(Tiếp theo và hết)
Đọc tiếp bút ký viết về nhà văn / nhà thơ Phùng Cung của Nam Dao, độc giả sẽ càng thấy rõ hơn, dù chết oan khuất, nhưng ở một góc nào đó, họ Phùng vẫn nhận được những bày tỏ, ngưỡng mộ vàng mười của bằng hữu. Nhất là của người bạn đời!.!
Tôi vẫn nghĩ, với những tài hoa ngoại khổ, thượng đế thường đem đến cho họ những người bạn đời xứng-hợp. Tôi muốn gọi đó là một tặng-phẩm- từ- trời:
“Lần cuối về Hà Nội, tôi đến thăm anh Hoàng cầm và báo tin Phùng Hà Phủ đã qua đời. Phủ đi làm về, ghé quán uống bia với bạn, bỗng ngật người đi hôn mê, đưa vào cấp cứu nhưng không qua được bàn tay tử thần. Rủ nhau xuống chia buồn với chị Thoa, nhưng mấy ngày sau anh Cầm lại bị ngã gẫy xương chậu, nằm bẹp. Thế là chịu. Thôi thì cứ ngày ngày đến chia sẻ với anh Cầm, mong anh có được chút niềm vui trong những ngày nằm bệnh. Chuyện trò, anh lại kể: Con người Phùng Cung là con người của những thái cực. Xưa, Trần Dần nhận biết anh ấy là loại tử vì đạo, im lặng thì có nhưng đầu hàng thì không. Một vai, anh ấy âm thầm gánh cái nặng của anh em, giọng ‘kiểm thảo’ vẫn cứ ngoan cố, lơ lửng, đúng theo kiểu ‘cao đầu phóng vĩ’ của một con ngựa chiến không chịu thành gia súc cho nhà Chúa.”
Sau đó, thi sĩ Hoàng Cầm kể Nam Dao nghe, vài chi tiết thôi, về người bạn đời của tác giả ‘Con ngựa già của Chúa Trịnh’ - - Nhưng cũng đủ cho thấy tình-nghĩa-kim-cương của bà dành cho người chồng ngoại khổ Phùng Cung:
“Khi anh ấy bị đưa đi quản thúc trên Bất Bạt, chị Thoa lên thăm nuôi, nhưng anh ấy nhất định không nhận chị Thoa là vợ, không cho chị Thoa nhìn mặt, trả lại tiếp tế và khăng khăng một mực là mình không còn liên hệ gì với thế giới bên ngoài. Lần đầu, chị khóc sướt mướt. Đành về, rồi ít lâu sau chị lại lên. Anh Cung vẫn thế. Quản giáo vặn, lý lịch anh khai là đã kết hôn, thế là khai man. Amh đáp, thời ấy Đảng không đồng ý cho tôi lấy vì cô ấy thuộc giai cấp phong kiến, mà tôi thì mê mẩn, mất lập trường giai cấp. Nay tôi tỉnh ngộ, nhận có chung sống ngày trước, nhưng bây giờ tôi xin chấp hành… Thế thì anh lợi dụng hủ hóa, thêm một tội, quản giáo gằn giọng. Ừ thì thêm một tội. Thêm một chứ mười, tôi cũng chịu… Chị Thoa lại về, để tiếp tế lại chia chác cho anh em tù. Và chị cứ lên. Anh tiếp tục ruồng rẫy . Ba lần, bốn lần…
“ Tôi thở dài, có lẽ anh Cung mong chị quên anh ấy đi, chứ đã mang cái án miệng là phản động, là chống Đảng, bôi bác lãnh đạo như anh ấy thì biết ngày nào ra. Vả lại, chị Thoa khi ấy còn trẻ… Anh Cầm chép miệng, chắc vậy. Nhưng chị Thoa vẫn cứ đều đặn lên thăm nuôi, cho đến một ngày, hơn hai năm sau, hai vợ chồng mới lại nhìn nhau… Và chị Thoa sống cảnh chia ly như vậy suốt 12 năm đằng đẵng!”
