóm “Dạ Đài”. Tờ "Dạ Đài” là tiếng nói tiêu biểu của nhóm, mới in được số 1, đang chuẩn bị ra số 2 thì Toàn quốc kháng chiến (1946) đành bỏ, và mỗi người một nẻo suốt 9 năm dài kháng chiến.
Từ lâu tôi đã nghe nữ sĩ Ngân Giang nói về thân thế của Vũ quân. Nhất là tài nội trợ của bà Thục Oanh. Bà nói nhiều lần đến chơi với nhà thơ Vũ Hoàng Chương nơi phố Hàng Điếu, khi ông còn ở Hà Nội. Hai người mải nói chuyện thơ phú, chẳng để ý đến thời gian, Bà Thục Oanh sau khi pha trà rồi ý tứ ngồi cạnh nữ sĩ Ngân Giang. Nhưng bà lui ra ngoài lúc nào chẳng ai hay. Và tới lúc Vũ quân mệt mỏi, vừa đói thuốc vừa đói cơm, thi sĩ đứng dậy đi loanh quanh trong phòng, cũng là lúc bà Thục Oanh bê ra một mâm cơm thịnh soạn. Nữ sĩ Ngân Giang cho tới nay vẫn chưa hết ngạc nhiên: “Tôi không hiểu chị ấy đi chợ và làm cơm vào lúc nào? Bởi tôi có cảm giác như lúc nào Thục Oanh cũng ngồi cạnh tôi”.
Vũ Hoàng Chương, Mẹ: Bà Hoàng Thị Sính, Vợ: Bà Đinh Thị Thục Oanh, và con trai Vũ Hoàng Tuân
Bà Thục Oanh đã ngoài 70 tuổi, dáng người mảnh khảnh. Tóc để buông, tấm áo dài màu trang nhã hợp với tuổi của bà. Ở bà, phảng phất nét đẹp tinh tế của các cô gái Hà Nội cách đây già nửa thế kỷ. Bà là em ruột của nhà thơ tài danh Đinh Hùng.
Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Vỹ, Trần Huyền Trân, Ngân Giang, Lê Văn Trương... là một trong những nhóm các bậc văn tài được đương thời mến mộ. Trong đó, Lê Văn Trương là người lớn tuổi hơn cả. Và nơi ông có phong thái một người hùng, một người hào hiệp và trượng nghĩa kiểu Mạnh Thường quân. Nhà ông lúc nào cũng đầy ắp khách.
Vũ Hoàng Chương trước yêu Tố Uyển. Tố Uyển phụ ông đi lấy chồng. Ngày cưới vào 12 tháng 6. Ông làm bài “Mười hai tháng sáu” để khóc cho mối tình tan vỡ. Trong đó có những khổ thơ rất thống thiết, chứng tỏ ông không chỉ là một đấng tài hoa, mà còn là một tài năng trác việt.
“Tháng sáu, mười
hai, từ đây nhé
Chung đôi, từ đây nhé
lìa đôi!
Em xa lạ quá, đâu còn
phải
Tố của Hoàng xưa, Tố
của tôi.
Men khói đêm nay sầu
dựng mộ
Bia đề tháng sáu, ghi
mười hai,
Tình ta, ta tiếc! cuồng,
ta khóc.
Tố của Hoàng nay Tố
của ai?...”
Theo nhà văn Mạc Lân (con trai nhà văn quá cố Lê Văn Trương) thì bài này lúc đầu có tựa đề “Kiều Thu đệ nhất khúc”. Còn bài khóc thứ hai với tựa đề “Kiều Thu đệ nhị khúc”. Cả hai bài, anh Mạc Lân đều đọc thuộc lòng cho tôi nghe. Vào dịp khác, tôi sẽ trở lại bài thơ này và mối giao hảo giữa nhà thơ Vũ Hoàng Chương với gia đình nhà văn Lê Văn Trương.
Trong mối giao tình của các bậc văn thi sĩ mà ta quen gọi là “lớp tiền chiến”, quả thật có nhiều điều muốn nói. Trước hết là về văn tài của họ. Sau đó là tấm lòng của họ đối với bạn bè và thời thế.
