Thừa hưởng hạt giống di truyền văn chương của một người cha tên Sĩ Trung, một người chú tên Ngọc Linh và, tương quan huyết thống với Nguyễn Thị Thụy Vũ (cả ba nhà văn này, là những tên tuổi chói sáng góc trời văn chương miền Nam, 20 năm (1954-1975,) Sỹ Liêm bước vào sinh hoạt chữ nghĩa, nhẹ nhàng, bình thản, mặc nhiên. Như khí trời. Như cỏ cây. Như hoa, lá...
Đáng nói chăng, theo tôi, tuy chọn thi ca làm hơi thở, một đời ở với nắng, gió cảm tính và, thao thiết nhân sinh, thành thạo với nhiều thể loại thơ khác, nhưng đặc biệt, Sỹ Liêm chọn lục bát, như một đắm đuối bất tận, hay một định mệnh khôn lý giải.
Tôi nghĩ, bất cứ ai từng theo dõi cõi-giới thơ lục bát hôm nay ở quê nhà, sẽ dễ dàng nhận ra rằng: Càng lúc thể thơ dân tộc này, càng có những biến tấu huê dạng, bất ngờ... (không loại trừ những cố tình biên cải vô nghĩa - - dẫn lục bát tới chỗ không hồn, vía...). Thí dụ:
- Có tác giả xây dựng những đời thơ lục bát của mình trên những phá cách (thường ở câu 6 chữ) ... Để dẫn tới những so sánh, liên tưởng bất ngờ nơi câu tám.
- Có tác giả chia câu tám thành 4 bậc thang (những tưởng mới mẻ dù sự thực hình thức kia, đã có tự hàng trăm năm trước...)
- Có tác giả chủ tâm ghi nhận, miêu tả những hoạt động thân xác, như muốn quan định một chỗ đứng riêng cho mình, qua những dòng lục bát của họ.
- Nếu có tác giả xây dựng những đời lục bát của họ trên những hình tượng, sự kiện xã hội hiện thực, chủ tâm phô bày mặt khác của đời thường; thì cũng có tác giả xây đựng những đời lục bát trên một số chữ nghĩa phổ cập của Thiền tông, tựa tự thân cho thấy họ đã... “chứng ngộ” lẽ đạo?!?
-Nếu có tác giả xây dựng những đời lục bát trên những xóa nhòa cái nhịp chảy hiền hòa, êm ả của ca dao, điệu ru, để đi tới những chân trời gập ghềnh; bất định những thương tích, hàm hỗn mất mát..., vốn là thuộc tính của cảnh thổ nhân sinh hôm nay thì, cũng có tác giả chung thủy với nhịp tim ca dao, hền hòa, dung dị - - Như một nỗ lực vực dậy, khơi mạch một thời vàng son của thể thơ truyền thống nghìn năm đó...
Tôi muốn gọi hiện tượng này là sự “chia tay và, trở về lục bát.”
.
Sỹ Liêm, theo tôi, qua nhiều bài lục bát của ông, cho thấy ông chọn con đường vực dậy, khơi mạch một thời vàng son của lục bát truyền thống.
Phải chăng, giữa lúc, những người đồng thời với Sỹ Liêm, thể hiện quyết tâm chia tay lục bát cũ để hình thành một lục bát không chỉ mới, khác từ hình thức mà, còn có tham vọng thay máu cho lục bát hôm nay nữa, thì Sỹ Liêm lại làm một cuộc trở về.
Rõ hơn, Sỹ Liêm chọn con đường trở về ca dao: Con đường dung dị, hiền hòa, êm ả điệu ru từ thân, tâm... Nhưng ông mặc khoác cho chúng những chiếc áo khác. Những tấm áo được dệt bằng tơ sợi và, họa tiết mang tên Sỹ Liêm.
Cụ thể, như bài “Xác thân ngọt lịm cây trái bốn mùa”. Một bài lục bát có 22 câu thì, quá nửa số câu nói về người nữ được Sỹ Liêm ướp mật, tẩm hương cây trái miền Nam. (Chúng ta cũng có thể hiểu ông muốn nhân cách hóa cây trái miền tây bốn mùa, qua hình ảnh người nữ của mình?)