Về cõi-giới thi ca Phùng Cung, Nam Dao cũng ghi lại cảm nhận của thi sĩ Hoàng Cầm như sau:
“Tại sao? Tôi muốn hỏi lại, một lần cuối, tại sao? Đọc ‘Xóm Đêm’, (10 ) tôi nói với anh Cầm, tôi chưa hề thấy mang thù hận vào thơ. Anh buồn và xót xa. Nhưng anh vẫn nhân hậu. Anh vẫn trong trẻo. Thậm chí độ lượng. Anh Cầm giơ tay xoa mặt, mắt đờ dẫn nhìn vào khoảng không choãi về phía nơi quá khứ còn nương náu. Tại sao ư? Đó là câu chuyện của những con ngựa cung đình. Chúng không thể để dăm con ngựa chiến tồn tại để phủ nhận chính chúng. Còn Vua Chúa, thói thường là họ yên tâm với những con ngựa đã thuần, leo lên lưng, ra roi, nắm bờm và chờ tiếng hí đã rập khuôn rắp mẫu sẵn. Nhưng có hoạn nạn thì Cung mới có thơ hay như vậy! Anh cười, thế là bội thu đấy. Anh tiếp tục cười, nhưng tôi nghe có gì như tiếng nấc ừng ực…
“Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, thực lòng tôi chưa bao giờ quan tâm tới cái thuyết Tài Mệnh tương đố, bảo Cung có tài nên trời xanh đánh ghen với má hồng đánh ghen. Tôi cho rằng Phùng Cung trả giá chẳng phải vì anh thâm thù chuyện cha anh bị đấu tố mà hóa ra ‘chống phá cách mạng’. Tôi tin Phùng Cung trả giá chỉ vì anh níu giọt mồ hôi Mẹ, đứng dạy Làm Người. Và ở cái tư thế làm người, anh không muốn nhìn một chiều kiểu con ngựa cung đình có hai chiếc lá chắn che mắt, chỉ thấy con đường ta đi nhỏ bé trước mặt, thẳng tắp cho đến độ màu xanh da trời cũng thẳng. Vì thế, anh không đành tâm để Vua Chúa cưỡi lên lưng khiến anh làm con ngựa tôi đòi. Anh chẳng thể cuống cuồng nhai danh vọng trộn với thóc và mật ngọt trước khi chạy những vòng đua nịnh hót. Và anh lại chẳng như Hữu Loan xuôi ra Thanh Hóa, như Nguyên Hồng bỏ lên Bắc Giang, đi cho khuất mắt những con ngựa cung đình rắp ranh bổng lộc. Anh sờ sờ ở Hà Nội, nơi ngựa cung đình nhởn nhơ nhưng chưa an tâm. Đợi dịp, chúng xúm lại, hóa thân thành giống biết sủa biết cắn và biết đẩy anh vào cái thân phận tội đồ.
“Trong tù, anh chỉ còn thơ. Và trăng.
“ ‘Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh
Sững sờ
Trên vai áo tù
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ.’ ”
.
Qua phần hai của Bút Ký Nam Dao, như đã nói, hơn 100 trang sách in, là một bút ký chen lẫn tự sự kể. Nó tựa bản “tự kiểm” chân thật tới mủi lòng của Nguyễn.
Nếu phần 1, tựa đề “Những con người”, như một thứ đàn tràng trên giấy, giải oan cho một số văn nghệ sĩ chết trong oan khuất - - Thì phần hai, tuy tựa đề “Những bóng ma”, nhưng với tôi, nó lại như thứ “kinh cầu”, khẩn xin bình minh sớm trở về với đất nước.
Tôi không thấy cần trích ít, nhiều phần “tự kiểm” của Nam Dao, mà nghĩ: Nên dành ưu tiên cho độc giả của Nguyễn.
Trước khi chấm dứt bài viết ngắn này, tôi chỉ xin ghi lại những dòng chữ cuối cùng của Bút Ký Nam Dao, gửi 2 người bạn trẻ, ông gặp giữa quê nhà là Bình Minh và Hoàng Oanh:
“… Điều tôi muốn nói để trả món nợ với tuổi trẻ hai em là chưa muộn nếu chúng ta lên đường từ một quá khứ cùng hiểu ra để tránh được những bước hững chân mai sau. Và dù thế nào chúng ta cũng phải đi. Chỉ xin được đi với những bước vững chắc, với ý thức tìm về quê quán là con người, ở cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Như những đứa con nhân loại, chúng ta còn sẽ vượt qua sa mạc, vượt qua núi cao, vượt qua đại dương. Trên bước đường trong mênh mông, chúng ta đang cần chút nước cho một hành trình mà đích đến còn ở trước mặt. Những thiệt thời trong quá khứ đã đủ lớn nên ta không thể để cả một giống nòi bị hụt hơi vì vô vọng.
“Và mỗi bước đi của tôi, tôi sẽ ngước lên chào bình minh, đợi tiếng hoàng oanh hót cho mặt trời lên, để nắng vào lòng, ngước mặt nhìn mặt trời thật sáng.”
.
Bút Ký Nam Dao / Nguyễn Mạnh Hùng khép lại với bình minh, tiếng chim hót; mặt trời lên…, tự thân đã là những tia nắng hy vọng (có phần ngậm ngùi) của trái tim nhà văn, dù ở đâu, thế nào, cũng không thể không đập cùng nhịp với trái tim tổ quốc.
Du Tử Lê,
(Nov. 2016)
________
Chú thích:
(10) “Xóm Đêm” tựa đề một tập thơ của Phùng Cung (chú thích của người viết bài này).