Từ
thuở thiếu niên, Trương Xuân Huy đã rời xa cây đa mái
đình làng Vạn Mỹ bên dòng sông Vệ thân thương, định
cư ở thành phố Đà Lạt. Sống ở thành phố ngàn hoa,
Trương Xuân Huy dạy học và âm thầm đi vào cánh đồng
thi ca.
Như những người làm vườn trên vùng cao
nguyên Liang Bian, sau những ngày lao động trong sương sớm,
gió núi mưa chiều, lòng reo vui khi thấy "vườn
xanh quả đỏ"
của mùa vui. Sau những tháng năm âm thầm sáng tác trên
cánh đồng thi ca của riêng mình, Trương Xuân Huy đã gặt
được những mùa vui. Chỉ trong 5 năm, từ năm 1993 đến
năm 1998, Trương Xuân Huy đã xuất bản được 3 thi phẩm,
gồm: Quê hương như nôi hồng; Xa như màu nhớ; Vườn
xanh quả đỏ. Thơ Trương Xuân Huy còn được chọn đưa
vào 20 tuyển tập thơ trong nước và nước ngoài. Khi nói
về thơ Trương Xuân Huy, người yêu thơ thường nhắc đến
"Màu
thu Đà Lạt"
và "Đà
Lạt chiều mưa tháng Năm"
là những bài thơ tình của Trương Xuân Huy đã neo đậu
trong lòng những người yêu thơ và yêu xứ sở Đà Lạt
ngàn hoa.
Bên cạnh những bài thơ tình đầy thơ
mộng, lãng đãng như mây trời Đà Lạt, đậm ngàn hoa
sắc núi, chúng ta còn bắt gặp Trương Xuân Huy với những
bài thơ nội dung thể hiện sự trải nghiệm sắc màu
cuộc sống, những bể dâu của cuộc đời, bối cảnh xã
hội đổi thay...
"Nhỏ
đọc chuyện Tây Du
Muốn thành Tôn Hành Giả
Chưa
tính chuyện đi tu
Bởi mê hoa cỏ lạ.
Lớn đọc
chuyện Tây Du
Đời đẩy xô nghiệt ngã
Hai tuyến
bạn và thù
Mỗi bên đời một giá.
Giờ đọc
chuyện Tây Du
Thấu nỗi tình thiên hạ
Mây mù và
mây mù
Dương bủa giăng khắp ngã.
Ngòi bút Ngô
Thừa Ân
Lũ yêu Tây Du Ký
Ôi, cái thưở phân
thân!
Ôi , một thời mộng mị!"
(Ba
lần đọc chuyện Tây Du)
Thơ
Trương Xuân Huy còn ẩn chứa những tình cảm, bắt người
đọc phải nhiều suy nghĩ:
"Tình
đau, đau một kiếp thôi
Nghĩa đau, đau đến luân hồi
còn đau
Lạy Trời, lạy Đất, lạy nhau
Lạy hai con
mắt nghìn sau ngùi ngùi".
(Lạy
hai con mắt)
"Đôi
mắt ai thắp lửa những tia nhìn
Đêm mất ngủ, chập
chờn đôi mắt ấy
Tôi ước được mọi đêm dài thức
vậy
Để mắt người thắp lửa mãi trong tôi".
(Đôi
mắt)
Trương
Xuân Huy viết nhiều thể loại thơ. Chúng tôi nhớ không
lầm, Trương Xuân Huy còn viết nhiều bài thơ tứ tuyệt
(có lẽ đến gần 300 bài). Thơ tứ tuyệt của Trương
Xuân Huy cô đọng, tính khái quát cao. Chỉ 4 câu thơ,
Trương Xuân Huy đã nói lên được bi kịch của cuộc đời
Nguyễn Trãi - một nhà chính trị, một nhà văn lớn của
đất nước:
"Quân
sư cho Lê Lợi
Lưỡng triều là Quốc công
Đỉnh Côn
Sơn lên tới
Gò hồng nhan thì không."
(Nguyễn
Trãi)
Chúng
ta còn bắt gặp chính tâm trạng của mình trong những bài
thơ tuyệt cú của Trương Xuân Huy. Đây cũng là nỗi lòng
của những người sống xa quê hương khi trở về miền
cố thổ:
"Nửa
trăm năm bỏ đi hoang
Đầu Xuân lão trở lại làng tìm
xưa
Cụ bà ru cháu, ru trưa
Chợt ông khách hỏi, chào
thưa. Giật mình."
