VĨNH THÔNG - Xứ Bảy Núi

19 Tháng Tám 20199:32 SA(Xem: 3123)
VĨNH THÔNG - Xứ Bảy Núi

Trên những trang văn của tôi viết thỉnh thoảng lại xuất hiện một xứ núi, hoặc ít ra cũng là hơi hướm núi, gần gũi mà bí ẩn, thân thương mà hoang dại. Nơi đó, hàng trăm năm trước chỉ là cụm đảo buồn tênh giữa bạt ngàn biển cả. Nơi đó, một mùa nắng rát mặt người, một mùa nước rướn mình trờ tới gần chân núi. Người ta gọi là Bảy Núi, văn vẻ là Thất Sơn.

Thật ra không chỉ có bảy, người địa phương dễ dàng kể tên núi nhiều hơn con số nầy. Khi các nhà nghiên cứu thống kê, thì kết quả thu về lớn hơn số bảy rất nhiều lần. Chính xác là đến nay ở An Giang đã có 37 ngọn núi đã có tên. Nhưng ở đâu có con số bảy vẫn chưa có lời giải thích thỏa đáng.

Liệt kê núi nơi đây trước hết là “Gia Định thành thông chí” đầu triều Nguyễn, kể tên 18 núi và chưa có khái niệm Thất Sơn. Đến “Đại Nam nhứt thống chí” đời Tự Đức, kể tên 23 núi, trong đó xuất hiện khái niệm Thất Sơn gồm: núi Tượng, Tô, Cấm, Ốc Nhâm, Nam Vi, Tà Biệt, Nhân Hòa. Những cái tên lạ, nhưng sách lại không nói chọn bảy núi đó với ý nghĩa gì, xét theo tiêu chí nào…

Ngoài ra, trong dân gian cũng tồn tại một khái niệm Bảy Núi khác với sử sách. Năm 1849, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời, rao giảng thuyết Tận thế, vùng Thất Sơn là nơi lập Hội Long Hoa. Bảy ngọn núi thiêng gồm: núi Cấm (Thiên Cẩm Sơn), Núi Dài (Ngọa Long Sơn), núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn), Núi Két (Anh Vũ Sơn), Núi Tô (Phụng Hoàng Sơn), Núi Tượng (Liên Hoa Sơn), Núi Nước (Thủy Đài Sơn). Không phải mê tín dị đoan, thực ra đây là tiền đề chấn hưng Phật giáo, sự sáng tạo riêng của tôn giáo nầy. Rao giảng mở Hội Long Hoa tại Thất Sơn gom dân về khai phá vùng xa xôi hẻo lánh để canh tác - một kiểu dinh điền thời đại mới.

Bạn phương xa hỏi xứ Bảy Núi ra sao, có gì?

Làm sao có thể kể hết đây, có những điều tưởng như bình thường thôi trong mắt người khác, đôi khi lại là điều đặc biệt với dân xứ núi. Chẳng phải thế kỷ trước, Nguyễn Liên Phong khi viết “Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” cũng đã không thể giới thiệu đầy đủ về xứ nầy đó sao:

“Thất Sơn, hòn dọc dãy ngang
Nói sao cho hết cả ngàn phong cương”

Tịnh Biên - Tri Tôn là những vùng đất cổ với địa hình bán sơn địa, vừa núi vừa đồng bằng. Mỗi ngọn núi chỉ dài vài cây số, cao vài trăm mét, chưa là gì so với núi ở miền Trung hay miền Bắc. Núi ở đây cũng không nằm trên cao nguyên mà cô độc giữa đồng ruộng, không kết thành dãy mà từng trái núi nằm riêng rẻ. Vùng núi quanh năm chỉ có nắng, cát, đá, cây thốt lốt, người Kinh và người Khmer sinh sống… vậy thôi!

