Trầm Phục Khắc là bút hiệu của Đoàn Minh Đức. Nếu không để ý, có thể nhiều người không biết rằng họ Đoàn chính là người đã đứng ra thực hiện thi phẩm “Thơ Ở Đâu Xa” của Thanh Tâm Tuyền, xuất bản năm 1990 tại Hoa Kỳ, theo yêu cầu của nhà văn Mai Thảo.
Ở thời điểm đó, tác giả “Tôi không còn cô độc”, mới định cư tại tiểu bang Minnesota. Ông cho người bạn thân của ông là cố nhà văn Mai Thảo biết, ông muốn phổ biến ở hải ngoại những bài thơ làm trong tù. Để cụ thể hóa nhu cầu tinh thần của một trong những sáng lập viên tạp chí Sáng Tạo, sinh thời, tác giả “Tháng Giêng Cỏ Non” đã ngỏ ý với nhà thơ Trầm Phục Khắc. Và, họ Đoàn đã hân hoan nhận lời.
Tuy nhiên, bản chất của nhà thơ Trầm Phục Khắc, lại là người, ít xuất hiện trong sinh hoạt văn chương ở miền Nam Cali. Nhiều năm sau, chính xác là tới năm 2016, do khuyến khích của một số bằng hữu, họ Đoàn mới cho in thi phẩm đầu tay “Bói Mộng” của mình.
Trong “Lời tựa” trước khi bước vào “Bói Mộng”, với tiểu đề “Những dòng thơ lặng lẽ của Trầm Phục Khắc’, nhà thơ Phan Tấn Hải viết:
“Anh là một người lặng lẽ trong đời. Anh kiệm lời trong đời thường, và cả trong thơ. Bất kể như thế, những dòng thơ của Trầm Phục Khắc trên các tạp chí văn học vẫn là một hiện diện độc đáo. Anh xuất hiện thường là với những bài thơ ngắn.
“Tôi thường tự hỏi, Trầm Phục Khắc có phải làm một nhà thơ ưa sự tịch lặng của vô ngôn, của một người nhìn thế gian này và bất giác phải lên tiếng với những lời rất kiệm lời?
Giải thích cho nhận xét như những nét phác chân dung tác giả “Bói Mộng”, họ Phan viết tiếp:
“Đọc thơ Trầm Phục Khắc, tôi thấy như anh sau nhiều năm tịch lặng ngồi bên dòng sông mênh mang của đời trôi chảy không ngừng trước mắt, đã gom chữ lại, xếp bài thơ như những chiếc thuyền giấy và thả trôi vào dòng sông sinh tử. Các chữ trong thơ là những mảnh hồn của anh, chữ của tịch lặng, chữ của những rung động với từng đợt gió mùa sang… (Bói Mộng, trang 7 & 8)
Như nhận định của Phan Tấn Hải, “những chiếc thuyền giấy” thi ca của họ Đoàn nổi trôi qua rất nhiều thể dạng thơ từ lục bát, tới năm, bảy, tám chữ… Thậm chí với cả dạng thơ Tân hình thức (còn được gọi là “thơ vắt dòng”, do nhà thơ Khế Iêm, một bằng hữu của họ Đoàn cổ súy:
“hàng sao đứng ngó đêm
tàn
hú lên múa gió, buồm
căng vật vã
thương
gia
chuyến hàng thua, lỡ
anh
chỉ còn anh
xốc lên vai mảnh ván lạ
sương, đèn, sông, bến
gõ
bát ngát hỏi đường qua
(“Ăn Đất”, Bói Mộng, trang 17)
Hoặc:
“… chuyến xe lăn đổ rặng cây dừa
lời tình tự như một lưỡi cưa
nằm đây nghe đất trời dang dở
quỷ một bàn tay quỷ gió mưa…”
(Trích “Cuồng Nở”, Bói Mộng, trang22)
Hoặc:
“Ra đi như cơn giông
Trên bàn tay chớp giật
Ôm trời đất vào trong
Cõi hồn cho gió lộng”
(“Hè Muộn”, Bói Mộng, trang 31)
Hoặc nữa:
“Đêm vô tâm tiếng rủa thầm
Thơ ngây xuống ngực, ôm chầm lớn khôn
Tuổi bình minh, tóc hoàng hôn
Hé môi ói mộng lên hồn vú ai”
(“Lên Hồn”, Bói Mộng, trang 33)
Hoặc nữa:
“Người đàn bà ngủ với vầng trăng
và bắt đầu lẫn lộn không biết
mình đang ở điểm nào trên đường
chân trời con đường mờ ảo nối
từ tuổi thanh xuân đến chiếc giường
trong dưỡng viện người đàn bà đi
ngược con đường và gặp lại tiếng
hát của một thời mình ngân nga…
(Trích “Chân Trời”, Bói Mộng, trang 56)
Nhiều người từng đọc thơ Trầm Phục Khắc, cho rằng chủ tâm của họ Đoàn là nỗ lực viết xuống những câu thơ với nhiều liên ảnh khó hiểu, nếu không muốn nói là chính tác giả cũng không hiểu mình muốn nói gì hay tại sao, những dòng thơ ấy? Phải chăng vì họ Đoàn muốn cho cõi thơ của mình những so sánh, liên tưởng khác hơn thơ của người đồng thời với ông, cho nên chúng đã rơi vào thế giới khô cằn cảm xúc thực?
