Không hỏi, nhưng tôi nghĩ, khi Đa Mi cho chữ “M” rực đỏ, trên nền bìa tối-xám của thi phẩm “Phác thảo đêm” thì, rực đỏ ấy đã tiên báo, mặt bên kia con chữ của thơ Ngô Thanh Vân, là những guồng lửa sống: Ý thức / Tin tưởng / Mạnh mẽ vươn cao trên những game màu bi thảm của hiện thực xã hội, hôm nay.
Tôi cho, đó là tín hiệu truyền thống nhân văn, của những người trẻ làm VHNT. Không nhiều.
Nỗ lực tách thoát khỏi bầy đàn, với tôi, luôn là chỉ dấu của những tài năng mà, tấm lòng thành khẩn đã đưa họ tới được những khoảng trời xanh, mới. Họ chấp nhận cô đơn, chấp nhận thiểu số. Lội ngược. Nhưng, vẫn theo tôi, đó mới chính là chân dung nhà văn. Bản lãnh thi sĩ.
Nếu cần phải phân hạng thì, Ngô Thanh Vân, thuộc hạng mục cô-đơn-tự-hào, cùng với chủ tâm khai thác tính… “mộc” của ngôn ngữ Việt. .
“Phác thảo đêm” (PTĐ) của Ngô chia thành 5 phân khúc. Mỗi phân khúc là một phân cảnh phim câm về cuộc sống hôm nay; được ống kính thi sĩ ghi lại trung thực qua ngôn ngữ dựng trên những lời nói thật.
Cách khác, chúng là những “tự tình khúc” ở nhiều tình huống của định-mệnh-tiên-thiên-người-nữ.
“Giao hưởng đêm” là bài thơ đầu, mở vào phân khúc thứ nhất, tựa đề “Khúc đêm”.
Cận cảnh của “khúc đêm” là:
“lũ chuột hành quân trên mái nhà
la phông mục rỗng của ba mươi năm chịu đựng
làn làn bụi bay
(không biết bao giờ mới được bê tông hóa)
đồng tiền gối đầu theo lương tháng
tựa sóng. Cứ xô. Cứ xô.
Tác giả dùng “cận cảnh” này làm nền hay “sân khấu” cho:
“lũ mèo động tình
eo óc óc eo gào vào thinh thinh khoảng trống…”
và liên tưởng trực tiếp:
“ngôi nhà vắng đàn ông đàn bà ngồi bó gối nhìn đêm
chẳng có lúa mà xay
nước máy không delete được cái nóng rẫy bản năng vùng vẫy…”
-Bản năng? – Đúng vậy. Nhưng con-vật-người không phải lúc nào cũng sống với bản năng. Nhân loại, dù ở bất cứ đâu, vẫn sống, vẫn tồn tại với những gì, khác hơn bản năng (dù cho chỉ là một mùi hương):
“Quỳnh nhẹ nhàng vào đêm xòe bung giao hưởng trắng
lớp lớp váy tốc xòe đan kết bung nở
dịu dàng đêm. Tinh khiết đêm. Mùi thiếu nữ
cánh cửa bật tung
Người đàn bà quỳ vào đêm
Ngan ngát hương…”
Vào phân khúc 2: “Bản ngã”, vẫn bài đầu tiên, “Từ Cỏ”, một đoạn thơ lấp lánh hiện ra, trong sáng, tự nhiên, như mầm sống di truyền muôn đời của mọi sinh vật:
“ánh nắng soi vào buồng
rơi vào quá khứ hiện tại
ngày mới nhu nhú mầm
được gieo bằng niềm tin
bằng hy vọng
.
“cánh đồng kia xanh đến tận cùng
chợt hiểu
‘quảng gánh lo đi mà vui sống’
trái tim mình nhẹ bỗng ngân vang...”
Dù vậy, trái đất không phải là thiên đàng. Xã hội không luôn là những giải lụa trắng, đem ước mơ về đỉnh ngọn thủy chung. Vẫn dùng chữ, nghĩa “mộc”, Ngô viết:
“Tôi - con chim sợ cành cong
thu mình trong bóng tối
liếm láp vết thương
ngày cũ
vết sẹo lồi tím ngắt…”
Nhưng Ngô vẫn tìm kiếm, hỏi mua:
“ai bán niềm tin?
tôi xin mua về gia cố lòng mình
để có thể mở lòng đón nhận
nồng nàn, yêu thương
.
đoạn sông đó sẽ phải đi
cần phải đi
phải đi
ngôi nhà tôi bên lở
ăm ắp tiếng trẻ khóc cười
và những điều quay tròn bổn phận
Mặc niệm mình
tôi thấy tôi nhỏ bé
trước
nụ cười con.
Thiên thần!
