Nếu được hỏi, chọn nhà văn nào sau biến cố tháng 4-1975, dùng văn chương để xiển dương sự sống một cách nồng nhiệt nhất? - Tôi sẽ không ngập ngừng, chọn Nam Dao, làm một trong số những nhà văn đó.
Là người chỉ thực sự cầm bút sau thảm kịch 30 tháng 4-75, nhưng qua thơ / văn, Nam Dao đã liên lủy cho thấy ông đi tìm cái đẹp - - Như một hình thái ẩn sủng của đời sống.
Cách đây chưa lâu, nhà xuất bản Phương Nam, Saigon, đã ấn hành hai tuyện-vừa của Nam Dao. Đó là các cuốn “Ghềnh V” và “Vu Quy”. Nhận định về hai tác phẩm này, trong bài viết nhan đề “Nam Dao và 2 mảng phận người”, tác giả Lam Điền, báo Tuổi Trẻ viết:
“…Không gian truyện của ‘Vu quy’ bắt đầu sau chiến tranh. Mối đệm lịch sử tuy là phần nhỏ, nhưng đủ để làm câu chuyện thật hơn, và cũng chính cuộc sống khắc nghiệt của những người bước ra từ cuộc chiến, sẽ mang lại cho người đọc những chiều suy nghiệm không giản đơn về khái niệm phận người.
“Đó là những lát cắt bén ngọt về cái xóm nghèo nơi Đất Mũi, với những đứa trẻ mồ côi trong thời bình như Thẻo và gia đình bé Tư con bà Sáu. Sự khốn quẫn trong mưu sinh đẩy từng cá nhân rời khỏi cuộc sống gia đình và rơi vào cạm bẫy đang chực chờ. Trong khi người mẹ ruột đang tâm móc nối bán rẻ bé Tư cho những người đàn ông nước ngoài, thì giấc mơ làm giàu từ vuông tôm của Thẻo - người yêu Tư - nhanh chóng tan theo mây khói cùng sự bế tắc của những hỗ trợ từ phía chính quyền. Có cảm giác tác giả phải rất kiệm lời, và nỗ lực trong dung lượng chữ ngắn nhất làm bật lên rõ nhất sự tha hóa, nguy cơ sập bẫy sớm nhất từ những thường dân cụ thể chân lấm tay bùn khi đất nước hội nhập.
“ ‘Ghềnh V’ lại là một hành trình đan trộn giữa hiện thực cuộc đời và thoát ly thực tại theo hướng duy mỹ để tìm sự cứu rỗi. Một nhà thơ bế tắc về tương lai nghệ thuật, một kỹ nữ mang mặc cảm giết mẹ, hai người yêu ly thân 30 năm để sám hối về tội giết người vì yêu... Tất cả gặp nhau ở ‘ghềnh V’, một địa danh ước lệ, không gian ước lệ với am cốc, người tu, quán trọ, và cả huyền thoại về người đời tìm lên ghềnh tự tử. Nhưng sự cứu rỗi không phải ở hành trình lên ghềnh, không phải ở lời giảng về đạo lý, không thuộc sự cảm nhận trước cái chết gang tấc của vực sâu, bất ngờ thay, sự cứu rỗi cũng không ở chỗ tình yêu như nhân vật tôi tưởng mình đã hiểu. Sự cứu rỗi chính là sự sống.
“ ‘Đời sống, tự thân đã là cứu rỗi những con người đang sống’, câu nói của cô kỹ nữ ở Ghềnh V thật hay, hay không chỉ ở quá trình trải nghiệm để nhận ra giá trị ấy, mà còn hay bởi chính sự lựa chọn sự sống mới làm nên giá trị cứu rỗi kia.
“Cả hai truyện đều phảng phất triết lý Phật giáo, chấm phá thôi, nhưng có tác dụng giúp người đọc vỡ dần những gói ghém đầy ngụ ý của tác giả.” (1)
Nếu trong những trang văn của Nam Dao, là nỗ lực xiển dương đời sống thì, thơ của ông là một phó bản của tấm lòng thiết tha ngợi ca sự sống đó.
Tôi nghĩ, dường sự sống chính là lực đẩy mạnh mẽ nhất, dắt tay Nam Dao ngồi vào bàn viết. Mặc dù ông đã cho thấy sự xuống cấp hay phá sản thê thảm của đời sống tinh thần con người trong thời đại “on-line” - Một đại-dịch của nhân loại (?) :
“…giả như ta sống được ba chiều
và đẩy chiều thời gian ngược về thời thơ nhỏ
anh sẽ dịu dàng
cầm tay em
nhắc em dẫu trái đất chưa phải địa đàng
nhưng chúng ta vẫn có thể yêu chân thật
như thời đồ đá thời đồ đồng
trước thời đồ ảo
online…”
(Trích Nam Dao, “Cuối mùa 2010”) (2) Trước sự phân rã tinh tinh thần của cảnh-giới nhân sinh hiện tại, Nam Dao lần về thơ ấu mình, nơi tình yêu ở ông, bắt đầu rất sớm, với những dự cảm thương tích:
“Lần trí nhớ
tôi bước theo mùi hương thiên lý
men góc tường vôi trắng
giàn hoa giấy mầu hồng
“tôi đẩy cửa
a, nhà tôi đây
căn phòng lầu hai bỏ trống
chiếc bàn học gầy gò
trên mặt bàn ngày xưa tôi khắc trái tim và mũi tên xuyên ngang
đánh dấu một cuộc tình thơ dại…”
(Trích Nam Dao, “Tấu khúc cho những bước lạc”)
Khí hậu trong thơ Nam Dao là loại khí hậu lạnh tanh. Cái lạnh zero độ. Cái lạnh như phần thưởng duy nhất mà, cuộc đời có “ưu ái” đãi ngộ ông - - Một nhà thơ đau đáu nỗi cô đơn vì bẩm sinh, trái tim quá lụy tình người:
“…đàn sẻ bây giờ lại nhớn nhác
chim bắc cầu năm xưa rụng
như những quả ung
chân tôi đạp hụt – dưới là khoảng không
tôi cũng rơi như một lần quá lứa
thế nhưng sao
trong căn phòng trống
tôi thấy trên mặt chiếc bàn vẫn còn trái tim
với mũi tên xuyên ngang
máu bây giờ nhỏ thật…” (3)
Dù đã chạm mặt sự thật thô nhám, sần sùi của cuộc đời, nhưng không vì thế mà Nam Dao có thể đổi thay cảm, nghiệm gần như bất biến của ông về sự sống. Đó là, sống không thôi, cũng đã là một ân sủng rồi:
“…Quơ tay lau nước mắt
người thủy thủ
hồi sinh
nghe trong tim máu trào như sóng biển
theo ánh bình minh
cùng mặt trời xuống núi
*
“Thì ra
Thì ra
Sự Sống
ta viết hoa
muôn đời,
vẫn vùng lên từ những tro than
vẫy đôi cánh tình yêu lừng lững.
*
“Cảm ơn em, sẻ nhỏ
đã nhắc ta
Sự Sống
ấy chan hòa”.
(Trích Nam Dao “Chuyện cùng sẻ nhỏ”) (4)
Phải chăng, rốt ráo, như ghi nhận của tác giả Lam Điền về Nam Dao thì: “Sự cứu rỗi chính là sự sống”vậy?
Du Tử Lê,
(July 24-2013)
___________
Chú thích:
(1) Wikipedia - tiếng Việt.
(2) Trang nhà Nguyễn Trọng Tạo.
(3), (4) Nđd.