Lẽ Ra... Mùa Mận

02 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 21113)
Lẽ Ra... Mùa Mận

 mecon-tranhmau-content-content 

 Một

 

 Dù nghịch với cô, má tôi vẫn gởi tôi qua nhà cô những ngày lễ hoặc cuối tuần. Miết sau này, khi đã trưởng thành, tôi mới biết đó là những ngày nhà tôi thiếu gạo.

 

 Cô tôi thấp choắt, lanh lợi, có thể vừa nhai trầu bõm bẽm vừa chửi bới tru tréo. Cô làm lụng quần quật như trâu đểø cho vay lấy lời cắt cổ. Cô chắt mót từng đồng cắc, thuộc loại người mà má tôi châm chọc là vắt chày ra nước. Làm mọi cho cô để đổi cơm, ăn ngủ tại chỗ, lớn lên chút nữa thì có vợ có chồng rồi đẻ đái luôn ở nhà cô, là mấy đứa cháu kêu cô bằng cô bằng dì. Họ từ ruộng hạn đồng khô ra tỉnh.

 

 Tôi thuộc một dạng khác. Tôi thường theo anh Chắt lủi sâu vào những đám lá tối trời, những nghĩa trang hoang quạnh lau sậy um tùm, lùng hái rau mơ về pha màu bánh lá. Bánh lá làm từ bột pha nước cốt rau mơ có màu lam buồn. Tôi biết xắt chuối cây trộn cám cho heo. Riêng chuyện xay bột tôi không thể dù có cố gắng ít nhiều: đầu tôi chỉ cao vừa ngang mặt cối đá. Còn việc này, bây giờ nhắc lại tôi vẫn còn ghê ghê: gãi gầu và nhổ tóc ngứa cho cô.

 

 Cô có một số con nợ trong cư xá. Dượng làm chức quản cơ, lại có quyền giám sát Cư-Xá-Gia-đình-Cảnh-sát-Hương-thôn này. Tuy gọi là hương thôn nhưng nó lại nằm ngay trong phố, sát trường trung học nữ Mỹ Tho, gần sân vận động tỉnh. Cô dượng không có con chung. Tôi nghe nói mù mờ là mỗi người đều có con riêng ở xa. Tôi nghĩ dượng biết đọc, dù rằng tôi vẫn phải đọc tờ Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia cho ông nghe trong khi ông lơ mơ ngủ trưa. Năm đó tôi mới thi đậu lên trung học. Trong họ hàng nhà tôi, học tới đó được coi là có chữ có nghĩa dữ dằn rồi. Thuộc bản cửu chương đã là thông thái, biết thêm chuyện thành tây có cảnh Bích Câu như tôi thì muôn phần quảng bác. Dượng khen chữ tôi đẹp. Có lần ông đọc để tôi viết thư lên ai đó kêu oan việc ông bị thả thư rơi tố cáo ăn hối lộ. Tôi nhớ ông dặn đi dặn lại mấy lần, không được quên câu “Xin quan lớn mở lượng hải hà, đèn trời soi xét, con xin hậu tạ.”

 

 Buổi tối, tinh anh phát tiết sớm của tôi được khai thác một cách nhẹ nhàng, lãng mạn hơn: tôi thường đọc thư tình cho chị Tầm dưới chái bếp, chỗ chị ngủ, sát vách chuồng heo. Chị người ngoài họ, ở đợ trừ nợ cho má. Người yêu chị năm đó làm binh nhất gác cổng căn cứ không quân Biên Hoà. Thư anh viết về cho chị lần nào cũng kết thúc bằng câu “Hun em một ngàn cái”. Lần nào tôi cũng mắc cỡ mà cố tình bỏ qua câu này. Nhưng mấy người trai gái yêu nhau hình như có thần giao cách cảm hay sao đó! Chị cứ nhéo đùi non tôi, kỳ kèo: “Đó, chưa hết đâu, sao em đọc nhảy vậy! Chưa, chị biết em đọc còn thiếu mà! Thôi, ráng đọc cho đủ đi cưng, chị cho trái chuối cô Tư mới dú. Chỉ có mình chị biết chỗ dấu.” Nằm chung giường với chị, nghe ké cải lương từ chiếc radio Phillips sáu đèn trong phòng ngủ cô dượng là đã khoái, gặm thêm chuối muồøi thì còn gì thích hơn! Tôi gồng mình, mím môi đọc câu đó cho chị. Lớn lên, dù có nhiều lần dại dột viết thư tình, tôi tự hào chưa bao giờ điên tới độ viết một câu u ám như vậy.

