Bích Khê - Người có những câu thơ hay nhất Việt Nam
Cách đây gần 50 năm, tôi và bạn bè tôi còn là học trò lớp Nhất trường làng, chúng tôi say mê và thuộc lòng bài thơ “Làng em” của thi sĩ Bích Khê:
“Nơi
đây: Làng cũ buồn thu quạnh
Anh
có khi nào trở lại chưa?
Ngày
đi chậm lắm. Dòng sông biếc
Cùng
sáng trong trời sợi sợi mưa
Nơi
đây: Thành phố đời ngưng mạch
Mấy
nàng lai khách vẫn buồn mơ
Đường
lên hội quán sương khuya xuống
Đâu
mấy chàng trai rõi nhớ hờ?
Anh
có khi nào còn trở lại
Chờ
lúc hoàng hôn trăng đã lên
Tìm
ngõ nhà em anh sẽ thấy
Khóm
lan thơm nặng khí ưu phiền
Là
lúc đêm về trên mái ngói
Những
nhành nhãn muộn cánh dơi lay
Em
đang nổi bệnh trong phòng vắng
Tình
đậm theo trăng sáng sáng đầy…”
Đây là một trong những bài thơ Bích Khê viết về nơi ông từng sinh sống, gắn bó suốt cuộc đời. Đó là phố cổ Thu Xà, một Hội An thu nhỏ của Quảng Ngãi ngày xưa. Nơi đây chỉ cách làng chúng tôi ở một con sông nhỏ. Chính vì vậy, cùng với những câu thơ đẹp, “Làng em” của Bích Khê rất gần gũi, thân thiết với chúng tôi. Khi lớn lên, chúng tôi càng say mê nhiều bài thơ của Bích Khê như: Mộng cầm ca, Tỳ bà, Hoàng hoa, Tranh lõa thể, Xuân tượng trưng, Duy Tân, Ngũ hành sơn… Thơ Bích Khê thật đẹp, thật sang trọng, tràn ngập nhạc điệu và màu sắc. Và, cũng chính Bích Khê qua thơ của mình đã góp phần làm đẹp thêm tiếng Việt. Cùng với các bài thơ: “Ngũ hành sơn”, “Hải vân”, những địa danh, thắng cảnh của Quảng Ngãi như sông Trà, núi Ấn, chùa Ông và “làng em” – Thu Xà ngày xưa ấy đã đi vào trong thơ của Bích Khê, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người yêu thơ.
Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, còn có bút danh: Lê Mộng Thu. Ông sinh ngày 24/03/1916, nguyên quán ở xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Gia đình Bích Khê nhập cư sinh sống ở thị trấn Thu Xà nay là xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi). Năm lên 14 – 15 tuổi, Bích Khê đã biết làm thơ Đường, viết ca trù, hát nói. Đến tuổi 16 – 17, Bích Khê đã có thơ đăng trên các báo: Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Ngày mới, Phụ nữ tân văn… Nhiều bài thơ của Bích Khê đã chinh phục được những nhà nho khó tính thời bấy giờ. Năm 1935, qua Mộng Cầm (cháu gọi Bích Khê bằng cậu), Bích Khê gặp Hàn Mặc Tử ở Phan Thiết. Từ đây, hai người trở thành đôi bạn thân thiết. Bích Khê phục tài thi sĩ Hàn Mặc Tử. Và, Hàn Mặc Tử cũng rất quý mến tài thơ của Bích Khê. Cuối năm 1938, Bích Khê góp thành tập thơ gởi cho Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử gởi trả lại với lời chê “quá kém“. Trước lời phê bình nặng nề của Hàn Mặc Tử, Bích Khê xé nát tập thơ và viết thư cho Hàn Mặc Tử với lời tuyên bố: “Trong sáu tháng sẽ trở thành một thi sĩ phi thường. Bằng không, sẽ không làm thơ nữa…”. (Thật ra, cũng như Yến Lan và Quách Tấn, Hàn Mặc Tử biết Bích Khê là người có tài nên “khiêu khích, mỉa mai“, làm cho Bích Khê “bật nảy thiên tài“).