Chỉ vậy thôi có gì đặc biệt đâu, xứ núi dĩ nhiên chỗ nào… cũng núi! Núi trước mặt, núi sau lưng, liếc bên trái gặp núi, quay sang bên phải lại đụng núi. Núi la liệt núi, như những cái tô xanh ngăn ngắt nằm im lìm giữa một màu vàng rượm đồng lúa. Mở mắt dậy, cái nhìn thấy đầu tiên đã là núi. Những trái núi nhỏ thôi, nhưng đã che chắn cho biết bao thế hệ qua bom đạn chiến tranh, thiên tai, bão lụt, và qua bao thăng trầm của nhân thế. Núi trầm mặc như chứng nhân lịch sử cho mảnh đất nầy, như người bạn già lặng lẽ của dân xứ nầy.

Nắng là điều đầu tiên phải kể khi nói về Bảy Núi. Nắng An Giang khiến dân gian đúc kết thành câu: “Sáu tháng đạp đất đồng khô, nửa năm đi trên mặt nước”. Nắng cong cớn như thiêu đốt, nhiệt độ lúc nào cũng cao hơn những vùng lân cận. Mùa nắng, toàn cõi Bảy Núi không còn màu xanh lục mê đắm của rừng mà phủ lên mình màu vàng nâu xác xơ: màu cây khô. Vậy mà, bao lớp người đã nung người dưới cái nắng đó từ ba trăm năm trước, thậm chí có thể xa hơn nữa!

Nói tới núi thì chỉ toàn cát đá thôi. Cát đá ven đường, quanh nhà, quanh vườn tược. Màu trắng vàng mịn phẳng phiu cứ trở đi trở lại suốt đoạn đường qua Thất Sơn, khiến những người từng đi du lịch nhiều nơi có thể sẽ tưởng tượng rằng một góc Ninh Thuận đã được ai đó mang về xứ biên thùy cuối đất cùng trời nầy.

Những đứa trẻ lớn lên ở xứ Bảy Núi cũng không có gì đặc biệt đâu! Chúng đen nhẻm, gầy gò, từ nhỏ chỉ quen leo dốc. Có đứa mười tuổi đã biết gánh đôi quang gánh đầy ứ lên độ cao năm sáu trăm mét rồi gánh xuống, độ dài đường đi mỗi lần lên hoặc xuống khoảng bảy cây số! Người khác nghe chuyện có thể khó tin, nhưng nó rất thật, diễn ra hằng ngày tại xứ nầy. Chơi bắt rượt, chúng cũng chạy lên xuống dốc chứ không phải đất bằng. Có đặc biệt gì đâu, ngay cả niềm vui tuổi thơ mà cũng chao nghiêng!

Ở xứ nầy người Kinh và người Khmer đã cộng cư từ bao đời kiếp. Hai tộc người sống quay quần bên nhau không phân biệt, ít xung đột. Cũng chẳng có gì đặc biệt, bởi họ cùng làm ăn, buôn bán, học hành… rồi những đứa trẻ lớn lên lại cùng nhau chơi đùa với gió cát, có ai quan trọng màu da nước tóc bao giờ. Một vùng đất, hai tộc người, tuy hai mà một, bởi có thế hệ nào không sống và chết để vun đắp màu xanh cho mảnh đất cằn cỗi nầy ngày càng được thêm phần tốt tươi.

Sự cộng cư lâu đời đã tạo nên giao thoa, hòa hợp về ẩm thực, nếp sống, văn hóa… Trong đó phải kể đến mắm và khô - hai món ăn có “bề dầy lịch sử”. Vùng đất An Giang xưa vốn là vùng trũng linh binh nước nên có nhiều cá, bắt lên ăn không kịp hoặc bán không hết thì uổng, nên người ta đã phơi nắng để làm khô hoặc ủ trong lu để làm mắm. Cả hai phương thức bảo quản nầy đều cùng mục đích dành để ăn lâu ngày. Từ đó, món khô và mắm được ra đời từ đầu óc sáng tạo của ông bà xưa.

