VŨ THƯ HIÊN dịch - Trắng Trên Đen

26 Tháng Hai 201012:00 SA(Xem: 29068)
VŨ THƯ HIÊN dịch - Trắng Trên Đen

blank


















MỘNG MƠ

Khi còn bé tẹo, tôi thường ước mơ tôi có mẹ, tôi ước mơ cho đến năm lên sáu thì thôi không ước mơ nữa. Sau tôi mới hiểu ra, hay nói cho đúng, người ta mới giải thích cho tôi hiểu rằng mẹ tôi, một con mọi đen, đồ chó đẻ, đã bỏ rơi tôi. Tôi chẳng thích thú gì viết ra điều đó, nhưng người ta nói nguyên văn là như thế.

Những người giải thích cho tôi điều đó là những người lớn, những người mạnh mẽ. Bao giờ họ cũng đúng, cũng có lý trong mọi việc, thế tất trong chuyện nhỏ nhặt này họ cũng không sai. Dĩ nhiên, cũng còn những người lớn khác.

Những người lớn này là các thầy giáo. Các thầy kể cho tôi nghe về những xứ sở xa xôi, về những nhà văn vĩ đại. Các thầy bảo cuộc đời là tuyệt đẹp, rằng người nào rồi cũng sẽ có chỗ của mình trên trái đất, nếu như người đó cố gắng học tập và nghe lời người trên. Các thầy bao giờ cũng nói dối. Các thầy dối trá trong mọi chuyện. Các thầy kể cho chúng tôi nghe về những vì sao, nhưng lại không cho phép chúng tôi ra khỏi cổng nhà trẻ. Các thầy nói về sự bình đẳng giữa con người với con người, nhưng khi có gánh xiếc đến vùng tôi thì chỉ những đứa đi lại được mới được các thầy cho đi xem.

Chỉ những bà bảo mẫu là không nói dối. Trong tiếng Nga, chữ "bảo mẫu" thật là thần tình. Nó mới ngọt ngào làm sao. Nó làm cho ta lập tức nhớ đến "ta cạn ly nào, bảo mẫu ơi..." của Pushkin (1). Đó là những bà nhà quê. Họ chẳng khi nào nói dối. Thỉnh thoảng họ còn cho chúng tôi ăn kẹo nữa kia. Các bà bảo mẫu ác có, hiền có, nhưng bao giờ cũng là những người thẳng thắn và chân thật. Nghe họ, ta hiểu ngay họ muốn nói gì, trong khi đó thì từ miệng các thầy không bao giờ ta có được câu trả lời rõ ràng. Khi cho tôi ăn kẹo, bà bảo mẫu bảo: "Tội nghiệp thằng bé, sao mày chẳng chết đi cho rồi, để cả mày lẫn tao khỏi khổ"? Hoặc, khi mang một đứa bé vừa chết ra khỏi nhà: "Lạy Chúa tôi, thế là mày thôi không còn phải vật vã nữa nhá, thằng bé tội nghiệp ạ". Những khi tôi bị cảm, được nghỉ học, nằm một mình trong phòng với một bà bảo mẫu như thế, thì bà bảo mẫu ấy, một bà nhà quê tốt bụng, mang cho tôi bánh kẹo hoặc quả khô dùng để nấu chè tráng miệng, kể cho tôi nghe chuyện những đứa trẻ chết trên các mặt trận, chuyện các ông chồng nát rượu, và vô số chuyện thú vị khác. Tôi nghe và tôi tin hết thảy những điều bà kể, như những đứa trẻ tin ở sự thật, chắc chỉ có trẻ con mới tin như thế. Người lớn thường chẳng tin gì hết. Vậy đấy, các bà bảo mẫu kể cho tôi nghe về "con mọi đen", "đồ chó đẻ khốn kiếp" cứ tỉnh bơ, như thể họ đang nói về một cơn mưa hay về tuyết rơi vậy.

Đến năm lên sáu thì tôi thôi không mơ ước có mẹ nữa. Tôi mơ ước trở thành một đứa "đi được". Hầu như tất cả bọn chúng tôi đều "đi được". Kể cả những đứa chỉ di chuyển một cách khó nhọc trên đôi nạng. Người ta đối xử với bọn "đi được" hơn hẳn đối với chúng tôi, những đứa "không đi được". Chỉ đám "đi được" mới là người. Sau khi tốt nghiệp nhà trẻ, chúng có thể trở thành người có ích cho xã hội - kế toán viên, thợ giày, thợ may. Nhiều đứa trong bọn chúng sẽ có học vấn cao, sẽ "nên người". Sau khi tốt nghiệp, chúng quay lại thăm nhà trẻ trên những xe hơi đắt tiền. Trong những dịp như thế, chúng tôi được triệu tập đến đại sảnh, ở đó chúng tôi được nghe kể về một học sinh cũ nào đó của trường nay đang giữ chức vụ gì. Cứ theo lời người ta kể thì mấy chú mấy cô béo tốt nọ luôn ngoan ngoãn vâng lời người trên, chăm chỉ học tập, và họ đã đạt được cái họ muốn bằng trí tuệ và đức kiên trì. Khốn họ là những người đi được. Chẳng cần nghe họ ba hoa khoác lác tôi cũng biết mình phải làm gì nếu như tôi cũng đi được như họ. Nhưng làm thế nào để đi được thì chẳng ai nói cho tôi biết.

