Không biết phải gọi Thế Phong với danh vị nào? Nhà thơ, nhà văn, nhà biên luận, nhà báo, dịch giả... Ở vị trí, công việc nào, Thế Phong cũng thành công và khẳng định vị trí của mình sau khi tác phẩm của ông đến với người đọc. Thế Phong tên thật là Đỗ Mạnh Tường, sinh năm 1932 tại Nghĩa Lộ tỉnh Yên Bái. Thế Phong sinh sống bằng nhiều nghề: Làm nông, phóng viên, dạy học, đi lính... Dấu giày của Thế Phong đã đi qua nhiều miền trên đất nước. Hiện nay ông thường trú tại Sài Gòn. Cuộc đời của Thế Phong gắn bó, sống hết mình với văn học. (Ông còn ký các bút danh: Tương Huyền, Đường Bá Bổn, Đinh Bạch Dân).
Xuất hiện lần đầu tiên trên văn đàn với truyện ngắn "Đời học sinh", ở báo Tia sáng Hà Nội vào năm 1952. Đến hôm nay (2009), Thế Phong đã xuất bản trên 50 tác phẩm, bao gồm các thể loại: Thơ, truyện, khảo luận, dịch thuật. Tác phẩm của Thế Phong còn được các dịch giả tên tuổi chuyển ngữ sang tiếng Anh, tiếng Pháp xuất bản ở nước ngoài đến hơn 11 đầu sách, gồm: Tự truyện, thơ, phê bình văn học... Chúng ta nhận thấy gia tài văn chương của Thế Phong thật đồ sộ. Và, cảm phục sự chuyên cần trong sáng tạo nghệ thuật của ông. Chắc chắn sẽ không dừng lại ở con số 50, tác phẩm của Thế Phong hẳn sẽ còn thêm nữa.
Nửa đường đi xuống (Tự truyện), Nhà văn, tác phẩm, cuộc đời (Tự truyện), Lược sử văn nghệ Việt Nam (Khảo luận, 4 tập), Tổng luận 60 năm văn nghệ Việt Nam (Khảo luận), Nietzsche và chủ nghĩa đi lên con người... là những tác phẩm của Thế Phong đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc.
Riêng lĩnh vực thơ Thế Phong đã xuất bản: Nếu anh có em là vợ (1959), Sai biệt (1960), Vương Miện Mai A (1961), Cho thuê bản thân (1962), Trước mắt nhìn thi sĩ (1963), Đàn bà và tổ quốc (1964), Thơ làm lớn dậy con người (1965), Việt Nam vùng trời lửa đạn (1966), Nam Việt Nam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ (1968)... Qua toàn bộ thi phẩm của Thế Phong, chúng ta cảm nhận tâm hồn của ông thật phóng đạt. Rung động thật sự từ đáy lòng, thể hiện với một bút pháp mới lạ "mở và thoáng". Có lẽ, bài thơ Thế Phong viết về nơi ông chào đời, lớn lên, về mối tình đầu và cả những đắng cay, hệ lụy là cả một bức tranh sinh động, thu hút người đọc ngay từ những dòng thơ đầu tiên:
"Tôi lớn dậy mang đầy
mù sương Việt Bắc
quê
hương tôi cây đứng thẳng nhiều hơn rừng chông
người
tình đầu đã bỏ tôi vào điểm giờ cách mạng 1945
núi
rừng ơi! nhớ mãi cùng bằng không
những
cái mấp mô
gồ
ghề
hình
ảnh cuộc đời không
mềm
như thạch trắng
mà
người tôi yêu thích được nuông chiều
đu
đẩy như tình yêu
đu
võng
ngươi
bỏ tôi rồi
nên
côi cút
thiếu
thốn hoài ở tuổi ba mươi hai
tâm
hồn tôi phức tạp
nhiều
đa mang
nên
nhiều buồn thảm
trăm
nghìn bài thơ yêu
chẳng
nói lên một ảnh hình
một
cạnh góc tình yêu
tâm
hồn tôi đa sầu
vì
lần đầu tiên
theo
người yêu ra nghĩa trang
biết
khóc
mồ
mả kẻ nào đây
mà
thương vay
tôi
cắm một bông hoa
với
mẹ cha bỏ cuộc đời
giã
từ hôm qua
xa
xôi quá
một
tiếng khóc, một bông hoa không có
Nhà
tôi
nằm
trên đỉnh ngọn núi cao vời vợi
chiều
chiều mặt trời làm bạn
thưở
ấu
thơ
áo
chàm xanh Nghĩa Lộ
dân
bản thổ Sơn La
con
gái áo "kỏm" bỏ ra
bức
tranh khỏa thân
trong
suốt giòng nước suối
tâm
hồn lớn dậy trong tình yêu
bắt
đầu vú nở và sớm nhiều hơn
từ
độ
ấy
..."