 

 Hai

 

 Tới khi cô mua được mấy mẫu đất ở Trung Lương thì mọi chuyện có phần hơi khác. Đất mới, trồng mận, ao đìa nhiều hơn liếp. Ngò tây mọc chen cỏ vòi voi và rau muống bò ngợp ao đìa. Buổi sáng dượng chở cô trên chiếc Vespa từ Mỹ Tho ra Trung Lương chăm vườn. Thời đó có được chiếc Vespa là hách xì xằng lắm. Tôi, ngày nghỉ học, sáng đi chiều về bằng xe lam. Tôi biết thêm tát mương bắt cá, nuôi cá tra bằng cám trộn mận rụng, làm cỏ vườn và đọc tạp chí Hương Quê học cách chiết cây, tháp cành.

 

 Mận Trung Lương nức tiếng hồng đào, đi khắp Sài Gòn và lục tỉnh. Tôi mê mùa mận chín. Dưới những tán mận trĩu trái, lũ ve ran tiếng ca hè. Mận có nhiều loại nhưng người Trung Lương chuyên trồng mận hồng đào và mận da người. Mận hồng đào trái tròn, đỏ rưng rưng. Mận da người thon thả, chín ưng ửng màu da con gái. Hồng đào ngọt lịm, da người ngọt thanh. Tôi cùng dượng và những người hái mận dần công lúi húi dưới những tán cây rậm lá. Thỉnh thoảng, từ cuối vườn, gió đưa tiếng cô đốc thúc, chửi bới, đay nghiến lũ cháu và giọng lầm rầm trả treo của đám lái buôn trái cây.

 

 Căn nhà vườn của cô tôi lần lần thành hình. Đó có thể nói là một trong những ngôi nhà bề thế nhất vùng: mái ngói, nền cao tới ngực, lót gạch bông, vách bổ kho. Khu vực thờ ông bà nội tôi chiếm vị trí then chốt trong căn nhà mênh mông. Tất cả mọc lên từ những trái mận hồng đào. Dựa vào cái cơ ngơi phòng kho bề bộn giữa vườn mận sum suê này, cô tôi củng cố thêm uy thế của mình trong họ tộc. Người bên nội tôi tấp nập về đây những ngày lễ giỗ. Riêng má tôi, chưa bao giờ tôi thấy bà lui tới Trung Lương. Nhịp cầu liên hệ dành cho tôi, vị sứ giả của hoà bình và hữu nghị.

 

 Những lúc rảnh tay, tôi và dượng lén chơi cờ tướng. Ông chơi cờ dở, lại hay hồi nước. Tôi thì hiếu thắng, thường nện ông thẳng tay. Ông cay cú, hay đòi chơi thêm để gỡ gạc, nhưng khi cô tôi đằng hắng từ xa thì ông biết thân, tiu nghỉu hẹn hôm khác. Có bữa ông dắt tôi vào buồng kín, nơi ông dấu bình rượu thuốc. Dượng cháu mỗi người hai ly trước khi ăn cơm. Tôi biết uống rượu từ đó.

