Tiểu sử nhà văn Huy Trâm / Nguyễn Hồng Nhuận Tam cho thấy ông bước vào sinh hoạt VHNT của 20 năm VHNT miền Nam, rất sớm; ngay tự giữa thập niên 1950. Tới đầu thập niên 1960, ông đã có nhiều tác phẩm xuất bản, như tập truyện “Chiều quê hương” (XB năm 1963), hay “Lòng chưa dâu biển” (thơ, XB năm 1967).
Tuy nhiên, Huy Trâm không được đám đông biết tới nhiều. Một năm sau, năm 1969 tác phẩm nhận định văn học “Những hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại” của ông, được trao giải thưởng văn chương toàn quốc bộ môn biên khảo, tên tuổi Huy Trâm mới thực sự được văn giới và, dư luận chú ý.
“Những hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại”, gọi tắt là “Những hàng châu ngọc” (NHCN) (1), là một tuyển tập ghi nhận những cảm nghĩ riêng của họ Nguyễn về tiến trình thi ca trên dưới nửa thế kỷ (tính tới cuối thập niên 1960).
Ơ giai đoạn thơ Tiền chiến, người đọc thấy ông đề cập tới thơ của những nhà thơ như Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Bàng Bá Lân, v.v… Với dòng thi ca miền Nam (sau cuộc di cư 1954), người đọc thấy ông nhắc tới thơ của các tác giả như Đinh Hùng, Tạ Ký, Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Quách Thoại, Nguyễn Đức Sơn, Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Tuệ Mai, Hoài Khanh, v.v…
Tác phẩm vừa kể có tất cả 7 chương; chia theo những chủ đề như: “Thiên nhiên nguồn cảm hứng vô tận”. “Tình yêu và niềm đau khổ”, “Thi ca với mùa màng cùng thời tiết”; “Trở lại thời xưa”, Những buổi chiều trong thơ”; “Trên sông khói sóng” “Những đoạn hùng ca”; và, phụ lục “Đêm vào lòng người”.
Đặc biệt trong chương “Tình yêu và niềm đau khổ”, Huy Trâm / Nguyễn Hồng Nhuận Tam đã chọn bài thơ tựa đề “Xuân ca” của Thanh Tâm Tuyền, một bài thơ rất ít người biết- - Phản ảnh giai đoạn đầu hành trình thi ca của người làm thơ, sau này được tạp chí Sáng tạo coi là ngọn cơ đầu của nỗ lực xiển dương phong trào thơ tự do ở miền Nam. Một bài thơ lục bát mà từ nội dung đến hình thức rất gần với ca dao và, đậm hồn tính thơ tiền chiến.
Nguyên văn bài thơ “Xuân ca” của Thanh Tâm Tuyền như sau:
“Trót nghe nửa tiếng cười đùa
Xóm hoa mưa đổ hương xưa nghẹn ngào
Thuở buồn ai đẹp phương nào
Cúi đầu trinh khóc xôn xao trêu người
Yêu nhau không dám ngó trời
Trời xanh mây trắng xuân đời bỏ hoang
Hoa mai nở đón mắt nàng
Mà môi trống lạnh muôn vàn cách xa
Hôm nay muốn gió thành hoa
Muốn mây thành tóc lòng ta rũ cười
Bao giờ trọn vẹn cuộc đời
Ta ôm mây trắng cho trời mãi xanh”.
(NHCN, Huy Trâm, trang 75) (2)
.
Đó là lãnh vực phê bình văn học. Về thi ca họ Nguyễn, Nhà phê bình văn học Cao Thế Dung trong loạt bài “Thi ca và thi nhân”, đề cập tới cõi-giới thơ Huy Trâm, đã viết:
“Thơ Huy Trâm xuất hiện như tiếng nói vang tỏa từ một không trung tươi mát và trong lành. Thơ ông - xét toàn bộ - trong sáng một cách mơ say. Giữa những xáo trộn của thời thế, thơ Huy Trâm tìm về sự an nghỉ. Giữa những xáo trộn của thời thế, thơ Huy Trâm tìm về an nghỉ. Không phải như một an nghỉ thoải mái, tiếng thơ ông dật dờ trong lặng lẽ cùng với nỗi buồn, bay bổng phù du. Một chiếc lá rụng, môt điệu ru buồn một đêm mưa, phố vắng cũng đủ làm rung động ngất ngây tâm hồn Huy Trâm, và đi vào thơ ông như tình tự cuộc đời một cách nên thơ. - thơ Huy Trâm thoạt nhìn có vẻ cổ mà càng đi sâu vào thi thể, chất thơ càng vang tỏa, thuần nhất, bộc lộ đủ một tâm hồn ước ao bay xa - vượt trên tầm thước nhàm chán của thực tại. Hình ảnh và ngôn ngữ tuy chưa chọn lựa đắn đo, song vẫn chan chứa tình ý thơ - và thơ đối với ông như một viễn ảnh nhiệm mầu. Bài “Về quê em” là một tiêu biểu:
“Từng mái lá bâng khuâng như hò hẹn
Đón anh về hoa lá khẽ rung rinh (…)
“… Nghe trong gió lời quê em réo gọi
Về quê em cho bớt nỗi tang du
Về quê em nghe lắng mộng sông hồ
Đất cũng biết đời anh buồn quá lắm (…)
(Trích “Về quê em”, Huy Trâm).