(Trích
trong tập "Thơ làm lớn dậy con
người, 1965)
Thế Phong còn là một con người phản kháng. Ông chống lại những hiện tượng xu phụ. Đối với lĩnh vực sáng tạo trong văn chương, theo Thế Phong: "Bổn phận của người sau là phải tổng hợp cái dữ kiện hôm qua cùng cái hôm nay, tạo cho ngày mai và sự diễn tiến của nhân sinh cứ luân chuyển mãi mãi như vậy" . Chính vì có tư tưởng như thế nên Thế Phong đã nặng lời phê phán cái kiểu "bái đầu", tung hô "thần tượng"một cách a dua,thái quá. Bài thơ "Cho thuê Nguyễn Du" của Thế Phong là một dẫn chứng về tinh thần phản kháng:
"Thắt nút cà vạt cổ
cồn không thấy ghét bám phía sau
lên
giọng thầy giảng văn chương khỏi mang tiếng học trò
mang sự
lúng túng đền bù thuốc lá châm liên miên
chưa
nghiện thuốc nặng sao phà hơi qua lỗ mũi
bảo
đảm vợ con trưa chiều áo cơm lên giọng
gõ
mặt bàn tiếng văn chương Nguyễn Du
ba
trăm năm chưa hết – còn ai khóc Tố Như?
có
chăng phường bất tài ám ảnh mượn danh tràn
thi
nhân ngày xưa hẳn mặc toàn áo gấm?
túi
đầy tiền rủng rỉnh tay nào với tha nhân?
tôi
không còn hứng cảm thông Kim Vân Kiều
tôi
nhổ bọt vào mặt tôi chót khen thi hào
lời
khen tặng mười năm ròng không đổi mới
ba
ngàn câu thơ chưa làm tôi xúc động
họa
chăng đôi ba câu tả thật đời lãng mạn
dăm
ba điều kinh nghiệm của lần trao ái tình
một
vài cảnh đẹp nước chảy qua cầu tiết Thanh Minh
mua
gương Từ Hải vì ai mà lơ láo triều đình?
...
Tôi
khinh tôi ra mặt cứ khen tràn cổ nhân
tôi
phỉ nhổ mặt tôi thực sự phê bình Kiều danh tiếng
văn học
sử này tôi sổ toẹt thi hào vỏ
đại
diện một góc cạnh cỏn con nhìn đời nho nhỏ
cả
tên làm thơ quan lại nịnh bợ danh tướng công
mong
danh tiếng mình mãi gắn bó cùng non sông
ca
tụng cái đẹp vẻ hay nhà trường đổi đồng tiền
Tôi
hy vọng học trò không bằng lòng lời khen giảng
áo
cồn thôi vòng cổ tôi đấm bóng tôi gương soi
cho
thuê Nguyễn Du thật cần thiết không đòi bồi thường
(Trích trong tập thơ: "Cho
thuê bản thân" , 1962)
Bài thơ "Vương niệm cuộc đời" Thế Phong viết cách đây gần 50 năm, hôm nay đọc lại vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta thấy đau nhói trong lòng. Xã hội ngày xưa – xã hội hôm nay vẫn còn nhiều cảnh đời đau khổ, bất công. Trong thơ Thế Phong, không chỉ có phẫn nộ, mà chúng ta còn bắt gặp ở Thế Phong một tâm hồn nhân hậu, đầy tự trọng:
"Những đêm sao mọc
bừng – đêm thứ bảy
anh
vào phố tìm mua áo bông mầu
không
sao có mầu anh tìm
tìm
hoàng hôn tắt vội – đường chiều em về heo hút gió
đời
chán quá anh tìm ăn trong quán
đời
bơ vơ – ghế trống quá – hàng ba
đời
lứa đôi thiên hạ chen đua
xương
còn lại chất đầy trong bàn tiệc
kiếp
ăn mày nạng chống gầy lũ lượt
tay
loang lổ ghẻ tầu, miệng run đôi môi
xin
lại miếng ăn thừa chất đầy trong túi hẹp
nốc
rượu vang thừa – cằn cốc đá nước tan
-
đời còn nhiều hứa hẹn – gặm xương thừa,
gầm
cầu, lề phố vắng
Những
đêm sao mọc bừng – đêm thứ bẩy
anh
thôi vào phố để không nhìn ăn mày
không
sao có mầu sáng anh tìm mua
vương
miện đầy sương hoa – đợi chờ đến
bao
giờ phủ lên đầu mọi người một sớm
đời
chán quá! anh không đưa em vào phố
chúng
mình bơ vơ – ghế trống quá – hàng hai
ăn
mày nô lệ miếng ăn thừa
chúng
mình cúi gầm ăn mà sao không ngẩng mặt?
(Trích "Muôn
hoa" trong tập "Vương miện
Mai A", 1961)
Trong thi ca, Thế Phong đã tạo ra một con đường của riêng mình, không giống một ai. Từ năm 1959, nhà văn Thiên Giang, một cây bút tên tuổi của miền Nam đã có những nhận định, đánh giá cao về Thế Phong: "Sự hiện diện của Thế Phong trong bình diện văn nghệ là kích động, thúc đẩy, tạo sự chuyển động cho cả guồng máy văn nghệ...". Và, khi đọc thơ của Thế Phong, học giả Hoàng Xuân Việt đã cảm nhận: "Thơ Thế Phong mãnh liệt cảm xúc, đê mê trong nghệ thuật".
LÊ NGỌC TRÁC
__________________________________
Tài
liệu tham khảo & trích dẫn:
-
Thơ Thế Phong
-
Nhà văn, tác phẩm, cuộc đời (
Thế Phong, 1970)
-
Những nhà thơ hôm nay (
Nguyễn Đình Tuyến,
1967)
-
Chiêu niệm bốn nhà văn Sài Gòn (
Thế Phong
, 1999)