Mắm đi vào thơ ca, thành ngữ dân gian một cách tự nhiên. Tính chất mặn mòi của món ăn nầy như tình nghĩa mặn mòi của người miền Tây: “Ăn mắm thấm về lâu”. Mắm quá nhiều nên trở thành món ăn quen thuộc lặp đi lặp lại trong bữa cơm gia đình dù sang hay hèn: “Làm cho lắm cũng mắm kho cà, làm thấy bà cũng cà kho mắm”. Nhà thơ Trương Công Thuốt cũng từng viết những dòng thơ mộc mạc: “Ngần ấy, người Khmer dạy người Kinh ăn mắm / Thụt tre làm trúm / Bắt rắn bằng tay / Cất tha la dọc những đường làng / Người Kinh dạy người Khmer mặc quần hai ống, ở nhà sàn / Đi dưới gió cọp beo / Kết hôn với người họ xa / Bái tổ trước khi tung quyền”.

Mà, cần gì phân biệt đâu là nét văn hóa người Kinh hay người Khmer, dân Bảy Núi cứ thoải mái tự hào về những đặc trưng của vùng đất quê mình. Như cây thốt lốt bình dân, không cao sang đài cát, nhưng lại là loại cây đặc biệt với người xứ núi, ngày nay trở thành đặc sản số một của miền biên viễn Tây Nam.

Gọi “thốt lốt” hay “thốt nốt” đều đúng, nhưng nếu “thốt nốt” chỉ là danh từ trong sách báo, thì “thốt lốt” lại là hồn quê. Người An Giang hàng trăm năm qua và đến tận hôm nay luôn gọi là thốt lốt, nó không còn là một danh từ khô cứng mà đi vào tâm thức cộng đồng trở thành ký ức thân quen, gần gũi, nghe qua là biết quê mình.

Cây thốt lốt gần giống cây dừa, thân cao, lá xòe tán rộng. Trái thốt lốt vỏ màu tím sậm, nhỏ hơn trái dừa, kết thành chùm trên cây. Nếu ở miền sông, nước dừa là thứ nước nhiệt quen thuộc, thì thức uống quen thuộc ở miền núi là thốt lốt - ngọt và thơm hơn nước dừa. Đặc biệt, trái dừa có cả phần nước và phần cái, trong khi trái thốt lốt chỉ có múi chứ không có nước, mà nước được lấy từ cuống hoa. Người ta còn có thể sử dụng nước thốt lốt để làm đường thốt lốt, bánh bò thốt lốt…

Người Khmer còn góp cho xứ Thất Sơn món ăn truyền thống của cộng đồng mình là cốm dẹp, mà người Việt cũng rất ưa thích. Cốm được làm từ những loại nếp ngon tại địa phương, rang trong nồi đất rồi đem quết cho dẹp. Khi ăn người ta trộn với nước dừa và cái dừa đã nạo, để vài giờ cho cốm thấm và nở mềm thì ăn mới thơm ngon.

Rồi không biết từ khi nào và ai đã sáng tạo nên, người Khmer đã cùng người Kinh thi đấu đua bò sau khi kết thúc những vụ mùa vất vả. Để ngày nay nó trở thành một hội thi đặc biệt ở miền Nam, mỗi năm thu hút hàng vạn du khách đến xem, có cả người nước ngoài. Đua bò là ngày vui chung của người dân Bảy Núi, nhiều người mang cả thức ăn nấu ăn tại chỗ để xem cuộc đua được trọn vẹn, không khí trường đua lúc nào cũng tưng bừng với tiếng hò reo vang dậy bằng cả hai thứ tiếng Khmer và Việt.

Có lạ lẫm lắm không, khi thứ xe bình thường như xe ngựa cũng là điều đặc biệt ở Bảy Núi. Bởi nó đã tồn tại hơn trăm năm và có lẽ hiện nay cũng chỉ có nơi đây còn loại xe thô sơ mà đầy ấn tượng nầy. Làm sao không khỏi thích thú khi bắt gặp hình ảnh những chiếc xe ngựa chở hàng lỉnh kỉnh chạy trên đường. Tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng nhạc ngựa leng keng từ lâu đã trở thành đặc trưng của vùng núi đồi An Giang.

