Cách đây 25 năm, nhà tôi cách nhà anh Nhật Tiến khoảng 5 phút xe. Nhiều buổi chiều nếu không đi nhậu tôi thường tản bộ trong chu vi một dặm vuông quanh nơi cư trú, vừa thể dục vừa suy nghĩ đủ chuyện, hội họa, văn chương, thời sự… Nhiều bức tranh, nhiều trang chữ được thai nghén vào thời điểm này. Suốt ba năm, cho đến ngày gia đình tôi chuyển đến nơi khác, tôi vẫn trung thành với độc nhất một lộ trình. Lộ trình này sẽ ngang qua nhà anh Nhật Tiến, nằm góc một vòng cua trong khu xóm yên tĩnh nhiều bóng cây dọc hai vỉa hè. Nhìn sân trước, nếu không thấy xe, tôi biết anh đã ra ngoài, ngược lại, anh có nhà. Thường, tôi ít khi ghé vào, bởi giản dị, chuyện trò với anh tôi phải luôn giữ mình, không thể lếu láo, bông phèng như bản chất tôi vốn thế. Nhưng từ lúc Hợp Lưu ra đến số 3, cụt vốn, tôi phải “cứu” bằng cách viết và bán cho một nhà xuất bản một cuốn dâm thư lấy tiền tiếp tục duy trì tờ báo. Tuy Hợp Lưu không chết, song bị “tẩm quất” khắp nơi, từ tít mù bên trời Âu, Pháp, Đức, Na Uy, Đan Mạch… đến láng giềng gần, Canada, Mễ. Riêng tại quận Cam, Mỹ, không tuần nào tôi không bị mang ra “hài tội” và rủa sả, bỉ thử. Chả hạn trong bài phiếm một tờ tuần báo viết thế này, về tôi: “Ra đường, nhỡ gặp KT, tránh không được buộc phải bắt tay, thì để khỏi lây bệnh aids, nhớ cẩn thận đeo vào mười ngón tay mười cái condoms.” (ý nói hai tay tôi từng gõ bàn phím viết dâm thư nên vi trùng aids bám đầy, nguy cơ lây bệnh rất cao nếu không bảo vệ bằng những cái condoms!)
Tâm trạng tôi thời điểm này không mấy tốt vì phải tứ bề thọ địch, thường trực cảnh giác, chống trả, tả xung hữu đột. Nhiều lúc mệt mỏi quá, tôi ghé anh Nhật Tiến, cốt tâm sự, và tìm đồng minh. Anh tiếp tôi đúng phong cánh nhà giáo, từ tốn nhưng vui vẻ, tận tình, bằng tấm lòng rộng mở của một người anh hiểu biết và cực kỳ sâu sắc. Anh đồng cảm việc tôi đang làm. Để khích lệ cũng như tiếp sức, anh bảo tôi đưa tên anh vào ban biên tập, dù tôi chưa mời. Có lẽ nhờ uy tín của anh nên sau đó, nhanh chóng, đã thêm rất nhiều nhà văn, nhà thơ trên khắp thế giới bằng lòng ghi tên vào “sổ phong thần” để cùng tôi nghe chửi!
Nhờ tác quyền cuốn dâm thư, và nhờ sự đánh phá… cạn tàu ráo máng của các đấng có lập trường chống cộng kiên định, tờ báo bỗng nổi tiếng, độc giả tò mò tìm mua và đọc. Nghề của tôi là vẽ vời, liên quan mật thiết đến mỹ thuật, nên ngoài nội dung bài vở, hình thức của tờ báo cũng là điều tôi quan tâm rất mực. Tôi vẫn quan niệm một bài báo, một cuốn sách sẽ được lưu ý, trân trọng nếu trình bày, in ấn đàng hoàng. Hợp Lưu đáp ứng được hai yêu cầu trên, bài vở phong phú, hình thức mỹ thuật. Tờ báo được đánh giá là diễn đàn văn học nghệ thuật biên khảo đẹp và uy tín nhất ở hải ngoại vào thời điểm ấy.
Thành quả này tất nhiên không do một mình tôi tạo nên, mà là công sức, tim óc của tất cả anh chị em từng cộng tác với tờ báo. Rõ nét và cụ thể nhất là những người gần gũi với tôi, như anh Nhật Tiến. Một lần tôi ghé anh, mặt mày cau có bặm trợn. Anh hỏi,
“Việc gì thế?”
