Tôi vẫn quan niệm một trong những thước đo tài năng của một nhà văn là, tính điềm tĩnh nếu không muốn nói là có phần lạnh lùng của ngòi bút, qua những trang văn xuôi của họ. Nhiều nhà văn của chúng ta, khi sáng tác tiểu thuyết mang tính hư cấu, thường rơi vào tình trạng mất kiểm soát, tác giả để những xung động tình cảm của họ chảy, trôi, chan hòa theo những nhân vật mà họ yêu hay ghét. Sự kiện này, khiến độc giả bị cuốn theo những xung động tình cảm mang nhiều chất “cao trào” ấy. Nhưng mặt khác, nó cũng mang tới cho những độc giả khó tính, sự dễ dàng nhận ra quá nhiều son, phấn câu truyện.
Ngược lại, theo tôi, cũng có một số ít nhà văn điềm tĩnh tới mức độ lạnh lùng, với nhiều dữ kiện lấy từ hiện thực xã hội, khiến độc giả thấy tác phẩm đó, như một thứ hồi ký hay, bán hồi ký. Từ tính chất điềm tĩnh, lạnh lùng trong tiến trình hình thành tác phẩm, một số tác giả khác, lại còn cho thấy chủ tâm tiết giảm tối đa việc sử dụng tĩnh tự - - Một khía cạnh nói lên sự giầu có đặc biệt của ngôn ngữ Việt. Sự tiết giảm việc khai thác tĩnh từ, không làm “giá đỡ” cho những trang văn chương lãng mạn quá đà, đôi khi đã cho người đọc cái khí hậu “khô rang”, tới độ như đã làm vàng, cong những trang sách của họ.
Tiêu biểu cho trường hợp vừa kể là tiểu thuyết “Những ghi chép ở tầng thứ # 14” (NGCOTT # 14) của nhà văn Thận Nhiên, do nhà xuất bản Văn Học ở miền nam Cali ấn hành, mới đây.
Trong “Lời tựa” trước khi bước vào tác phẩm NGCOTT #14, tác giả bộc bạch rằng, ông viết tiểu thuyết này vào năm 2014. Thời gian ông sống ở căn hộ tầng 14, một chúng cư ở huyện Bình Chánh Sài Gòn. Đó là cuốn tiểu thuyết thứ ba đã hoàn tất, trên lộ trình văn chương của ông.
Ông viết:
“… Tìm lại căn cước của mình, dấu vết của lịch sử và quê hương là ám ảnh khắc khoải của người di dân. Cuốn tiểu thuyết này là về một người trẻ tuổi, sanh ra và lớn lên ở Mỹ, muốn giải tỏa những ám ảnh đó bằng một chuyến đi tìm lại cội nguồn…”
Tác giả xác nhận rằng, ông không có ý muốn tái tạo lại sự thật, thậm chí ngược lại vậy. Mà, đây là một tác phẩm hư cấu được dựa trên một số chi tiết trong đời thật, gồm 15 chương, nếu tách riêng, mỗi chương có thể được đọc như một truyện ngắn, và tất cả được sắp đặt với ý đồ kết nối thành một tiểu thuyết. Ông giải thích:
“Cấu-trúc-tiểu-thuyết-có-thể-tách-rời-thành-nhiều-truyện-ngắn là hệ quả của ý định cho nó xuất hiện trên trang mạng thay vì in thành sách…”
Tuy nhiên, như đã nói, mỗi tác phẩm văn chương, dù thuộc thể loại nào, tự thân, khi ra đời, nó đã mặc nhiên có cho chính nó một “định mệnh” bất khả chuyển, nào đấy.
Cũng vậy, Thận Nhiên kể, sau khi ông cho đăng NGCOTT # 14 trên website Tiền Vệ, ông sửa chữa một vài chi tiết rồi cho đăng từng chương trong Facebook. Ông nói, không mấy ai post tiểu thuyết trên Facebook, vì nó vừa bất tiện cho người đọc, nó lại quá dài để theo dõi, vừa bất công cho người viết.
“Bất công vì cặm cụi viết hàng mấy tháng trời mới xong một bản thảo, để rồi khi post lên thì nó không sống được quá hai ngày rồi bị hàng ngàn thông tin khác đè lên, chôn lấp.” Thận Nhiên nhấn mạnh.
Nhưng may mắn, cuối cùng định mệnh đã nở một nụ cười hân hoan, chào đón cuốn tiểu thuyết mới của Thận Nhiên. Đó là khi tác phẩm NGCOTT # 14 lọt vào mắt xanh của nhà văn Ngô Thị Kim Cúc. Bà cho đăng lên website Văn Việt và đề cử dự giải văn xuôi của Văn Việt năm 2018. Tác phẩm đã đoạt giải...