Những điều đó, không chỉ có người Khmer hay người Việt làm nên một xứ núi đặc sắc, mà còn sự đóng góp của biết bao con người. Một Thoại Ngọc Hầu mở đường kinh vun vút về Tây, một Nguyễn Tri Phương vừa chống giặc vừa khai hoang, một Đoàn Minh Huyên tận tụy cứu nhân độ thế, một Ngô Lợi lập làng kháng chiến lâu dài… Và còn những ai vô danh, như những người đã sáng tạo ra món bánh canh Vĩnh Trung, cháo bò Tri Tôn, canh chua lá giang… Họ đã âm thầm cống hiến để làm nên diện mạo vùng Thất Sơn ngày nay.

Xứ núi vậy đó, bình thường lắm, từ con người đến sinh hoạt đều rất đỗi giản đơn, chân tình. Vậy mà những điều bình thường đó lại làm nên sự tự hào. Làm sao không tự hào đây khi thiên nhiên khắc nghiệt đó, cuộc sống khó nhọc đó, đã nuôi lớn biết bao lớp người. Ngay cả họ cũng là những con người bình thường thôi! Không cao sang, không giàu có, không trí thức, một tay cầm giáo mác bảo vệ biên cương, tay kia cầm cuốc cày tạo ra hạt lúa. Họ không lưu lại tượng đài, đền miễu, suốt ba trăm qua chỉ chỉ để lại cho thế hệ con cháu mình bài học về sự tự lực, lòng nhân nghĩa, đạo thủy chung.
Cuối cùng thì tôi cứ vẫn loay hoay với câu hỏi “xứ núi đặc biệt không” khi đã kể ra bao nhiêu điều quá đỗi bình thường. Đặc biệt không? Vị tiên nhân nào đã ấn năm ngón tay mình xuống núi Dài Nhỏ để ngày nay còn “năm giếng nước trời” và tên gọi Ngũ Hồ sơn? Bàn tay tài hoa nào của thiên nhiên đã làm nên tảng đá khổng lồ và lộng lẫy trên triền núi Tô để ngày nay từng đoàn người rủ nhau hành hương vồ Hội? Ai đã chít dãy khăn mây hững hờ lên nóc nhà miền Tây để thành tên ngọn núi gấm trời?

Đặc biệt không, những khu chợ núi gập ghềnh trên đường đá, bồng bềnh trong mây, cứ như nhấp nha nhấp nhổm giữa lưng chừng. Chợ ít người, ít hàng, họp rồi tan trong chóng vánh, có gì đặc biệt đâu. Vậy mà khi đọc những câu thơ của nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, ai lại không khỏi bồi hồi:

“Chợ núi còn trăm thứ gập ghềnh
Ngàn gió giông làm bạt lều sấp ngửa
Nhưng tôi biết có điều hiếm có
Chợ không người sấp ngửa bán buôn”.

Những người con lập nghiệp phương xa, mang theo cả mùi mồ hôi khét lẹt trong nắng của sơn dân, mùi mắm mùi khô hăng hắc chốn biên thùy hay hương cốm dẹp trộn dừa thơm lừng và béo ngậy. Họ mang theo tiếng hò reo vồn vã ngày hội đua bò, tiếng xe ngựa lộp cộp trên đường hay tiếng cười đùa từ những trò chơi ấu thơ trên vồ đá gập ghềnh. Và còn gì nữa? Là tình đất tình người xứ núi, mộc mạc như cát đá mà bền chặt như cây rừng. Phải chăng những điều bình thường đó lại trở thành thứ đặc biệt trong lòng kẻ đi xa?