 

 Tánh cô nghiệt ngã nên chị Bo phục dịch cô nấu ăn khá. Chị là chị họ tôi, con cô Sáu. Thì cứ cho làø ngon, đối với một đứa nhỏ thiếu ăn như tôi! Nhưng một hôm phát giác hai bàn tay, và cả hai cánh tay của chị Bo nữa, đầy ghẻ ngứa, tôi đâm kén ăn. Nhìn chị ngồi tênh hênh gọt khoai mỡ rồi đập nhừ, lâu lâu ngưng dao, hít hà, gãi gãi tới tưa máu mấy mụn sần trên mu bàn tay, tôi thề suốt đời sẽ không ăn canh khoai mỡ.

 

 Những người nuôi ong thường hay đem đồ lề tới vào đầu năm, khi vườn mận mới bắt đầu mùa hoa. Cô tôi có phần dễ dãi với thợ nuôi ong: ong giúp cho mận đậu thêm trái. Khi bầy ong tất tả đi đi về về đánh mật hoa, những người nuôi ong nấu nướng, ngồi uống trà khan dưới bóng râm. Họ ở lại năm ba ngày trong những lều vải. Cô tôi thường than vãn: “Mấy ông nuôi ong còn có mật, tui ngu mới làm chuyện nuôi ong tay áo. Nuôi một lũ cháu chẳng nhờ được đứa nào.”

 

 Ba

 

 Tôi ít gặp ba tôi, người em út của cô. Có thời ổâng đi lính com măng đô, bị thương ở đèo An Khê. “May quá, nhờ vậy mà tao không bị trấn ra Điện Biên Phủ”, sau này ông hào hứng kể. Thời Ngô chí sĩ chấp chánh, ông làm hương quản gì đó, đâu ở miệt Vĩnh Kim, sau lại từ giã chính trường, chuyển sang quân đội, phục vụ trong Bảo An Đoàn. Coi lại những tấm hình ông thời trai trẻ, khó nói là ông được trai. Nhưng ông lại có thói trăng hoa và được số đào hoa. Do vậy mà tôi có tới gần hai mươi anh em không rõ mày mặt. Ông cứ lãng bạt kỳ hồ, khi đi khi về. Sau mỗi bận ông về ít lâu, tôi lại có thêm một đứa em ruột. Và lại nghe phong phanh một dì hai nào đó, ở đâu đó, đang ở đẻ.

 

 Tôi thích sống xa ông vì ông cấm tiệt anh em tôi không được đọc tiểu thuyết. Đối với ông thì cứ hễ sách là tiểu thuyết, chẳng được cái tích sự gì. Vậy mà có một hôm tôi bắt quả tang trong xắc ma ranh của ông quyển Hồn Bướm Mơ Tiên với lời tặng ở trang đầu: Gởi anh Út- Thương nhau mới tặng sách này- Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau- Dù cho sách có nát nhàu- Cũng đừng thay dạ đổi lòng mới hay!!! Tôi thắp đèn dầu đọc đi đọc lại quyển sách trong tiếng ngoét ngoác à uôm của ếch nhái ểnh ương. Hồi đó thành phố còn hoang quẽ, hẻm sau xóm tôi còn con kinh đục ngàu hai bờ lúc nhúc nhà sàn, trại mộc, trại hòm. Chỉ cần một trận mưa đêm, nước rác ngập lềnh con lộ đá. Tôi lén lút đọc sách là bởi ba tôi nghiêm cấm: thường thì tôi khoái làm trái lời ông! Vậy nếu dạo ấy ông khuyên tôi đọc sách thì sau này ít ra tôi cũng là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Tỉnh. Dĩ nhiên ông liệt vào ngoại lệ những quyển sách giáo khoa mà má tôi đã tảo tần hết sức để mua cho chúng tôi.

 

 Nếu có người nào trong anh em mà cô tôi có tỏ ra để tâm chăm sóc một chút, thì đó là ba tôi. Cũng dễ hiểu: tôi chưa hề thấy cô bước ra khỏi lãnh địa nhỏ bé của mình. Một tuần cô chỉ ra chợ vài bận, hỏi đon hỏi ren giá cả để coi chị Bo có gian lận tiền mua thức ăn mỗi ngày không. Đối với cô, ba tôi là người lịch duyệt sông hồ.