Năm lên tám, tôi ngộ ra một điều cực kỳ đơn giản: tôi là đứa tứ cố vô thân, chẳng ai cần đến tôi. Người lớn cũng như trẻ con, người nào cũng chỉ nghĩ về mình. Tất nhiên, tôi biết rằng ở đâu đó, trên một hành tinh khác, cũng có những ông bố bà mẹ, những ông nội bà ngoại. Nhưng tất cả những cái đó xa vời và khó tin, tôi coi những lời hàm hồ ấy như những câu chuyện mung lung về những vì sao và những châu lục.

Năm lên chín, tôi hiểu ra rằng tôi sẽ chẳng bao giờ đi được hết. Cái đó thật đáng buồn. Thế là xong - những xứ sở xa xôi, những vì sao, và những niềm vui khác. Chỉ còn lại một cái chết mà thôi. Một cái chết vô tích sự, dài dằng dặc. Năm lên mười, tôi đọc về những phi công Thần phong. Những chàng trai dũng mãnh mang cái chết đến cho quân thù. Bằng chuyến bay không hạ cánh giữa đường họ trả lại cho Tổ quốc những gì họ nợ - những bát cơm, những cái tã dây bẩn, những quyển vở, những nụ cười thiếu nữ, ánh nắng và những vì sao, quyền được nhìn thấy mẹ mỗi ngày. Cái đó hợp với tôi. Tôi hiểu chẳng bao giờ tôi sẽ được ngồi vào một phi cơ như thế. Tôi đành mơ ước một trái thuỷ lôi. Một trái thuỷ lôi lái được, nhồi đầy chất nổ. Ước gì tôi có thể lẻn đến một hàng không mẫu hạm địch và tôi sẽ nhấn vào cái nút bấm màu đỏ.

Từ bấy đến nay đã nhiều năm trôi qua. Tôi đã thành người lớn và tôi hiểu sự đời. Có thể cái đó tốt, mà có khi cũng chẳng tốt bao nhiêu. Kẻ cái gì cũng hiểu, cái gì cũng biết, thường là những kẻ ngô nghê chán ngắt. Tôi không có quyền mong cho tôi chết đi, bởi vì gia đình tôi phụ thuộc nhiều vào tôi. Vợ tôi và các con tôi yêu tôi, tôi cũng yêu vợ con tôi lắm. Nhưng thỉnh thoảng ban đêm, nằm đấy mà không chợp mắt được, thì tôi lại mơ ước một trái thuỷ lôi với cái nút màu đỏ. Cái mơ ước thơ ngây của con trẻ mãi không rời bỏ tôi, và có thể, chẳng bao giờ nó chịu rời tôi hết.

NGÀY HỘI
Hồi ức đầu tiên. Tôi, một mình, bé nhỏ, trong giường nôi. Tôi la hét. Chẳng ai đến. Tôi la hét một lúc lâu. Giường nôi là giường thường cho trẻ con, khác ở chỗ bốn bên có lưới cao. Tôi nằm ngửa, người tôi đau, ướt đầm. Bốn bên là rèm trắng. Tôi chỉ có một mình. Trước mắt tôi là trần nhà trắng phếu; quay đầu lại thì cũng chỉ thấy toàn rèm trắng là rèm trắng. Tôi la hét không thôi. Người lớn chỉ đến với tôi vào những giờ nhất định, theo lịch làm việc. Khi họ đến, họ mắng mỏ tôi, họ cho tôi ăn, họ thay tã cho tôi. Tôi yêu họ, nhưng họ không yêu tôi. Mặc cho họ mắng mỏ, mặc cho họ vần tôi từ giường nôi sang cái phản lưới khó chịu, họ muốn làm gì tôi thì làm, tôi cóc cần. Tôi chỉ muốn có ai đó đến với tôi. Chỉ khi đó tôi mới có thể được thấy những cái khác, những giường, những bàn, những ghế, những cửa sổ. Thế thôi. Xong việc, họ đặt tôi vào giường. Khi họ đặt tôi vào giường, tôi lại la hét. Họ lại mắng. Họ không muốn bế tôi, tôi thì không muốn bị đặt vào giường. Tôi nhớ là bao giờ tôi cũng sợ họ bỏ tôi một mình. Họ thường xuyên bỏ tôi một mình.