Đó là những so sánh, liên tưởng, cá nhân tôi lần đầu, được đọc:
“Em chèo lục bát ca dao
Vần căng vú sữa điệu ngào ngạt hương
Ánh trăng lót ổ làm giường
Đêm thong thả gió mây đường đột ôm
Vỏ lòng tua tủa chôm chôm
Hồn trong trắng muốt thịt ngon lựng trời
Da thơm hoa mận gọi mời
Môi ong bướm lượn xuân ngời nhụy say
Lông mày lá liễu phượng bay
Mắt đen hạt nhãn đậm dài mi cong
Dung nhan lúa trổ đòng đòng
Hơi non nõn ngát ruộng đồng mỹ nhân
Búp măng mười ngón thiên thần
Cẳng thon bắp chuối kéo căng cặp đùi
Sầu riêng chẳng có….chỉ vui
Hàm răng bắp trải nụ cười quanh năm
Cổ cao trái cấm chẻ cằm
Vầng vai nhật nguyệt ngấm ngầm khát khao
Em về nhận lễ trầu cau
Cho ta thưởng thức mâm cao cổ đầy
Tuyệt vời con gái miền Tây
Xác thân ngọt lịm trái cây bốn mùa”
(Sỹ Liêm, trọn bài)
Ở một bài lục bát khác, bài “Hai lòng như một cánh cung”, thiên nhiên, sông nước, đất trời cũng được đem vào lục bát theo cách của Sỹ Liêm.
Ở bài thơ này, tôi rất thích câu mở đầu “ông trời cởi áo tứ thân” và “Dòng sông cõng chiếc đò ngang”.
Vẫn là nhịp đập của ca dao đấy chứ! Nhưng hình tượng lại mới, lạ không kém gì những dòng lục bát mới, lạ của những người trẻ hôm nay:
“Ông trời cởi áo tứ thân
Để cho đất thấy mây vần vũ bay
Vầng dương tỏa ánh ban mai
Và đêm nguyệt tỏ tình ngây ngất vàng
Dòng sông cõng chiếc đò ngang
Chòng chành vì có ta nàng bên trong
Hai tay ta cũng đèo bồng
Theo trời bắt chước cởi xong áo ngoài
Nàng nằm nhắm mắt liêu trai
Ta theo từng nụ hôn say đắm cùng
Hai lòng như một cánh cung
Cong theo từng nhịp tim run đã đời...”
(Sỹ Liêm, trích “Hai lòng như một cánh cung”
Chỉ tiếc, hai chữ “đã đời” đi liền sáu chữ “cong theo từng nhịp tim run” chẳng những không thuận hợp với ngữ-cảnh bài thơ mà, nó còn cho thấy sự dễ dãi hay vội vã của tác giả, khi chọn hai chữ xuồng xã đường phố, chia chung không gian, khí hậu đặc biệt với hai câu thơ kể trên!
.
Bản chất thi sĩ vốn gắn bó với cái đẹp nền nã của sông nước và, cây trái miền Tây, nhưng Sỹ Liêm cũng không thể quay lưng, bình thản trước những bi kịch xã hội. Vì thế, lục bát của ông cũng đã dành khá nhiều không gian cho những nghịch cảnh xát muối, nhói lòng! Tuy nhiên, qua thơ, Sỹ Liêm vẫn cho thấy tinh thần chia sẻ, cảm thông, độ lượng của mình:
“Em đi bán cái đàn bà
Tôi theo lẽo đẽo mua hoa bón tình
Cầm tiền vá lại tiết trinh
Thấy thơm xác thịt ngắm xinh đẹp về
“Em đi bán cái nằm kề
Tôi theo mua hết những lề thói hư
Cầm tiền em chuyển đổi từ
Một cô gái điếm...tiểu thư nữ hoàng...”
(Trích Sỹ Liêm “Em về bán lá diêu bông”)
.
Để tạm kết bài viết ngắn này, tôi muốn lập lại nhận định của một người bạn thi sĩ, khi ông nói, đại ý:
- Vấn đề không phải là thể loại (form) thơ gì? Tự do hay vần điệu, lục bát hay thất ngôn bát cú, tân hay cựu hình thức... mà vấn đề, trước sau vẫn nằm ở ở chỗ thơ hay hoặc, thơ không hay mà thôi...
Từ nhận định tổng quát ấy, tôi nghĩ, Sỹ Liêm đã cho những người đọc ông, một số câu thơ hay - - Khi định-mệnh-thơ đã đưa ông trở về với lục bát truyền thống.
Du Tử Lê
(Garden Grove, Aug. 2015)