(Tìm
xưa)
Và
chúng ta cũng gặp lại tâm sự của Hà Tri Chương, Vương
Bột - những nhà thơ đời Đường của đất nước Trung
Hoa xa xôi trong thơ của Trương Xuân Huy:
"Bốn
thập niên dư sống xứ xa
Vàng thu lá rụng thăm quê
nhà
Người xưa, cảnh cũ ôi thay đổi
Ngay cả người
thân nhận chẳng ra."
(Người
xưa cảnh cũ)
"Tiếu
vấn xứ tầm hà xứ lai".
Ôi, thương cảm biết bao cho nỗi lòng của người trở
về cố thổ. Đây cũng là tâm trạng chung của nhiều
người trong chúng ta khi trở về quê hương sau những năm
dài xa cách.
Xa quê hương gần 60 năm nhưng trong lòng
Trương Xuân Huy vẫn không nguôi nhớ về Quảng Ngãi đất
mẹ. Trong thơ của ông lúc nào cũng mang đầy hình ảnh
thân thương của dòng sông Vệ, bờ xe nước, bụi dứa,
nương dâu, cây đa mái đình và những đêm trăng quê nhà.
Tất cả đã in sâu vào tâm hồn của những người sống
xa quê với bao hoài cảm về một thời đã xa !...:
"Bài
thơ này tôi viết gửi Quê Hương
Có dòng sông chảy
ngang qua cầu sông Vệ
Như con rắn trườn mình ra bể
Đã
sinh ra bao chuyện lở bồi
Bên kia cầu bạn thấy rõ
làng tôi
Ngày thơ ấu bãi bồi xa tít tắp
Nửa thế
kỷ bãi làng tôi bị cắp
Tôi xa quê khi sông chảy sát
nhà.
Những vui buồn tuổi trẻ trôi qua
Lành với
dữ theo về hai mùa nước
Giòng sông cho tôi tuổi thơ
tắm mát
Những ngày xưa bờ bãi chửa thành sông
Bánh
xe quay đưa nước ngược lên đồng
Con thuyền chở của
nguồn xuôi ngọt mái
Bờ xe nước ngày xưa là bến
đợi
Biết bây giờ bờ xe ấy về đâu?
Những
đêm trăng thơ thẩn trên cầu
Tâm thức chảy theo gióng
không trở lại
Những trưa hè dọc triền sông dứa
dại
Cứa vào chân, ngai ngái một lần hương
Nước
sông dâng mùa lũ ngập lên vườn
Con sông rộng dập
dềnh lên bất chợt
Củi gỗ mục theo dòng hăm hở
vớt
Triệu năm rồi lấn biển lũ phù sa.
Chuyện
sông thơ giờ là chuyện xưa qua
Chút kỷ niệm chập
chờn trong bộ nhớ
Tôi bỏ ruộng, bỏ sông về núi
ở
Trở giấc khuya choàng dậy nẩy lòng thương.
Bài
thơ này tôi viết gửi Quê Hương
Có giòng chảy ngang
qua cầu sông Vệ
Sông quê ơi! Một ngày nào, có thể
Tôi
chết rồi, thương vẫn gửi về sông".
(Viết
tặng sông quê)
Thơ
hay theo chúng tôi là những bài thơ chúng ta thấy tình
cảm, hình ảnh của chính mình trong thơ. Ngày xưa, nhà
thơ Lý Thương Ẩn đời Đường đã từng viết: "Tam
niên dĩ chế tư hương lệ / Cánh nhập tân niên khủng
bất câm"
(Thương quê nén lệ ba năm / Sợ vào năm mới lệ thầm
khó ngăn).
Ngày nay, Trương Xuân Huy đã thốt lên trong
thơ:
"
Sông quê ơi! Một ngày nào, có thể
Tôi chết rồi,
thương vẫn gửi về sông".
"Thương
nhớ gửi về sông"
- sông về biển lớn, rồi trở về nguồn. Đây là tình
cảm, đạo lý trong đời của chúng ta. Thương nhớ gửi
về sông là tiếng lòng của những người con sống xa quê
hương thương về cố thổ. Xin cám ơn nhà thơ Trương
Xuân Huy đã nói hộ nỗi lòng của bao người trong chúng
ta - những người con thân yêu của dòng sông Vệ sống
tha hương
Lê
Ngọc Trác
La
Gi, năm 2014