Mùi đầu tiên, mùi dễ chịu nhất đối với tôi là mùi rượu và mùi nước hoa. Thỉnh thoảng cũng có những những người đàn bà vận áo choàng trắng đến với tôi, bồng tôi lên. Họ bế tôi một cách nương nhẹ, khác thường. Họ gọi đó là "ngày hội". Tôi ngửi thấy nơi người họ hương rượu ngọt ngào. Họ bế tôi đi, mang tôi tới một căn phòng lớn, nơi có một cái bàn và những cái ghế. Tôi được đặt ngồi trên đùi một người nào đó. Những người đàn bà chuyền tay nhau bế tôi. Họ cho tôi ăn một thứ gì đó ngon lành. Dễ chịu hơn cả là tôi được nhìn thấy mọi vật quanh mình. Những khuôn mặt, những cái đĩa đẹp trên bàn, những cái chai và những cái ly. Mọi người uống rượu, ăn, nói chuyện. Người đàn bà đặt tôi trên đùi thận trọng giữ tôi bằng một tay, tay kia nhanh nhẹn đưa cái ly lên miệng uống cạn khẩu phần rượu, sau đó mới nhắm. Thức nhắm có nhiều loại, bà ta véo mỗi thứ một tí và đút vào miệng cho tôi ăn. Không ai chửi mắng ai. Bầu không khí ấm áp, thân tình.

Một bữa nhậu nhẹt trong nhà trẻ. Một bữa nhậu nhẹt bình thường. không có gì đặc biệt. Đàng hoàng, đâu ra đó. Bọn đàn anh uống vodka, có thức nhắm. Đàn anh ở đây là học sinh các lớp trên. Sau buổi học, họ tạt nhanh vào phòng, cắt người đứng "ngánh" cho cả bọn, rồi chúi cả vào một góc. Họ mở đồ hộp, chuyền tay một cốc vodka, nhắm vội vàng.

Bất thần họ nhận ra sự có mặt của tôi. Tôi nằm dưới gầm giường, trong góc đối diện. Tôi nằm, thân trong gầm, đầu và vai thò ra ngoài, trước mặt tôi là cuốn sách. Đọc mà cho chân dưới gầm giường rất là tiện. Không ai làm phiền mình.
- Ruben, bò lại đây, chú mày.
Tôi bỏ sách đấy, bò lại. Tôi bò chậm, nhưng các đàn anh đợi tôi, không sốt ruột. Tôi đến chỗ của họ.
- Vodka chứ, chú mày?
Câu hỏi huênh hoang, rõ ràng là thế. Mọi người biết thừa tôi chưa được phép uống vodka. Người ngoài hai mươi tuổi mới có quyền uống vodka.
Tất cả cười rộ. Cười không ác ý, ai nấy vui vẻ cả.
- Thôi đi, Sergey, để thằng nhóc yên. Cho nó ăn chút gì thì hơn.
Sergey, không chân, làm cho tôi một miếng bánh kẹp xúc xích. Bóc cho tôi một tép tỏi.

Các đàn anh uống nốt phần rượu còn lại, chai thì mang đi giấu. Họ bắt đầu nhắm. Tôi ăn cùng với họ. Khoái thật. Mọi người đều khoái. Ngày hội mà lị. Nếu không phải ngày hội, chắc chẳng ai để ý đến tôi, càng không chia sẻ thức ăn với tôi. Tôi chẳng là cái gì sất, một thằng oắt tỉu xà lai. Sau vodka, đàn anh uống trà quạu. Các anh nấu trà bằng một cái vỏ đồ hộp lớn, uống lần lượt, chậm rãi. Họ không cho tôi uống cùng với họ không phải vì tôi còn nhỏ, mà vì tôi bị đau tim, điều đó ai cũng biết.

Sergey cầm cái cốc để uống vodka nhanh nhẹn leo lên xe lăn, trườn ra khỏi phòng. Trở lại, Sergey mang theo một cốc nước đầy. Tay cầm cốc nước, tay kia thận trọng nhấn xuống sàn để di chuyển. Đặt cốc xuống sàn, Sergey lấy trong tủ giường ra một hộp mứt và cái thìa. Đổ một ít trà quạu từ trong vỏ đồ hộp mà họ dùng uống chung vào cốc của tôi, Sergey tra mứt vào đấy. Anh tra nhiều, không tiếc rẻ.
- Ruben này. - Sergey nói - Chú mày có trà pha mứt rồi đấy nhá.
Đàn anh uống trà quạu, tôi uống trà ngọt. Tuyệt. Ngày hội mà lị.

THỨC ĂN
Tôi khảnh ăn. Nếu có thể được, ắt tôi chọn thứ thuốc trong truyện viễn tưởng, uống một viên no cả ngày. Tôi ăn ít, người ta dỗ tôi, bón cho tôi từng thìa, nhưng mọi cố gắng của họ đều vô ích.

Hồi còn bé tí tẹo, tôi gặp may. Hồi ấy tôi sống trong một nhà trẻ nhỏ ở nông thôn. Ở đấy chúng tôi được ăn uống tử tế, ngon lành, các bà bảo mẫu đều tốt bụng, họ chăm sóc chúng tôi, lo sao cho chúng tôi đều được no bụng.
Sau đó là những nhà trẻ khác, những bà bảo mẫu khác, thức ăn thức uống khác. Cháo trân châu, quả sâu đục, trứng ung. Loại thức ăn như thế chẳng thiếu gì. Nhưng tôi sẽ không viết về chuyện đó.