Theo tôi, thơ Trầm Phục Khắc là kết quả của những cảm nhận vô thức. Những xao xuyến trừu tượng, siêu hình mà, lãnh vực thi ca cho phép người làm thơ được hiển lộng những rung động lạ lẫm ấy.
Với tôi, bên cạnh những bài thơ mà, độc giả cho là khó hiểu hay… dị ứng thì, tôi lại rất hân hoan với hầu hết những bài thơ họ Đoàn viết theo thể lục bát.
Những bài lục bát ấy, vẫn là phong cách cá biệt của dòng thơ Trầm Phục Khắc, nhưng nó lại cho thấy một chiều sâu nhân-sinh nào đó. Chẳng hạn:
“Lúa lên đồng lúa lên đồng
Trăng rơi kín bãi xương trồng một sân
Bón nhau đọt lá chẳng ngừng
Lũ sâu bói mộng, cây bừng trổ hoa
Nguyễn ơi nhân loại khóc òa
Chúng ta hãy hát bài ca cuối cùng
Còn đây lá nõn chưa từng
Bốn phương đảo hiện một rừng chim bay”
(“Đảo Hiện”, Bói Mộng, trang 24)
Hoặc:
“Hoa vàng chỉ một hoa vàng
Mây cuồng nộ gió ngang tàng đến đâu
Đời buồn lên lá phai nâu
Nhớ em chết bỏ bên cầu lại đi.”
(“Đôi Mươi”, Bói Mộng, trang 27)
Hoặc:
“Nằm nghe gió mấy đêm nay
Gã về còn đủ mặt mày hay không
Một tay cầm chặt nhành bông
Tay kia cuốc bẫm lên đồng việt nam.”
(“Lính mà em”, Bói Mộng, trang 34)
Hoặc nữa:
“có gì đâu một mối thù
ban mai mới ở thiên thu đã chờ
ầm vang cánh cửa thiên đồ
mênh mang một cánh hải hồ chao đi
biển xanh tuổi ấy hài nhi
bài ca ngư phủ, tiếng chùy càn khôn.
(“Thù”, Bói Mộng, trang 47)
.
Với tôi, dù Trầm Phục Khắc chơi vơi hay, neo đậu hồn mình vào những cõi-giới thơ siêu hình hoặc, hiện thực khác, thì rốt ráo “Bói Mộng” của họ Đoàn vẫn là những trầm luân, nổi chìm trong nỗ lực đi tìm chính mình, dù với thể thơ nào, viết về cái gì, tại sao.
Tôi cho đó là một khía cạnh đặc thù của cõi giới thơ này. Bình thường các nhà thơ từ thời tiền chiến đến hôm nay, vẫn thường đi tìm chân dung mình qua những bài thơ tình, thơ thời thế hay thơ quê hương, đất nước.
Tuy nhiên, tôi không biết sau khi lao tác cực lực soi tìm chân dung mình, Trầm Phục Khắc có bắt gặp chiếc bóng của chính ông?
Nhưng, cuối cùng, nếu không, thì Trầm Phục Khắc có nghĩ tới việc sẽ neo đậu thơ mình ở những bờ bến, khác? Hay:
“Nằm nghe gió mấy đêm nay
Gã về còn đủ mặt mày hay không” (?)
Du Tử Lê,
(Garden Grove, Sept. 2019)
,