An Giang, 9/2015
VĨNH THÔNG

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
12 Tháng Ba 20231:11 CH(Xem: 73)
Khải nói qua điện thoại, từng chữ một nhả chậm.
23 Tháng Hai 202310:06 SA(Xem: 354)
Ừ! Nó phải trở lại thôi. Nợ trần chưa dứt. Cõi nhân gian đang đợi nó về...
07 Tháng Hai 20239:28 SA(Xem: 241)
Và cuối cùng sau một tuần dò la, săn đón, sáu Liên nhờ hai cô gái là Huế và Nhạn, đã dụ được Thơm để làm mồi tế thần cho ông Phiêu.
04 Tháng Hai 20231:37 CH(Xem: 410)
Cô ngước nhìn mảnh trăng trên đồi, nghe như trăng đang thầm thì kể chuyện
26 Tháng Giêng 202310:52 SA(Xem: 220)
Trên vách tường bóng cha cúi xuống, tiếng đàn bầu lại rung lên trong đêm, khắc khoải, đợi chờ...
23 Tháng Giêng 202310:45 SA(Xem: 190)
Hãy nhìn dương thế của chúng ta mà xem. Thật đáng tởm.
22 Tháng Giêng 202312:20 CH(Xem: 163)
Sau hơn sáu mươi năm, kể lại chuyện xưa, tôi chỉ còn biết mỉm cười!
11 Tháng Giêng 20239:04 SA(Xem: 301)
Tôi thầm gọi: Hoàng Sa ơi, hẹn ngày về lại Hoàng Sa!
22 Tháng Mười Hai 20224:19 CH(Xem: 275)
Đêm chùng như võng. Chị một mình trong căn buồng lạnh ngắt, chiếc áo anh treo trên móc chị cố tình không giặt, vậy mà đến nó cũng chẳng giữ được mùi anh.
20 Tháng Mười Hai 20225:34 CH(Xem: 220)
Người đến trước thất vọng ra về trước, người đến sau thất vọng ra về sau. "Tìm cái này" là cái gì thì không ai biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn lắm
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 7605)
Người đầu tiên hăm hở xắn tay áo, bước vào lãnh vực xuất bản, giai đoạn sơ khai, là ông Đỗ Ngọc Tùng, nhà Đại Nam
(Xem: 8601)
Tôi không rõ thời gian ở VN trước tháng 4-1975, nhà báo Ngọc Hoài Phương có làm thơ nhiều không?
(Xem: 18097)
Nếu không kể những nhà xuất bản chuyên nghiệp như nhà Sống Mới, Khai Trí, Đồng Nai, Nguyễn Đình Vượng, hay Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn, Trí Đăng…thì, những nhà xuất bản được điều hành bởi các nhà văn, nhà thơ cũng đã tạo được ít, nhiều tiếng.
(Xem: 5804)
Trong sinh hoạt âm nhạc tại miền nam VN, 20 năm (1954-1975) rất nhiều người biết tên tuổi nhạc sĩ Ngọc Chánh.
(Xem: 8361)
Họ Phạm còn được nhìn nhận là người khai sáng môn Thể dục Khí công Hoàng Hạc, ở miền nam California.
(Xem: 4548)
Ông chọn làm chiếc lá thu đầu tiên bay vào không gian mùa Thu tuyệt đẹp vừa chớm ở Cali.
(Xem: 194)
Thơ Du Tử Lê sang trọng, giàu hình tượng, điển tích cùng với mối liên tưởng phong phú đi sâu vào tầng lớp sinh viên, trí thức.
(Xem: 9914)
Du Tử Lê, quả nhiên vẫn là một nhà thơ hiếm hoi. Anh vẫn một mình một cõi. Đó là một điều đặc biệt. Và đối với một thi sĩ, thì đó là một sự thành công.
(Xem: 10073)
“Ngay sau khi gặp ông, tôi đã bước sang “chặng đường ngỡ ngàng.” Không ngỡ ngàng sao được khi mà đứng bên ông
(Xem: 4530)
Thi ca lan tỏa không chỉ trong từng ngóc ngách của căn nhà ông ở
(Xem: 15755)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 5591)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 5489)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 5902)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 6094)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 26406)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 18275)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 21588)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 19568)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 18035)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 15451)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 14563)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 14752)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 13777)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 13531)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 20655)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 27832)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 32097)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,