Không hiểu tại sao, nhưng tôi thấy những hồi ức đẹp nhất của tôi cứ gắn liền với thức ăn. Những khoảnh khắc đẹp nhất trong thời thơ ấu của tôi gắn liền với nó, nói cho đúng hơn, với những người đã chia sẻ nó cùng tôi, như thể nó là biểu hiện của tình thân ái. Ngẫm cũng lạ.

Tôi không nhớ chuyện xảy ra ở đâu. Tôi nhớ những người mặc áo choàng trắng. Chúng tôi thì đông, đứa nào đứa ấy còn nhỏ xíu.

Chúng tôi được phát một quả dứa. Hồi ấy tôi thấy quả dứa sao mà to thế, sao mà đẹp thế. Người lớn không bổ nó ra ngay, họ còn để cho chúng tôi ngắm nó cái đã. Chính người lớn cũng không nỡ phá hoại vẻ đẹp ấy đi, tôi có cảm giác như vậy. Ở Nga dứa là của hiếm.

Nhưng quả dứa nọ làm cho cả lũ chúng tôi thất vọng. Nói cho đúng hơn, không phải tất cả chúng tôi. Lũ trẻ nếm vị khé độc đáo của dứa, nhưng không chịu ăn những khoanh dứa làm rát lưỡi. Chỉ mình tôi ăn. Tôi còn nhớ những người lớn bảo nhau:
- Cho nó ăn nữa đi.
- Ấy chớ, nó phát bệnh thì chết?
- Bà đọc thẻ của nó chưa? Chửa biết chừng thằng bố nó ăn dứa này mà lớn lên đấy. Ở nước chúng nó dứa có dễ cũng sẵn như khoai bên ta.
Họ cho tôi ăn nữa, ăn nữa. Chắc họ thú vị thấy thằng bé kỳ cục có thể ăn được thứ quả lạ kia. Vứt ngần ấy của quý đi thì họ tiếc. Tôi ăn nhiều, tôi chẳng làm sao hết.

Tôi được đưa tới nhà trẻ đầu tiên của tôi. Ở đây không có những người mặc áo choàng trắng, những giường xếp thành hàng. Bù lại, có rất nhiều trẻ con và một cái tivi.
- Sao, thằng này hoàn toàn không ngồi được à? Nào, ta đặt nó lên đi-văng, lấy gối mà xếp bốn chung quanh nó vậy.
Người ta đặt tôi lên đi-văng, lấy gối xếp quanh tôi, lấy thìa bón cháo mạch cho tôi ăn. Bị bất ngờ, tôi ăn hết sạch đĩa cháo và ngủ thiếp đi. Cháo ngon ghê. Tôi thích nhà trẻ này.

Bệnh viện. Đêm. Mọi người ngủ. Cô y tá chạy vào phòng bệnh nhân, bật đèn đầu giường tôi. Cô y tá mặc áo đẹp, đi giầy cao gót, tóc cô uốn xoăn, xoã xuống vai. Cô cúi xuống sát mặt tôi. Cô có một đôi mắt rất to, hạnh phúc. Từ người cô bốc ra mùi nước hoa và một mùi gì đó nữa, mùi của nhà riêng, không phải mùi nhà thương.
- Nhắm mắt lại, há miệng ra cái nào!
Tôi nghe lời cô. Cô đút cho tôi một cái kẹo sô-cô-la to. Tôi đã biết cách ăn kẹo sô-cô-la như thế nào. Phải cầm lấy nó và cắn từng miếng nhỏ một. Hơn nữa, tôi còn muốn ngắm kỹ cái kẹo ấy.
- Cắn đi và ăn cho hết nhé! Hiểu chưa?
Tôi gật.
Cô y tá tắt đèn, chạy đi. Tôi cắn từng miếng kẹo. Miệng tôi đầy một thứ gì đó ngọt và the. Tôi nhai kẹo sô-cô-la, không hiểu tại sao tôi thấy chóng mặt. Tôi cảm thấy dễ chịu. Tôi hạnh phúc.

Tôi bị chở tới một nhà trẻ tiếp theo. Tôi đang bò trong hành lang thì một bà bảo mẫu đi ngược chiều. Hành lang tối thui, bà ta không nhận ra tôi trong đó. Khi đến sát tôi rồi, bà ta hét toáng lên, nhảy tránh qua một bên. Rồi bà đến sát hơn để trông cho rõ. Da tôi nâu, đầu tôi trọc.
Thoạt tiên, trong hành lang tranh tối tranh sáng tôi chỉ nhìn thấy một đôi mắt lơ lửng cách sàn khoảng mười lăm phân.
- Cái thằng, gày gì mà gày thế không biết. Rặt xương với da. Cứ như vừa mới ở Buchenwald (2) ra ấy.
Đúng là tôi chẳng béo cho lắm. Ở chỗ cũ, người ta nuôi tôi không tốt, tôi thì lại lười ăn.
Bà bảo mẫu bỏ đi. Mấy phút sau bà quay lại, đặt xuống sàn trước mặt tôi một miếng bánh kẹp mỡ sấy. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy mỡ sấy, vì thế tôi ăn hết miếng mỡ trước rồi ăn bánh sau. Bỗng nhiên tôi cảm thấy trong người ấm áp hẳn lên và tôi ngủ thiếp đi.