 

 Lâu lâu tôi gặp người bác thứ năm từ khu kháng chiến nào đó dưới Cai Lậy lên thăm cô. Ông nhậu dữ! Bên họ nội tôi ai thịnh đạt đường phụ nữ thì thường suy kém mặt nhậu nhè. Và ngược lại. Bác Bảy tôi chết trẻ vì uống nhiều rượu. Một sớm người hàng xóm phát giác xác ông nằm duới mương, mùi xác mùi sình không át được mùi rưọu đế. Bác Chín tôi chết chưa kịp già vì có nhiều vợ. Ông gây gổ sao đó với một trong mấy đứa con trai, con riêng của một trong những bà vợ nhỏ, bị nó đập một cuốc lên đầu chết tốt. Riêng Bác Năm tôi sung cả đôi đường. Người vợ lớn của ông tuy quê mùa nhưng rất rành nghề cờ bạc. Một hôm phát hiện ra chỉnh vàng ông chôn bị đào lên, mấy lượng vàng y biến mất, ông chém bà một rựa chết tươi. Vừa được chôn cất xong, mấy người đàn bà đi chợ sớm hớt ha hớt hãi báo rằng bà hay hiện về trên đầu ngọn tre, đưa võng kẽo kẹt, ru con ầu ơ. Tin là bà chết trúng giờ linh, người làng Long Khánh lập miếu thờ. Phần Bác Năm tôi, mãn tù mười năm ra, cáp liền một bà nhỏ hơn ông tới hai mươi tuổi.Coi ra ông cũng là người có học: biết hò huê tình và biết hát Vân Tiên. Cô hỏi: “Mày cũng có ít vốn rồi, sao không bán ruộng ra thành tránh bom đạn, lại có dịp làm ăn lớn?” Ông tu cạn một ly xây chừng rượu đế, nuốt ực rồi trợn mắt: “Thôi đi chị ơi, gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới thấp mà chồm lên cao!” Chắc ông nói mỉa! Tôi chưa thấy ai, ngoài ông, dám trợn mắt với cô tôi. Tôi không đểù ý chuyện ông theo Việt Cộng, vài bữa đi bứng đồn nhổ bót một đêm, như lời ông kể. Tôi khoái ông vì tính tình ruột để ngoài da, nhưng cũng bực ông bởi mỗi khi hỏi ông chuyện thời sự nhân tình, ông chỉ khoác tay: “Lo chi chuyện đó mà lo- Kiến trên miệng chậu có bò đi đâu…”

 

 Bốn

 

 Tôi lớn mau rồi xa gia đình sớm. Những ngày phép lính, về Mỹ tho, tôi không hề ghé thăm cô. Một lần, má tôi nói cô nhắn gấp.Nghe đồn hồi này tụi du kích về Trung Lương lai rai nên tôi phải cẩn thận thay bộ quần áo trận, đi xe lam vô gặp cô. Thì ra cô định tính chuyện tôi với con nhỏù nào đó bên kia rạch Đạo Thạnh. Cô nói có bàn chuyện đó với ba má nó rồi. Nói thiệt, lần đó, tò mò, tôi có kêu đò qua con rạch lúc nhúc bông lục bình để tự mình coi mắt con nhỏù. Dĩ nhiên nó không biết và không thèm để ý đến thằng con trai là tôi đang đi đi lại lại lớ xớ trên bờ đò. Con nhỏù đứng dưới gốc mận hồng đào. Nhụy hoa mận trắng li ti cứ theo gió bay, vướng đầy tóc nó. Tôi nhớ Thôi Hộ xưa có một người thơ bên những áng hoa đào. Nhưng tôi không hứa hẹn gì với cô tôi hết: tôi cứ nhìn gương ba tôi mà phát lạnh! Tôi không muốn làm ai phải khổ. Nhiều lần, trong đời, tự thâm tâm, tôi rất kiêu hãnh về cá tính mình.