“Thơ Huy Trâm không có ý mới - nếu quan niệm theo cái mới theo thời đại bây giờ. Thơ ông dăng mắc trong thế giới vàng son của xưa cũ. Cho nên, từ cách cấu tạo thơ (structure) đến giai âm qua sự phát điệu của ngôn ngữ để hình thành một tiết điệu thơ - Huy Trâm chịu ảnh hưởng sâu xa của các nhà thơ trong trường phái lãng mạn Pháp ( Victor Hugo, Lamartine) - cùng với những nhà thơ ta, như Huy Cận, Vũ hoàng Chương. Xin lắng nghe:
“Lá thư rụng mấy phương trời
Tình thu bàng bạc mấy người quên yêu?
Vàng dâng úa ngập tiêu điều
Ngõ đầy rêu nhạt lối nhiều lá khô
Tình thu ướt cả sông hồ
Thương em mắt biếc nằm mơ áo hồng” (…)
(Trích “Tình thu” Huy Trâm) (3)
Tuy đồng cảm với hầu hết những nhận định của họ Cao qua những dòng thơ Huy Trâm mà ông đã trích dẫn; nhưng với 2 câu thơ “Từng mái lá bâng khuâng như hò hẹn” và “Đất cũng biết đời anh buồn quá lắm”, trích từ bài “Về quê em”, tôi cho là 2 câu thơ tương đối mới ở thời đó.
.
Đó là thơ Huy Trâm / Nguyễn Hồng Nhuận Tam trước tháng 4-1975. Kể từ năm 1991, tỵ nạn tại Hoa Kỳ, không biết có phải nhờ ông không còn giữ vai trò “Thẩm phán công tố” trước tòa, nên họ Nguyễn đã có nhiều thời gian hơn, dành cho việc sáng tác? Tính riêng tại quê người, tới hôm nay, họ Nguyễn đã có thêm 17 tác phẩm được ấn hành (tác phẩm mới nhất là “Dù có xa xôi”, truyện; so với 13 tác phẩm XB tại VN. (4).
(Kỳ sau tiếp).
___________
Chú thích:
(1) Do nhà XB Sáng ấn hành, Saigon, 1969.
(2) Theo tư liệu của nhà thơ Thành Tôn, hiện cư ngụ tại quận hạt Orange County, thuộc miền nam tiểu bang Cali.
(3) Nguồn: Trang mạng Virgil Gheorghiu, do nhà văn Thế Phong chủ trương.
(4) Huy Trâm / Nguyễn Hồng Nhuận Tam sinh năm 1937 tại Miền Bắc Việt Nam - - (Có tài liệu ghi sinh năm 1936, tại Thái Bình). Ông là cựu học sinh các trường Trung Học Nguyễn Trãi, Hà Nội, và Khải Định Huế, bắt đầu viết văn từ năm 1954 trên Tạp Chí Đời Mới (Sài Gòn); sau đó là Bách Khoa, Thời Nay, Bông Lúa, Văn Học... Ông được trao giải văn chương toàn quốc năm 1969 với tác phẩm NHCN. Mặt khác, ông cũng là người sáng lập và là Nhạc trưởng chương trình Nhạc chủ đề trên Đài Truyền Hình Việt Nam (1971-1973). Về nghề nghiệp chuyên môn, ông là Thẩm phán công tố.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông bị tù cải tạo 7 năm, sau đó, ông lại bị giam giữ thêm 3 năm vì lý do chính trị. Họ Nguyễn đến Hoa Kỳ cuối năm 1991; hiện cư trú tại Quận Cam, nam California; đã xuất bản 30 tác phẩm đủ loại. Thêm một chi tiết có dễ ít người biết: Huy Trâm / Nguyễn Hồng Nhuận Tam là nội-điệt (cháu nội) của cụ Phó bảng Nông Sơn Nguyễn Can Mộng, nguyên giáo sư ĐH Văn Khoa, Hà Nội, trước di cư 1954. Ngoài ra, cụ cũng mở lớp dạy Cổ sử năm 1950, ở phía sau đền Ngọc sơn (Hồ Hoàn Kiếm). Sinh viên của cụ gồm rất nhiều nhân vật tên tuổi thời đó. Một trong những bài thơ nổi tiếng của cụ Nông Sơn / Nguyễn Mộng Can là bài “Hồng lâu nhất dạ oán” - -
Có những câu như: “Đêm qua đang lúc sáu giờ / em ngồi tựa cửa, em chờ đợi ai / Bẩy giờ đứng tựa hiên mai / Ngọn đèn thấp thoáng bóng người xa xa / Tám giờ lặng ngắm tố nga / Xuân bao nhiêu tuổi, xuân già hỡi xuân / Chín giờ dạo gót qua sân / Trời cao đất rộng xót thân giang hồ…” Đồng thời cụ cũng có thi tập “Bắc phương lòng son”, viết về chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu, XB năm 1950…