Lễ Phục Sinh. Các bà bảo mẫu, không trừ một ai, đều diện bảnh. Khắp nơi, chỗ nào cũng tràn ngập không khí hội hè. Việc các bà bảo mẫu tỏ ra đặc biệt tốt với chúng tôi làm cho các thầy giáo lo lắng. Tôi thì chẳng hiểu tại sao lại như thế. Ngày lễ trên tivi bao giờ cũng chiếu những cuộc duyệt binh, những cuộc diễu hành quần chúng. Chỉ Tết mới không có duyệt binh. Nhưng Tết đã có cây thông đầu năm và quà cáp.

Sau bữa sáng bà bảo mẫu cho chúng tôi mỗi đứa một quả trứng luộc có vẽ hoa văn xanh đỏ. Bên trong, trứng vẫn trắng như trứng thường. Tôi ăn hết quả trứng Phục Sinh. Nó ngon hơn nhiều so với trứng ở nhà trẻ. Ở nhà trẻ người ta luộc kỹ quá, đâm cứng, còn quả trứng này thì mềm và ngon quá chừng. Lạ một cái là, dù tôi ở đâu mặc lòng, ở nhà trẻ, ở bệnh viện, hay ở nhà già (3), bao giờ cũng có một người tốt bụng cho tôi một quả trứng có hoa văn trong ngày lễ Phục Sinh. Cái đó thật là tuyệt.

Nước Nga có tục làm giỗ. Cứ đến bốn mươi ngày người chết là họ hàng bà con tụ hội nhau trong một bữa ăn chung. Ngoài người nhà ra, còn khách khứa. Người ngoài, bất luận là ai, đều có thể mời, nhưng những người bất hạnh nhất là những người mà gia chủ phải mời cho bằng được. Khách càng bất hạnh bao nhiêu thì vong hồn người chết càng hởi lòng hởi dạ bấy nhiêu, công quả dâng lên Chúa càng lớn bấy nhiêu, người ta tin như vậy. Nhưng đào đâu ra những kẻ bất hạnh trong một đất nước hạnh phúc nhất thế giới cơ chứ? Thế là những vị hành khất ấy kéo nhau đến cổng nhà trẻ chúng tôi, mang theo nào túi, nào bị, nào giỏ. Họ mang đến cho chúng tôi đủ thứ: kẹo, bánh quy, bánh mì. Cả bánh rán, cả bánh cuốn - họ mang tới tất tật những gì họ có. Các thầy đuổi họ quầy quầy, nhưng thường là vô ích.

Các bà bảo mẫu thì khác. Cấm thì cấm, các bà vẫn lợi dụng cương vị công tác của mình để mang trót lọt "phần giỗ" cho chúng tôi qua cổng.
May mắn hơn người là những bà bảo mẫu phụ trách những đứa liệt hai chân. Các bà cho chúng tôi ăn ở một nơi riêng biệt, các thầy thì ở xa. Một bà không biết làm cách nào mà mang được qua cửa chính cả một xoong chè quả khô (4). Chúng tôi không phải chỉ là những đứa trẻ không đi được, chúng tôi còn là những đứa trẻ cực kỳ bất hạnh. Cho được chúng tôi ăn kẹo bánh là một việc làm sáng giá, hơn hẳn cho những đứa khác.

Về phía chúng tôi, chúng tôi biết rằng theo tục lệ thì khi nhận "phần cỗ giỗ" cấm nói "cảm ơn", rằng khi các bà cho ăn thì không được mỉm cười.

Tôi nằm ngoài vườn. Vườn là cách chúng tôi gọi mấy cây táo mọc bên nhà trẻ. Để bò được ra vườn tôi phải bò lâu, tôi mệt và tôi nằm ngửa ra mà nghỉ. Đám học sinh đi được ở xa, có dễ chúng đang xem phim trong câu lạc bộ, mà cũng có thể chúng được dẫn đi đâu đó, tôi không nhớ. Tôi nằm ườn chờ xem có quả táo nào rụng xuống bên cạnh không. Nhưng cái may đến với tôi còn lớn hơn nhiều.