(Trích “Đàn bà ba mươi” # 2)
Tuy nhiên, khi ống kính (hay tâm thức) thi sĩ của Ngô Thanh Vân, chuyển động qua phân cảnh khác: Mảng xã hội khuất, lấp, phần thứ 3, “Khúc Rời” thì, nó lại là mặt bên kia của đồng tiền-phận-nữ. Ở đó, tất cả mọi tệ nạn lừa đảo nhầy nhụa, hạ thấp nhân phẩm người nữ; từ phong trào phá thai, tới màng trinh giả, bùa yêu… đã được Ngô Thanh Vân ghi lại, không chỉ tựa tố cáo hay, lên án mà là tỏ bày đồng cảm với mẫu số chung: Phận-nữ trước bão lốc “cơm, áo, gạo tiền”.
Vẫn phong cách “mộc” cố hữu, Ngô Thanh Vân viết:
“hôm qua nghe thấy drap cười
vào mặt đại gia
lắm tiền nhiều của
mê chân dài
biếm họa cái màng trinh vá
đâu đó nơi gốc cây
đâu đó nơi nhà nghỉ
đâu đó nơi công viên
đâu đó nơi nơi nơi…
từng cặp từng cặp mải mê
từng cặp từng cặp khám phá
từng cặp từng cặp đổi chác
từng cập từng cập hiến dâng…
.
đâu đó nơi nơi nơi…
giá trên trời dưới biển
người lên mây - xuống vực
kẻ điêu đứng khóc cười
.
cũng ở giọt máu rơi!”
(Trích “Không đề”)
Vẫn phim câm – nhưng, với tôi, chính sự không một đối thoại (dù ngắn ngủi, cộc cằn) càng khiến người đọc “Trước Từ Dũ” của Ngô Thanh Vân, dưới đây, không thể rùng mình hơn:
“Từng cặp từng cặp lầm lũi
chẳng nói với nhau câu nào
cùng nhìn chăm chăm phòng khám
.
một vài đôi mắt lấm lét
giữa nhiều cặp mắt vô hồn
cũng ngồi chờ đến lượt
tiếng leng keng lạnh buốt
va vào thành tử cung…”
Nhưng, như đã nói “…khi Đa Mi cho chữ “M” rực đỏ, trên nền bìa tối-xám của thi phẩm “Phác thảo đêm” thì, rực đỏ ấy đã tiên báo, bên kia con chữ của thơ Ngô Thanh Vân, vẫn là những guồng lửa sống: Ý thức / Tin tưởng…”, tôi bước tới phân khúc 4 và 5: “Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy ta có thêm ngày nữa để yêu thương” – Và, “Nơi yêu thương đi về”.
Thông điệp chính ở hai phân khúc còn lại trong PTĐ của Ngô Thanh Vân, là tình mẫu tử và, địa danh - hai cảnh-quan-mặc-nhiên ương, giữ những mần-cây-kỷ-niệm, không cớm đi mà, sẽ còn lớn mãi, trước thiên tai, nhân tai, xã hội.
Rất ca dao, Ngô Thanh Vân viết:
“vai con mẹ hãy tựa vào
cho nguôi ngoai chút phần nào đắng cay
cầm bằng vịn cả hai tay
lòng này hẹn đến kiếp này, mẹ ơi
(…)
“mẹ đi lạc cả khúc sông
con cò dưới ruộng con công trên bờ
rạc rời thân hạc ơ hờ
chiều nay gió thổi tơi bời xóm quê…”
(Trích “Ru Mẹ”)
Và:
“Thì người nhé, đường xa vạn dặm
giữ cho nhau lưu luyến cuối cùng
để ta biết người đi vẫn nhớ
Pleiku buồn. Như một dấu chấm than!”
(Trích “Chạm Thu”)
.
“Phác Thảo Đêm” của Ngô Thanh Vân, với tôi, có dễ là thi phẩm thứ nhất tôi đọc, có được cho nó chuỗi mắt xích bất khả phân ly, về tương tác tâm / sinh lý phận-nữ từ trang đầu tới trang cuối.
Mặt khác, nếu ngôn ngữ Việt thuộc nhóm Đơn-âm / Monosyllabic (không phải Đa-âm / Polysyllabic), cho phép thi sĩ lập lại, đảo ngữ, tận dụng bổ ngữ như “eo óc, óc eo” hay “nhu nhú”… rất Việt… thì, những chữ mới như “thinh thinh” trong thơ của Ngô lại gây khó cho cảm nhận tức thì nơi người đọc!.!
Tuy
nhiên, nếu cần phải có thêm lời nào, cho bài viết ngắn
này, thì tôi xin được nói:
“Cám ơn thơ mộc, Ngô
Thanh Vân”.
Du Tử Lê
(Calif.
April. 2016)