Tôi vọt miệng chửi thề,
“Đụ mẹ, tức chịu không nổi.”
Anh nhìn tôi nhỏ nhẹ,
“Bình tĩnh nào.”
Chợt nhận ra mình vừa thô lỗ, tôi xuống giọng,
“Xin lỗi anh.”
Anh bảo tôi ngồi xuống sofa, mở tủ lạnh lấy chai nước lọc đẩy về phía tôi,
“Uống đi cho hạ hỏa rồi nói tôi nghe, chuyện gì.”
Tôi kể, đêm qua khoảng 2 giờ sáng điện thoại reo, tôi bắt máy thì lập tức tiếng rủa xả thô tục từ đầu dây bên kia ném sang, kèm theo lời hăm dọa: “Đụ mẹ thằng Việt cộng nằm vùng, bọn tao sẽ ném lựu đạn vào nhà, cho cả lũ chúng mày chầu diêm vương.” Nổi máu du côn, tôi đáp trả: “Đụ mẹ chúng mày, nói đéo thiêng, ngon, sáng mai, đúng 10 giờ tao chờ chúng mày ở Mile square park muốn chơi kiểu gì cũng được, tay không, dao, súng, tao cân tuốt.”
“Thế sáng nay thế nào?”
“Em ra Mile square park, chờ mãi chả thấy thằng nào.”
Thực ra tôi đã tiên liệu kết cục này, Bảy năm ở lính tôi rành quá bọn chuyên đánh võ mồm, chửi rủa thì không ai bằng, đụng chuyện là co vòi ca bài tam thập lục kế tẩu đào vi thượng sách.
Bấy giờ anh Nhật Tiến mới từ tốn,
“Cậu nóng quá mất khôn, ngộ nhỡ gặp đứa cũng nóng như cậu, ra điểm hẹn cùng cậu thi thố võ công, dao, súng. Ăn thua chưa bàn đến, chỉ thấy nhãn tiền là cậu và nó bị bắt, nằm ấp. Thiệt thân lãng xẹt. Sao không thâu băng giao cảnh sát? Trên xứ này, hăm dọa kiểu đó tù mọt gông là cái chắc.”
Ngẫm, anh Nhật Tiến nói không sai. Nóng tính và phổi bò là nhược điểm lớn nhất gây không ít rắc rối cho tôi trong dĩ vãng. Suốt mười ba năm làm Hợp Lưu, đã không ít lần anh Nhật Tiến giúp tôi kềm chế, suy nghĩ thiệt hơn trước khi đưa ra một quyết định liên quan đến tờ báo. Như chuyện nhận hay không tài trợ.
Tôi quen với Đoàn Văn Toại. Một hôm Toại nói,
“Ông muốn xin tài trợ của chính phủ cho tờ Hợp Lưu không?”
Và giải thích, Quốc Hội Hoa Kỳ có một phân bộ là “Viện Vận Động Dân Chủ”. Viện này có một ngân sách lớn, dùng để tài trợ cho các tổ chức đối lập tại các quốc gia độc tài, thiếu vắng dân chủ, Việt Nam nằm trong danh sách những quốc gia thuộc dạng này. Nếu tôi xin, với lời giới thiệu của Toại, bảo đảm sẽ được. Tôi vui lắm, mét ngay với anh Nhật Tiến, anh nói,
“Chuyện quan trọng, cậu họp ngay ban biên tập đi.”
Tôi triệu tập một buổi họp. Địa điểm, garage nhà tôi, cũng là tòa soạn Hợp Lưu. Buổi họp chừng sáu người, tôi không nhớ chính xác gồm những ai nên không nêu tên, nhỡ sai, không hay. Hầu hết mọi người cùng quan điểm với tôi, dưng không mỗi năm có 10.000 đô (số tiền này sẽ tăng hàng năm) không còn lo tờ báo chết. Chỉ riêng anh Nhật Tiến phản đối, anh nói,
“Ngày xưa tờ Sáng Tạo của Mai Thảo vì nhận trợ cấp của Mỹ mà mang tiếng đến bây giờ. Hợp Lưu tự nuôi thân được, không việc gì phải xin trợ cấp. Các bạn hẳn biết không đồng tiền nào ném ra mà không có những điều kiện kèm theo. Điều kiện rõ nhất ngay khi mình chấp nhận nhận tiền là mỗi số báo phải có ít nhất một bài phê phán, kêu gọi tự do dân chủ cho Việt Nam, bài báo này phải được dịch sang tiếng Anh gửi cho Viện Vận Động Dân Chủ. Các bạn nghĩ xem, phiền phức không?”