Một bà lão khẳng khiu và khô xác leo qua hàng rào. Cái hàng rào cao hai mét không ngăn nổi bà. Từ trên hàng rào bà thoắt nhảy xuống, nhìn quanh một lượt rồi đến chỗ tôi. Bà lão thành thạo quan sát chân tay tôi, hỏi bằng giọng ngờ vực: "Thật cháu mồ côi không đấy?" Tôi gật. Bà không chờ đợi một sự may mắn lớn đến như thế: thằng bé đã quắt cả chân lẫn tay, lại còn mồ côi nữa mới đẹp chứ. Bà đặt giỏ xuống đất, lật khăn phủ, lấy ra mấy cái bánh cuốn và ra lệnh: "Ăn đi, cháu!". Tôi vội vàng ăn bánh cuốn, còn bà lão thì vừa giục tôi ăn vừa nhắc đi nhắc lại: "Cháu khấn bà Varvara đi, nhớ nhé, cháu, bà ấy tên là Varvara. " Nhưng cái may đã kết thúc mau chóng. Một cô giáo xuất hiện ở góc vườn:
- Sao lại có người lạ ở đây thế này? Ai cho họ vào, hử? Bà lão, bà làm gì ở đây?
Rồi quay sang tôi:
- Em làm cái gì thế?
Tôi làm cái gì? Tôi đang nhai cái bánh cuốn thứ ba. Tôi nhai vội nhai vàng, bởi vì trong tay tôi còn nửa cái nữa, và tôi muốn ăn hết cho kịp. Nhanh như sóc bà lão vớ cái làn, thoắt cái đã chuồn qua hàng rào. Tôi hối hả ăn nốt nửa cái bánh cuốn. Cô giáo mỉm cười bâng quơ rồi bỏ đi.
Đó là những cái bánh cuốn đầu đời của tôi.

Một lần nữa, tôi đang ở nhà trẻ này thì bị chở đến nhà trẻ khác. Ngày vui bắt đầu từ ga xe lửa. Tôi được ăn kem, được uống nước chanh. Cái kem to đùng, bọc sô-cô-la. Tàu vừa mới chuyển bánh là cô y tá và bà bảo mẫu đã bỏ "đi dạo", như cách họ nói. "Nào, ta đi dạo quanh một lát". Họ trở về, dắt theo hai người Georgie. Một ông luống tuổi, tóc bạc, ông kia trẻ hơn chút ít. Họ vui vẻ uống vodka. Họ cắt cho tôi một miếng xúc xích, cho tôi ăn trứng, uống nước chanh. Ông luống tuổi người Georgie cắt hết miếng xúc xích này đến miếng khác để làm bánh kẹp cho tôi và luôn miệng dỗ: "Ăn đi, ăn đi, cháu, trẻ con có ăn nhiều mới tốt". Thức ăn thừa mứa, cứ việc ăn thả dàn. Trời tối dần, tha hồ nhìn ra ngoài cửa sổ, tha hồ ăn xúc xích. Tôi muốn được đi mãi, đi mãi, như thế này, nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi nghĩ: giá mà cho tất cả người lớn trên trái đất này thật nhiều vodka và xúc xích thì chắc chắn họ sẽ thành người tốt hết, và tất cả trẻ con sẽ được sung sướng.

Tôi ở trong nhà trẻ cuối cùng, nó cũng là nhà trẻ tốt nhất thế gian. Trước mặt tôi là bữa sáng: một ít khoai nghiền, một nửa quả cà chua, một cái bánh nhỏ phết bơ và một cốc trà. Tôi biết chắc hôm nay không phải ngày hội, không hiểu sao người ta lại cho ăn khoai tây nghiền? Tôi nếm một ngụm trà - nó ngọt mới lạ chứ. Cà chua sống là một món ăn tuyệt trần. Tôi ăn nhẵn mọi thứ và tôi hiểu rằng tôi may mắn vô cùng, tôi đã tới thiên đường.

Tôi và Katia sống trong một căn hộ dưới tầng hầm nửa chìm nửa nổi, bởi cha mẹ nàng không chịu thừa nhận hôn thú của hai đứa. Đó là căn hộ của bà giáo tôi - một trong những người đàn bà tốt bụng nhất thế gian. Bà giáo nhường nhà cho chúng tôi, còn bà thì dọn ra nhà vườn (5).
Trên đường tới trường đại học tổng hợp, Katia mua một hộp vằn thắn. Nàng nấu một lần hết nhẵn cả hộp. Tôi đã biết vằn thắn là gì. Ở nhà trẻ, mỗi đứa chúng tôi được bốn cái một bữa.
- Chúng mình ăn mấy cái đây, em? - tôi hỏi Katia.
- Sao, các anh đếm từng cái à?
Nàng dọn vằn thắn ra. Katia ăn cả đĩa, tôi thì không sao ăn được quá sáu cái. Tôi hiểu rằng trong cái thế giới phi quốc doanh lạ lùng này người ta ăn vằn thắn không cần đếm.
- Đừng đổ nước luộc vằn thắn đi nhá. - tôi thành thạo khuyên Katia - Có thể dùng để nấu canh đấy.
Mấy hôm sau về nhà bố mẹ, Katia lại được ăn món vằn thắn. Mẹ nàng chực mang xoong nước luộc vằn thắn đi đổ.

