Có lần tôi nói với một người bạn, “giới thi sĩ, những thi sĩ “thứ thiệt”, là người sướng nhất.” Bạn hỏi “tại sao?” Tôi trả lời: “Vì họ không giống chúng ta.”
Chúng ta là ai? Là những người “bình thường”, sống cuộc sống “bình thường,” giữa dằng xé của cơm – áo – gạo – tiền (bình thường thôi!), của âu lo, của khắc khoải; và của cả những khoảnh khắc hạnh phúc cũng rất đỗi… bình thường.
Thi sĩ họ khác. Họ sống trong thế giới khác, rất riêng. Họ cũng có thể đối mặt với tất cả mọi âu lo và hạnh phúc như người bình thường chúng ta.
Nhưng họ nhận thức mọi điều ấy ở một thái độ khác. Có một cái gì như trực giác và bản năng. Hành xử qua trực giác hay bản năng là khuynh hướng của người tự do. Với thi sĩ, càng tự do tác phẩm càng lớn; có khi đủ lớn để ảnh hưởng cả một xã hội; và không hiếm khi lại là lời tiên tri cho cả dân tộc trên nhiều phương diện ở một thời điểm rất xa về sau, thường được chứng nghiệm qua các biến cố lớn.
Người tự do là người sướng nhất! Trong số này, phải kể đến Du Tử Lê, và phải nhìn vào tác phẩm của ông.
***
Tôi có một hân hạnh, là được Du Tử Lê “ghé mắt” vào ngay từ bài báo đầu tiên tôi viết trong đời.
Đó là bài viết về hoàn cảnh một phụ nữ trong những giờ phút đầu tiên sau khi chồng mình, một H.O., bị cảnh sát và FBI đến bắt tại nhà với cáo buộc từng tham gia hành hung bạn tù lúc còn ở trại cải tạo tại Việt Nam. Bài báo được in ra, tòa soạn Người Việt nhận vô số thư, email, và điện thoại gọi vào. Không ai chê bài báo, nhưng độc giả chia làm hai. Bên bênh, bên chống.
Rất nhiều người đến tòa soạn để bày tỏ ý kiến mình. Trong số này có một người đến với một mục đích khác: Để xem “ông Thiện Giao” nhìn ra sao. Theo lời kể của bà Du Tử Lê sau này: “Đọc bài báo tưởng già lắm chứ sao Thiện Giao… trẻ thế.”
Từ chỗ “ghé mắt” như thế, Du Tử Lê bắt đầu dành cho tôi biệt nhãn và biệt đãi. Trong nhiều điều ông dành cho tôi, vẫn thích nhất là thi thoảng đi uống cà phê với ông.
Tôi hay ngồi cà phê một mình, thói quen có từ khi làm báo. Nghề làm báo gần như đối chọi với cái tự do của người làm thơ. Có quá nhiều nguyên tắc phải tuân thủ, về mặt lý trí. Bước ra khỏi tòa soạn sau một ngày làm việc chỉ thích được ngồi một mình. Có lẽ là nhu cầu được tự do – một thứ bản năng.
Ngồi với Du Tử Lê thì cũng gần như ngồi một mình. Vì ông ít nói, thỉnh thoảng hỏi vài câu, rồi ông cười cười; bắt chân chữ ngũ, nhìn bâng quơ ra đường.
Ông người nhỏ thó. Tuổi càng lớn thì hình hài càng rút lại. Những hôm trời California trở lạnh, thu người lại, ngồi vắt chân chữ ngũ, trông ông lại càng nhỏ hơn. Du Tử Lê chỉ chọn những quán vắng khách. Đó lại là “gu” của tôi. (Little Saigon có quá nhiều những quán cà phê mà cứ bước chân vào là gặp người quen. Nghe toàn những chuyện… bình thường, rất mệt). Ngồi với Du Tử Lê thì cảm giác gần như tự do tuyệt đối!
Bao nhiêu biệt nhãn là thế, nhưng cũng có lần ông bực mình tôi (lần duy nhất). Tôi sẽ không kể cái bực mình ấy ra đây. Tôi muốn giữ riêng một kỷ niệm với ông – chỉ tôi và ông. Và tôi nghĩ, bên cạnh 99% chất tự do trong Du Tử Lê, hãy cho ông thỉnh thoảng trở lại 1% cái chất của người bình thường. Điều bực mình ấy có lẽ đến từ khoảnh khắc 1% còn lại. Rồi ông cũng quên nhanh. Người tự do, tự do cả với những phiền muộn.
Lần cuối cùng tôi nói chuyện với ông là cách đây gần một năm. Tôi đang sống tại Virginia. Đêm ấy tôi cùng các bạn hữu đi nghe nhạc. Chương trình có bài “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn.” Bỗng có người hỏi, “Đêm về theo bánh xe lăn” hay “đêm về theo vết xe lăn.” Tôi cầm điện thoại, gọi cho bà Du Tử Lê, xin nói chuyện với ông Du Tử Lê. Nhận được điện thoại tôi ông vui lắm. Rồi ông trả lời, “cả hai.”
***
Trong một bài viết lâu lắm rồi, tôi có nói với ông, rằng, “với thơ, tôi là người ngoại đạo.”
Nay ông đã ra đi; tôi không kịp nói với ông một “tin vui”. Tôi đã mon men đi vào “đạo thơ”, trong tư cách người thưởng ngoạn. Du Tử Lê và một vài tác phẩm của ông trong số các tác giả và tác phẩm đưa tôi đến gần với Thơ hơn. Tôi không phải người duy nhất. Tôi biết có rất nhiều người “chịu ơn” Du Tử Lê như thế.
Tôi thích hình dung thế này: Không nhất thiết Du Tử Lê đã chọn làm thơ. Chính thơ, chọn Du Tử Lê. Đó là nghiệp của người thi sĩ. Rồi ông mang những tác phẩm đẹp đến cho người “bình thường” thưởng thức; tạo nên duyên lành trong cộng nghiệp giữa ông và chúng ta.
Không nhất thiết phải đau buồn trước sự ra đi của ông. Mà hãy vinh danh ông, cùng cuộc đời đồ sộ những tác phẩm đã được dâng hiến cho cuộc đời này.