Sau một hồi bàn thảo, tất cả đều công nhận điều anh Nhật Tiến nói là đúng. Và ban biên tập quyết định từ chối trợ cấp.
*
Tôi quen khá nhiều văn nghệ sĩ thuộc mọi bộ môn, trong, ngoài nước, mới, cũ, già, trẻ. Người nào tôi cũng yêu mến, duy chỉ ba người tôi kính phục, trân trọng hết lòng. Đó là anh Nghiêm Xuân Hồng, Mai Thảo và Nhật Tiến.
Về mặt văn chương, cả ba đều không hợp tạng tôi.
Ngày xưa anh Nghiêm Xuân Hồng là đầu tàu của nhóm Quan Điểm, dùng văn chương làm vũ khí chống cộng, nên khô như gạch. Tác phẩm kịch của anh, Người Viễn Khách Thứ Mười, ráng lắm tôi đọc đến trang thứ 30 là đầu hàng, bỏ dở, không cách chi đọc tiếp!
Anh Nhật Tiến xuất thân là nhà giáo nên văn chương hiền lành, nhẹ nhàng, “tải đạo”. Tôi, đi lên từ bùn nhơ, nên không chịu được loại văn chương “giáo khoa” này.
Anh Mai Thảo, ngoài tập tùy bút mỏng dính Đêm Giã Từ Hà Nội và một vài truyện ngắn cùng tập thơ Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, số còn lại, trên dưới 50 tiểu thuyết, tôi đều không chịu nổi, văn chương điệu đà, đọc phát mệt.
Nhưng cả ba đều là những nhân cách tuyệt vời.
Về già anh Nghiêm Xuân Hồng thay đổi hẳn 180 độ. Từ một người say mê chính trị, anh biến thành một cư sĩ, một thiền sư uyên thâm kinh điển. Ngoài các tác phẩm liên quan đến Phật giáo anh đã viết và đều đặn xuất bản, còn hàng ngày tới các chùa giảng kinh. Anh thường đến thăm tôi, nhìn công việc tôi làm, cười nhẹ hiền từ
“Cậu có biêt cậu đang làm công việc của một Bồ tát không?”
“Em không hiểu.”
“Phát nguyện của các Bồ tát là yêu thương tất cả mọi người, xóa bỏ hận thù, xiển dương điều thiện. Cậu làm Hợp Lưu là đang thực hiện công việc tôi vừa nói. Đó là công việc của các Bồ tát.”
Anh Mai Thảo thường bị hiểu lầm là một người trịch thượng, cao ngạo, khó gần. Sự thật anh thủy chung, hào sảng, trượng phu với tất cả mọi người, nhất là bạn bè, không phân biệt tuổi tác, mới cũ và đặc biệt hơn nữa, trân trọng rất mực chữ nghĩa. Suốt cuộc đời chưa bao giờ anh dùng chữ nghĩa để bỉ thử ai, dù có không ít những đồn thổi, những bài viết tiêu cực về anh. Đã rất nhiều lần anh nói với “bọn trẻ” chúng tôi, chữ nghĩa đẹp lắm cơ, đừng dùng nó như một thứ vũ khí, hãy tử tế với nó. Hợp Lưu có những lúc bị đối xử tồi tệ, tôi nóng, nhiều lần định trả đũa rồi chợt nhớ lời Mai Thảo, tôi nuốt cơn giận xuống. Phải, “chữ nghĩa đẹp lắm cơ, hãy tử tế với nó.” Anh Mai Thảo, em nhớ anh!
Anh Nhật Tiến, những lúc tôi lao đao vì tờ báo, anh luôn bên cạnh. Tấm lòng của anh, nhân cách của anh mãi mãi không bao giờ tôi quên. Ngày anh ra đi, vì bệnh tôi không thể đến tiễn đưa, đến hôm nay tôi vẫn còn ân hận.
Gửi ý kiến của bạn