- Mẹ ơi, đừng đổ đi, dùng nó nấu canh được đấy. - Katia máy miệng nói.
Ngày hôm sau, khi Katia rời khỏi nhà đi học, mẹ nàng len lén đến chỗ ở của chúng tôi, đặt trước cửa một con gà tươi. Thế là băng đã tan.

Katia đi làm, tôi ở nhà một mình với một phụ nữ tuyệt vời. Đó là bà của Katia. Bà ở cùng căn hộ với chúng tôi. Bà thường vào phòng tôi, ngồi đối diện với tôi:
- Thế nào, cháu ơi, bao giờ thì cháu ngoẻo đấy hở cháu?
- Chưa đâu, bà ơi. - tôi đáp - Đến lúc cần ngoẻo thì cháu ngoẻo thôi. Như bà đấy, bà cũng còn trẻ trung gì đâu. Hay bà định sống vĩnh viễn?
- Cháu thế kia thì sống mà làm gì? Tay không, chân không.
Đóng một cái đinh cũng không nổi.
- Bà có bút chì tím (6) không?
- Có.
- Vậy thì bà cứ đi khắp nhà này đi, chỗ nào cần đóng đinh thì bà đánh dấu vào. Cháu không nói khoác đâu, rồi đinh sẽ được đóng đâu ra đó cho bà xem.
Cứ thế chúng tôi tiêu thời gian trong những câu chuyện tâm tình. Bà kể cho tôi nghe về thời trẻ của bà, về họ hàng nhà bà. Cứ theo lời bà thì họ hàng bà rặt một lũ đểu cáng và khốn nạn.
Một lát sau bà vào bếp, loảng xoảng xoong chảo. Bà đến chỗ tôi:
- Ruben ơi! Bà nấu canh dưa cải đấy. Cháu ăn không, hay sợ bà đầu độc?
- Bà cứ cho cháu ăn, cháu chẳng sợ bị đầu độc đâu, cháu ăn chán vạn thứ trên đời rồi, chẳng riêng gì món ấy.
Bà mang canh dưa cải vào. Canh ngon. Dưới đáy đĩa là một miếng thịt vịt to.

Hồi Alla có mang, chúng tôi sống cực lắm. Alla ăn bánh mì với mỡ nước. Tôi không ăn chất béo được, tôi ăn bánh mì với dầu hướng dương. (Ở nhà trẻ bánh mì rưới dầu hướng dương có rắc muối được coi là một món sang). Năm ấy, lần đầu tiên trong đời, tôi bị đau dạ dày. Chúng tôi còn có súp đậu nữa. Alla không ăn súp, tôi ăn một mình. Tôi nhẹ hơn nàng gấp trăm lần, tôi có thể ăn súp mà không có chửa. Khi cháu Maia ra đời, Alla quyết định nuôi cháu bằng sữa mẹ. Tất nhiên, nuôi tự nhiên như thế tốt lắm. Khốn cháu nó lại không chịu bú. Sữa của Alla có màu lơ lơ xanh. Phân của cháu Maia cũng có màu lục. Suốt thời gian nuôi con Alla ăn độc một món khoai tây. Alla khoẻ mạnh, nàng cần được ăn hơn tôi rất nhiều. Tôi ăn cả ngày mới bằng một bữa của nàng. Chúng tôi quyết định chuyển sang nuôi cháu bằng sữa bò. Như thế rẻ hơn là bảo đảm cho Alla chế độ ăn uống bình thường.

Một người quen đến chơi.
- Cậu sống ra sao?
- Cũng thường.
- Hàng ngày cậu ngày ăn gì?
- Súp đậu.
- Với khoai tây chứ?
- Tất nhiên.
- Chúng tớ thì đã hai tuần rồi toàn ăn súp đậu không có khoai tây.
Tôi mới ăn súp đậu ba ngày. Tôi còn cả một bao tải khoai tây.

Cháu Maia được một năm rưỡi. Nó không chịu ăn cháo mạch. Tôi bình thản cầm lấy đĩa cháo của cháu, ăn nốt. Thoạt đầu, Maia đòi ăn xúc xích, sau lại đòi bánh có gia vị. Ở nhà không có cả hai thứ, nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Đói thì ăn tuốt, không ăn thì nhịn (nguyên tắc của nhà trẻ). Maia đi đi lại lại trong nhà, suy nghĩ. Rồi nó lẳng lặng đến bên mẹ và nói: "Mẹ ơi, mẹ luộc khoai đi". Chúng tôi ăn khoai với dầu hướng dương. Tôi nhớ ở nhà trẻ sau hiệu lệnh báo ngủ chúng tôi luộc khoai bằng cái ấm đun nước tự tạo. Việc mà sau mười lăm năm tôi mới đến được với nó (chỉ có các anh lớp trên mới có quyền luộc khoai) thì cháu Maia vừa ra đời đã có.