Chương sách đầu tiên của NGCOTT # 14, tiểu đề “Dấu vết cội nguồn”, được mở vào bằng đoạn văn:
“Sài Gòn là thành phố có nhiều ma nhất trên thế giới. Nó có nhiều ma hơn mọi thành phố có nạn diệt chủng ở châu Phi. Nó có nhiều ma hơn thành phố chết Nam Vang trong thời diệt chủng. Nó có nhiều ma hơn cả hai thành phố bị hủy diệt bởi bom nguyên tử vào cuối thế chiến thứ hai ở Nhật cộng lại. Nói đúng ra thì nó có nhiều ma hơn tất cả các thành phố trên thế giới.” (NGCOTT # 14, trang 9).
Không cần phải nói việc ghi nhận thành phố Sài Gòn, một thời từng được phong tặng là “hòn ngọc Viễn đông”, vốn chưa có một tác giả cũ, mới nào, cho nó cái ví von bất ngờ là, thành phố có nhiều ma hơn tất cả các thành phố trên thế giới, cộng lại. Chỉ nội việc ví von Sài Gòn có nhiều ma nhất thế giới, đã cho thấy cái ẩn dụ sắc, lạnh của tác giả, một người trẻ, sinh ra và lớn lên ở quê người, trở lại quê hương nguyên gốc, tìm lại “căn cước” của mình qua “dấu vết của lịch sử và quê hương” vốn là ám ảnh, khắc khoải của một di dân!
Trước khi cho thấy những gì tác giả tìm được trong chuyến trở về Sài Gòn, nhà văn Thận Nhiên giới thiệu qua gia cảnh của gia đình ông những năm đầu ở Mỹ. Đó là kỹ thuật dùng bệ phóng hiện tại để đưa quá khứ ra tiền trường sân khấu thực tế phũ phàng đời thường của thế hệ di dân đời thứ nhất ở nước Mỹ, với:
“…Nếu hình dung quốc tịch là cái mỏ neo để neo thân phận con người như neo con tàu thì cha tôi là con tàu bị trôi dạt mãi và sẽ đắm trong nay mai vì mỗi ngày bị nước tràn vào một ít. Tới giờ, sau nhiều năm ở Mỹ, ông vẫn không nói được tiếng Anh suông sẻ tuy rằng ông sống bằng nhiều nghề, đi và ở nhiều nơi trên nước Mỹ hơn hơn phần đông những người Mỹ bình thường. Ông lái xe rất giỏi, chưa bao giờ ông gây tai nạn hay bị cảnh sát phạt vì bất cứ lỗi gì, nhưng ông không có bằng lái vì, theo lời ông, ông đã thi trượt 37 lần phần thi lý thuyết. Ông là một nhà thơ, một nhà thơ thất bại như hàng triệu triệu nhà thơ thất bại của nhân loại từ xưa đến nay, tất nhiên, ông chỉ làm thơ bằng tiếng Việt...” (NGCOTT # 14, trang 10)
Tới đây, tác giả đã giới thiệu một cách lạnh lùng một trong những sắc thái đặc thù của người Việt là “truyền thống” làm thơ. Nhưng một mặt nào khác, nó cũng cho thấy tính giễu nhại của ông, không chỉ thấy trong đoạn văn vừa trích dẫn mà, tràn ngập rất nhiều nơi ở các trang sách kế tiếp.
Trong khi đó, bà mẹ của nhân vật chính, xưng “tôi” trong tác phẩm, thì sao? Thận Nhiên mô tả:
“Mẹ tôi là một thương gia khá thành công, bà buôn bán với cả người Mỹ gốc Việt lẫn người Mỹ không phải gốc Việt. Bà bảo với tôi là bà đã lấy được bằng tiến sĩ về một ngành tương tợ như khí động học hay nhân chủng học gì đó (…) Cha mẹ tôi ly dị từ 13 năm trước và tôi sống với mẹ từ đó. Cha tôi, sau khi kiếm sống ở nhiều tiểu bang khác nhau, dọn về sống không xa thành phố chúng tôi ở. Ông thường ghé đón tôi về nhà ông chơi. Kỳ lạ là cả hai cha mẹ tôi ai cũng sống một mình, thỉnh thoảng họ có bạn trai hay bạn gái nhưng không sống chung với ai nữa. Cha tôi thường thu xếp cho các cô bồ của ông không có mặt ở nhà mỗi khi ông đón tôi về. Hai cô người Việt, một cô người Mễ, một cô người Lào, hai cô da đen và một cô da trắng. Tôi nghĩ tôi kể còn sót vài cô những khi cha tôi dời đi qua tiểu bang khác sống. Có lần cha tôi nói con cu của ông giống như cây gậy của thằng mù, đụng đâu ông chọt đó, vậy mà chưa có lần nào ông dính luôn…” (NGCOTT#14, trang 10, 11)
(Kỳ sau tiếp)