Qua trao đổi, tôi được biết bà Thục Oanh hiện sống rất thanh bạch, nếu không nói là thanh bần với con người trai lớn của bà. Và chỉ bằng một suất lương giáo viên trung học của anh.
Trước 1975, Vũ Hoàng Chương sống tàm tạm, là nhờ ở sự tần tảo và cần kiệm của bà Thục Oanh. Nhà nghèo thế mà khi ông Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ) vào thăm sau 30.4.1975, Vũ Hoàng Chương còn có gom góp đủ tiền mua được mười mét gấm, gởi tặng nữ sĩ Ngân Giang ngoài Hà Nội.
Nhà thơ Ngân Giang
Thật là tinh tế, tại sao ông không gởi cho nữ sĩ chiếc quạt hay một vật dụng vào khác, thiết thực hơn. Bởi vì, ông biết Ngân Giang là một nữ sĩ đài các. Vào thập kỷ sáu mươi, bảy mươi, phải quét lá làm củi đun. Mở quán bán nước trà xanh với vốn đăng ký 5 đồng bạc, ở cận bến sông.
“Quán nước bên sông
cuối phố nghèo
Miếng trầu bát nước
có bao nhiêu...”
(Thơ Ngân Giang)
Ấy vậy mà khi tiếp khách thơ, nữ sĩ vẫn cứ xài trầm, kiểu cách như trong thơ bà:
“Khơi đỉnh trầm lên
kìa thái giám
Cho hương tỏa quyện
điệu tì bà...”
Với bà, dường như trầm là hương vị của thơ.
Bà Ngân Giang kể tiếp: “... Ý anh ấy gởi cho tôi mười mét gấm, là để tôi may áo. Mà lại là gấm mầu nâu nữa. Tôi hiểu như là Vũ quân khuyên tôi hãy dẹp bỏ lòng trần, trở về với Phật. Tôi không thể làm theo ý anh được. Bởi lẽ gạo ăn hàng ngày còn thiếu, sao có thể mặc áo gấm. Con cái còn trông cậy cả nơi mình, làm sao mà rảnh rang miền tục lụy. Thế là tôi đành phải bán mười mét gấm đó, mua được 5 yến gạo, và còn đủ tiền may một bộ quần áo thường. Nói ra điều này, tôi thấy tủi cho mình, và cũng tội cho vong linh của Vũ quân lắm!”.
Cái tình nghệ sĩ thương nhau nặng sâu là vậy đó. Tôi còn được biết, thi sĩ Vũ Hoàng Chương chơi rất thân với nhà giáo Trần Mai Châu. Cũng dễ hiểu, vì ông Trần Mai Châu cùng ông Vũ Hoàng Địch (em ruột Vũ Hoàng Chương) đã là bạn rất thân với nhau từ thuở “Dạ Đài”.
Tôi đã được nghe đôi lần bác Trần Mai Châu đánh giá rất cao các thi phẩm của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Và ngay trong buổi tao ngộ này, nhiều người nói về Vũ Hoàng Chương, như nói về một nhà thơ lớn. Các vị tuổi cao, nhưng nhớ và thuộc thơ của Vũ Hoàng Chương, có lẽ chẳng ai chịu nhường ai.
Tuy nhiên, nhớ được những bài thơ chưa được in của Vũ Hoàng Chương, có lẽ bác Trần Mai Châu là đệ nhất. Hai người bạn vong niên này trân trọng nhau, tựa như nhà thơ Trần Lê Văn lưu giữ tác phẩm của nhà thơ quá cố Quang Dũng vậy.
Nhà thơ Quang Dũng mỗi lần làm được bài thơ mới, đều ghé đọc cho nhà thơ Trần Lê Văn nghe. Biết tính bạn, mỗi lần như vậy, nhà thơ Trần Lê Văn đều lấy sổ tay ra chép. Có lần nhà thơ Quang Dũng gặp lại người yêu từ thuở còn trai trẻ. Lục vấn những kỷ niệm xưa, ông viết được bài thơ “Vườn ổi” rất hay. Sợ phu nhân đọc được thì mệt lắm, ông đốt bài thơ ấy đi. Sực nhớ vẫn còn một bản nơi sổ tay của nhà thơ Trần Lê Văn, ông bèn gặp nhà thơ Trần Lê Văn đòi lại. Nhà thơ Trần Lê Văn hỏi:
- Ông đòi làm gì?