Alla dẫn cháu Maia đi vườn trẻ. Nàng cười. Gặp bà cấp dưỡng. Bà cấp dưỡng khoe bữa trưa ở vườn trẻ hôm nay có những một con gà. "To đùng, béo mượt, mỗi đứa được những một miếng đấy". Vườn trẻ có hơn một trăm đứa. Mà gà thì có mỗi một con, nói cho đúng hơn, một con rưỡi. Tôi cũng cười. Tôi vui vì con gái đã đi vườn trẻ. Ở đó nó sẽ có nhiều bạn, chúng nó sẽ cùng nhau học nặn bằng plastilin, chúng nó sẽ cùng nhau vẽ bằng sơn màu. Hơn nữa, ở vườn trẻ về, cho ăn gì Maia cũng ăn tuốt, không oẻ hoẹ nữa.

Trên đường từ vườn trẻ về, Maia đòi mẹ mua đường viên. Đường viên thường, có mùi va-ni.
- Sao con lại thích đường viên, hở? Bố mẹ đang có tiền đây, con có muốn mẹ mua kem cho con hay mua thứ gì khác không?
- Ứ ừ, đường viên cơ.
Alla mua đường viên. Maia ngồi vào bàn, suốt buổi tối nó gặm đường viên. Té ra là nửa ngày nó mới được vườn trẻ cho một viên, mà nó còn muốn ăn nữa. Ở nhà trẻ của chúng tôi mỗi đứa được những hai viên.

Hồi tôi ở nhà già (7), có một điều làm tôi rất ngạc nhiên. Chúng tôi được phát xương sau khi ăn xong, ngay tại phòng ăn. Đó là những mẩu xương bò thường còn lại sau khi nấu súp. Chỉ các cựu chiến binh mới được phần xương. Xương được nạo kỹ, nhưng khéo tay thì vẫn moi được ít thịt. Các cựu chiến binh xúm xít quanh ô cửa, nơi người ta phát xương. Họ cãi nhau, phô phang công trạng và quân hàm. Mới đây, tôi hỏi một anh bạn thời nội trú xem vụ xương bò ở đó giờ ra sao, vẫn được phát đấy chứ?
- Làm gì có. Đã lâu nhà bếp không nấu súp có xương nữa. Đào đâu ra?

--------

Chú thích:
(1) Pushkin, Alexandr Sergeyevich (1799-1837), nhà thơ cổ điển của nền văn học Nga.
(2) Buchenwald, trại tập trung của phát-xít Đức ở tỉnh Neustrelitz (CHLB Đức).
(3) Cũng như "nhà trẻ", "nhà già" trong cuốn sách này không có nghĩa là nhà dưỡng lão trong quan niệm thông thường. Nó được tác giả làm rõ trong các chuyện kể.
(4) Kixel là một thứ chè hơi đặc, tương tự chè bột sắn dây của Việt Nam, nấu với hoa quả tươi và khô.
(5) Dacha - nhà nhỏ ở ngoại ô, thường để dùng trong mùa hè.
(6) Thứ bút chì nếu thấm nước bọt thì ra mực
(7) Xin đừng vội hiểu như nhà dưỡng lão bình thường.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 24578)
Khởi đầu từ một giấc mơ./ Ngày mãi mãi bắt đầu với mặt trời mùa xuân đầy hứng khởi
21 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 25099)
Cứ mỗi lần lật lại truyện ngắn của Trần Vũ, là tôi nhớ đến câu thơ của Mai Thảo: “Dậy đi! Dậy hết thành dông bão / Nhảy dựng ngang trời thế đá tung”. Ý thơ của Mai Thảo nói đến một điều khác
20 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 27917)
Núp sau hiên khuya non/ Là ý kinh xưa, biếc
19 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 24885)
Hãy ra chỗ Thúy Tân Định lấy chai Chivas/ về quán Đò Đưa trên đường Trịnh Công Sơn
18 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 23255)
Đêm ngồi trông tuyệt mù địa tận/ Ngơ ngác một mình lạnh thấu xương
17 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 26328)
Không phải chỉ để chờ những bữa cơm mẹ/ trên ngọn đồi trọc
13 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 33038)
Táo Tàu hẹn chín trên cây/ Lỡ chưa kịp hái vào tay ai rồi
10 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 25582)
Em là nàng Sawisna của Kramskoi/ Chết trong tuyết bỗng hiện lên khung vẽ
09 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 21946)
Cần phải nhắc lại với người viết truyện rằng: không phải tác giả viết nên tác phẩm mà tác phẩm tự xác định qua người viết, và cho dù sáng suốt đến đâu người viết cũng trải qua một kinh nghiệm vượt quá sức mình.
08 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 23781)
Vẫn giòng sông/ Vẫn cánh đồng
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17068)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12276)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18998)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9181)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8360)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 623)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 995)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1186)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22480)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14019)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19188)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7905)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8823)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8504)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11072)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30723)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20821)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25518)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22916)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21739)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19798)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18060)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19261)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16926)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16118)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24515)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31963)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34938)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,