Kể từ sự kiện này, Bích Khê từ bỏ dòng thơ cũ, bước hẳn sang lãnh địa thơ mới. Bích Khê đổi mới sáng tạo trong thơ một cách triệt để và quyết liệt. Thời kỳ này, Bích Khê tiếp cận và chịu ảnh hưởng nhà thơ Baudelair và Valéry thuộc trường phái Tượng Trưng của Pháp. Nhưng, Bích Khê đã tạo được bản sắc riêng của mình. Chỉ ba tháng sau, Bích Khê gởi cho Hàn Mặc Tử tập thơ “Tinh huyết” – một tập thơ được viết bằng “máu huyết, tinh tủy, châu lệ và tất cả say sưa đắm đuối của một tâm hồn thi sĩ”. Hàn Mặc Tử mừng ứa nước mắt trước sự thành công của bạn. Cuối năm 1939, “Tinh huyết” của Bích Khê ra đời, Hàn Mặc Tử gọi là: “Một bông hoa lạ nở hương, một thứ hương quý trọng, thơm đủ mùi phước lộc. Một đóa hoa thần dị…”. Tập “Tinh huyết” được bạn đọc cả nước, nhất là giới trẻ đón tiếp một cách nồng nhiệt. Nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét: “Bích Khê thật sự là một đỉnh núi lạ trong làng thơ mới”. Tháng 11/1941, Hoài Thanh – Hoài Chân đã nhận định về thơ Bích Khê như sau: “Tôi đã gặp trong “Tinh huyết” những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài “Duy Tân”, tôi thấy trong đó có những câu thơ thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa… Còn các bài khác, hoặc chưa xem, hoặc mới đọc mới có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc…”.
Nhà thơ Phan Thanh Phước, tác giả của tập thơ “Vương hương”, người cùng thời với Bích Khê đã từng nói: “Một bài thơ của tôi xong là tôi tự thấy có kém sút một ít trong sức khỏe. Như vậy tức nhiên có một phần sức khỏe của tôi đã đi vào trong thơ tôi. Tôi tự hỏi thế là trong thơ tôi có cả hồn lẫn xác của tôi chăng?”. Câu nói trên, có lẽ đúng với trường hợp của Bích Khê. Bích Khê bị bệnh phổi từ năm 1937. Có lẽ, thơ làm cho Bích Khê thêm nặng bệnh. Cả thi sĩ Hàn Mặc Tử và Bích Khê đều mắc phải bệnh nan y. Thời bấy giờ, y học chưa tiến bộ nên cả Bích Khê và Hàn Mặc Tử đều phải sớm từ giã cõi đời! Bích Khê mất vào ngày 17/1/1946 tại quê nhà Thu Xà – Quảng Ngãi. Cùng với Tinh huyết, Bích Khê đã để lại cho đời các tập thơ: Tinh hoa, Đẹp, Ngũ hành sơn, Mấy dòng thơ cũ.
Những nhận định về Bích Khê của Hoài Thanh – Hoài Chân đến nay đã được 68 năm, đi qua thế kỷ, vẫn còn nguyên giá trị. Gần 70 năm qua, có rất nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học, nhà thơ, nhà văn viết về Bích Khê. Có người làm luận văn tốt nghiệp Cao học về đề tài thơ Bích Khê. Tất cả đều có chung một nhận định: “Bích Khê là một trong những người tiên phong đã đưa lịch sử thơ ca lên một bước mới. Thơ Bích Khê là kết quả đẹp đẽ của một tư duy nghệ thuật tích hợp, nhuần nhuyễn, tinh tế các yếu tố Đông Tây trong sáng tạo nghệ thuật. Bích Khê là một nhà thơ hy sinh toàn diện cho thơ”. Riêng đối với chúng tôi, khi đọc thơ Bích Khê, thường nghĩ đến tình bạn cao đẹp giữa các nhà thơ tài hoa: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Yến Lan và Bích Khê. (Những nhà thơ này được các nhà phê bình văn học xếp vào nhóm trường Thơ Loạn hay nhóm thơ Bình Định). Qua các bài viết, hồi ký, thơ văn của người trong và ngoài cuộc, chúng ta vô cùng kính phục và ngưỡng mộ tình bạn của Quách Tấn, Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Nguyên Đình. Có thể nói đây là tấm gương sáng về tình bạn. Họ thân thiết như anh em ruột thịt. Mỗi người mỗi hoàn cảnh, tôn giáo khác nhau, quan niệm sáng tác có khi cũng khác nhau. Nhưng, giữa họ là sự chân thành, gắn bó thủy chung, tôn trọng nhau, cùng giúp nhau tiến bộ. Và, tất cả đều thành danh trên con đường sáng tác thơ ca. Họ đã để lại cho đời những kiệt tác, đóng góp rất lớn vào kho tàng văn học đất nước.