Tần ngần một lát, Quang Dũng khẽ nói:
- Mình đốt đi, kẻo bà xã đọc được lại phiền ra.
Nhà thơ Trần lê Văn nhất định không trả. Và sau khi nhà hơ Quang Dũng mất, ông đã đưa bài “Vườn ổi” vào “Tuyển tập thơ Quang Dũng”
Những thi phẩm của thi sĩ quá cố Vũ Hoàng Chương mà bác Trần Mai Châu lưu giữ được, phần nhiều không có tựa đề. Tôi chép lại một trong những bài đó. Bài thơ lập tứ từ bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu đời Đường:
Đã bao giờ có hạc
vàng đâu
Mà có người tiên để
có lầu
Tưởng hạc vàng đi,
mây trắng ở
Lầm Thôi Hiệu trước
Nguyễn Du sau
Hạc chưa thoát khỏi
mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn
cổ sầu
Trăng gió hão huyền
như khói sóng
Nồi kê chửa chín nghĩ
càng đau.
Nghe nói sinh thời đại thi tiên Lý Bạch có ghé lầu Hoàng Hạc; thấy cảnh đẹp định viết một bài tức cảnh, chợt nhìn thấy bài thơ của Thôi Hiệu đề trên vách; ông buồn bã thốt lên:
“Trước mắt có cảnh
đẹp mà không tả được
Bởi đã có thơ của
Thôi Hiệu trên vách rồi!”.
Thật ra Nguyễn Du viết “Hoàng Hạc lâu” không phải để so tài với Thôi Hiệu,mà chính là ông tự giải tỏa nỗi niềm. Hãy nghe ông tự sự:
“...Trung tình vô hạn
bảng thùy tố?
Minh nguyệt thanh phong
đã bất tri”.
“...Tình trong lòng vô
hạn, bầy tỏ cùng ai được?
Trăng trong gió mát cũng
chẳng biết.”
Trở lại những thi phẩm cuối cùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, viết vài ngày trước khi ông vĩnh biệt thế gian. Bà Thục Oanh với vẻ buồn sâu lắng. Dường như bà đang nhớ lại những gì về ông trong những ngày cuối. Giọng rầu rầu, bà kể:
“Tôi nhớ, bữa ấy nhằm ngày 9 tháng 9 năm Ất Mão (13.10.1975) anh ấy cảm thấy trong người hơi dễ chịu, thế là ngồi vào bàn viết. Một lát anh ấy lại về giường nằm. Tôi ngó vào bàn, thấy anh đã viết xong bài thơ. Đây là nguyên ý của anh ấy, kể cả những chữ viết hoa ở giữa dòng:
Trùng cửu thơ trao
bè Mây đã nát Thu -
phong từ,
trùng cửu thơ còn trao
ngất ngư.th
áng Cuối mùa Trăng
ngày Hội hữu,
năm Đầu gác bút động
Hoa lư,
thơ không thoái vị,
trà say khướt,
người vẫn đăng cao,
mộng ngọt lừ.
Nam- Bắc sương in đầy
bóng nhạn,
may ra bệnh cũng xuống
dần ư.
9.9 Ất Mão
Đấy là sau những ngày anh ấy đi học tập về, người rất yếu. Tôi cứ ngỡ anh ấy “đi” lúc nào không biết. Thế nhưng kỳ lạ thật. Sau bài “Trùng cửu”, bệnh anh ấy giảm hẳn. Tinh thần phấn chấn hẳn lên. Vài ngày sau đã lò đò đi thăm bạn. Có nhẽ người đầu tiên anh ấy đến thăm là ông Trần Mai Châu.
Thế nhưng tới giữa năm sau (1976), anh ấy lại ngả bệnh. Thật ra thì nhà tôi không có bệnh gì trầm trọng. Anh ấy vốn đã mảnh sức, nay lại suy nhược. Và rất buồn chán. Hay nói về cái chết. Lo cho những năm tháng cuối đời tôi, sau khi anh ấy ra đi, sẽ cô đơn như thế nào.