Dù trong nghèo đói, túng thiếu, Yến Lan, Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và Nguyên Đình gắn bó giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Khi Bích Khê bị bệnh nan y phải vào bệnh viện ở Huế điều trị, dù khó khăn, mỗi tháng Yến Lan góp 30 đồng, Chế Lan Viên 10 đồng, Nguyên Đình 20 đồng, Quách Tấn 20 đồng. Tất cả gởi ra Huế giúp Bích Khê chữa bệnh. Có cuốn sách nào hay, dù là sách mượn của người khác trong thời gian ngắn nhất phải trả cho chủ nhân, Chế Lan Viên đều tranh thủ đọc trước, xong chạy bộ trong đêm tối đưa đến nhà đưa cho Yến Lan đọc (Thời xưa, sách hay rất hiếm và quý. Đâu có được đầy đủ báo in, sách in, sách trên internet như bây giờ). Khi nhớ Hàn Mặc Tử, Bích Khê đã viết bài Hàn Mặc Tử, đọc xong chúng ta nghe lòng mình rưng rưng:
“…
Mướt
trong màu tuyết vẽ
Hai
ta đều quạnh quẽ
Đứt
ruột thương nhớ nhau
Nấn
ná sẽ lìa nhau
Chiêm
bao còn thấy nhau…”
Khi Hàn Mặc Tử qua đời, Quách Tấn đã viết những câu thơ ứa lệ:
“Ôi
Lệ Thanh! Ôi Lệ Thanh
Một
giấc trưa nay lại giật mình
Nhan
sắc châu sa màu phú quý
Tài
ba bút trổ nét tinh anh
Rượu
tần thu cũ say sưa chuyện
Hương
lạ trời cao bát ngát tình
Tôi
khóc tôi cười vang cả mộng
Nhớ
thương đưa lạc gió qua mành”.
Đến khi Bích Khê qua đời, Quách Tấn đã viết những vần thơ khóc Bích Khê:
“Ngắm
vọi trời Thiên Ấn
Cố
nhân ơi! Cố nhân!
Bóng
theo Hàn Mặc Tử
Tâm
gởi Ngũ Hành Sơn
Danh
vọng đài mây vút
Anh
hoa biển sóng dờn
Đã
hay nghìn tuổi thọ
Thương
nhớ lụy đòi cơn”.
Những bài thơ thương nhớ bạn của Quách Tấn, Bích Khê… đã đi vào văn học sử.
Xin ngàn lần, vạn lần, trân trọng cảm ơn quê hương, đất nước đã sinh ra Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Yến Lan… những nhà thơ tài hoa, chân chính. Và, chính họ là những người đã làm đẹp thêm quê hương đất nước thân yêu.
Lê Ngọc Trác
_______________
Tài liệu tham khảo & trích dẫn:
- Thơ Bích Khê
(NXB Đồng Nai – 1999)
- Thi nhân Việt
Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân (1942)
- Đời Bích
Khê của Quách Tấn (1970)
- Yến Lan nhớ
mãi về anh của Nguyễn Thị Lan (2002)
- Từ điển
nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng –
Nguyễn Bá Thế (1999)