Tôi nhớ bữa ấy vào khoảng chiều ngày 9 (lại ngày 9) tháng 8 năm Bính Thìn (2.10.1976). Vũ gọi tôi lại gần, với giọng nhẹ nhàng, anh bảo:
- Này mình, ngày mai Mùng Mười tháng Tám là ngày giỗ Nguyễn Du đấy. Mình đi kiếm ít hoa trái về để mai anh làm giỗ Nguyễn.
Sớm hôm sau, tôi bầy hoa, bánh và ít trái cây lên bàn thờ, pha thêm ấm trà cúng. Tôi vừa xong các việc thì anh đã áo quần tề chỉnh, đứng trước bàn thờ, tự tay thắp nhang, rót trà. Và anh khấn Nguyễn Du bằng thơ.
Nghe giọng anh xúc động, khiến tôi rơi nước mắt. Tôi cảm như có sự hiện diện của cả Nguyễn Du nữa. Lạ lắm, lúc ấy tôi không nghĩ Nguyễn Du đã khuất từ hơn hai trăm năm, mà chỉ nghĩ tới một người khách của anh Vũ vừa đến thăm nhà mình. Thay vì sợ hãi, tôi thấy lòng ấm áp.
Nguyên văn bài thơ Vũ khấn như sau:
Đọc lại người xưa
Văn tự
hà tằng vi ngã dụng
Cơ hàn
bất giác thụ nhân liên.
Nguyễn Du
Chẳng dùng chi được
nhân tài
Thân này lụy áo cơm
ai bất ngờ
Phút giây chết điếng
hồn thơ
Nét đau mặt chữ bây
giờ còn đau
Chắc gì ba trăm năm
sau
Đã ai vào nổi cơn sầu
nằm đây
Nếu không cơm áo đọa
đầy
Như thân nào thịt
xương này bỗng dưng
Chết theo vào đến
lưng chừng
Say từng mảnh rớt, mê
từng khúc rơi
Nửa chiều say ngất mê
tơi
Khúc đâu lơ láo mảnh
đời Thi vương.
Mấy ngày sau đó, tôi thấy anh hay ngâm bài thất ngôn Đường luật, viết nhân dịp vào thăm Huế từ lâu lắm, nhưng nghe vài lần tôi đã thuộc. Hình như bài này không có tiêu đề.
Anh ấy đã yếu lắm. Nhiều lúc ngâm nghẹn lạc cả giọng, chỉ thấy phát ra những âm thanh rời rạc như tiếng rên đau đớn:
Nửa gánh gươm đàn
tới cố đô,(1)
Sông liền mưa tạnh
tưởng vào Ngô. (2)
Bìm leo cửa khuyết ai
ngờ rứa,
Rồng lẩn mây thành
chẳng thấy mô.
Lăng miếu tỉnh chưa
hồn cựu mộng,
Vàng son đẹp nhỉ bức
dư đồ.
Hồi chuông Thiên Mụ
riêng hoài niệm,
Tốt đã vào cung loạn
thế cờ.
Ngừng một lát, bà Thục Oanh như nhớ lại, đoạn bà tiếp:
- Sau đó tôi còn thấy anh ấy viết một bài về Nguyễn Thị Lộ, một bài về Hồ Xuân Hương, bài nào cũng da diết lắm.
Bốn ngày sau giỗ Nguyễn Du, tức ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (7.10.1976), Vũ “đi”!
Tựa như các bậc thiên tài Nguyễn Du, Victor Hugo, sáng tạo đến hơi thở cuối cùng; những bài thơ chót của thi tài Vũ Hoàng Chương, vẫn như những hạt kim cương nặng trĩu tình người và mãi còn tỏa sáng.
Láng Thượng 01.11.1998
Hoàng Quốc Hải
_________
Chú thích:
(1),(2) Hai câu này lấy tứ từ hai câu thơ Đường cổ:
Hàn sĩ liên giang dạ
nhập Ngô
Bình minh tống khách
Sở sơn cô.