 

Năm

 

 Mà thiệt, kiến trên miệng chậu có bò đi đâu… Không biết đối với những người khác thì biến cố đó có ý nghĩa gì chứ riêng với tôi, và những nhân vật tôi nhắc đến ở trên, thì cuộc đổi đời đó thật là dễ sợ. Ba cha con, là ba tôi- anh tôi và tôi, người ngồi tù trên Bảy Núi, kẻ bị giam miền cao nguyên, đứa đi cải tạo miệt Đồng Tháp. Nói nào ngay, năm đó ba tôi đã giải ngũ sớm. Nhưng ông có chịu ngồi yên đâu! Ông thống lĩnh một đội banh nữ ở một huyện biên giới, Châu Phú hay Tri Tôn gì đó, nghe nói thuờng xuyên đi đấu giao hữu khắp miền. Không biết đội banh nữ của ông có đạt được thành tích nào đáng kể không chứ với cương vị huấn luyện viên, ông đạt được một thành tích lớn: đá tung lươí một nữ cầu thủ trong đội, người mà sau này tôi có vài dịp gọi bằng dì hai. Dì nào đối với tôi cũng là dì hai hết! Bởi đội banh đó mà khi Việt Cộng thắng trận ông bị ghép vào thành phần… Thiên Nga! Không kỳ cục chút nào hết! Ông không táng mạng là phước bảy đời!

 

 Ra tù, ba tôi lững thững vác bao bị trở về Trung Lương, chia lại một nền nhà từ ngôi vườn cô tôi. Ông không có gì thay đổi, vẫn thỉnh thoảng nhắc tôi đừng đọc sách báo. “Tụi mày là con mà chẳng bao giờ giống tao. Suốt đời tao có đọc sách báo gì đâu mà sao vẫn sống thọ?” Năm đó ông chưa tới sáu mươi, ý chừng cho rằng trong chiến tranh mà sống sót tới tuổi đó là đã đủ mãn nguyện rồi. Tôi năm đó vừa ba mươi, muốn trả lời ông rằng tôi được tuổi này cũng là quá thọ. Lại e là hỗn, nên thôi!

 

 Căn nhà cô tôi ngày một hoang tàn. Nghe đâu dượng đau bệnh sao đó, bất trị. Một sớm cô phát giác dượng treo cổ lên xà nhà. Có tiếng đồn xa, xì xầm rằng cách đối xử của cô làm dượng uất. Đó là lúc tôi đang nằm trong trại cải tạo. Con cháu cũng tản xa, chỉ còn chị Bo. Chị có chồng, xẻ thêm một miếng đất của cô, dựng nhà sát bên. Phần vườn còn lại cô bán lần, ba tôi nhờ dành dụm mua được một ít, còn thì vô tay người lạ. Căn nhà thì sống ngắc ngoải. Và do đó chết uất nghẹn hơn. Trước hết cô bán gạch nền, sau đó phần vách ván, cuối cùng là ngói. Thoạt tiên là ngăn nhà thờ ông tôi bốc hơi. Rồi đến ngăn nhà khách… để cuối cùng thì cô còn lại cái chái bếp không rộng hơn cái chuồng heo, vách lá, mái che tôn vụn. Ngôi nhà bị lóc dần da, thịt, rồi xương. Như con trâu già bị thịt.

 

 Dậu đổ bìm leo, cô ăn ngủ không yên, lại thường đau bụng. Sau khi mổ hai lỗ thăm dò mà không kiếm được nguyên nhân, người ta để mặc cô rềân rĩ suốt ngày. Tưởng thế nào cô cũng tiêu đời, anh Bo xích lô, chồng chị Bo ghẻ ngứa, đem xe vô nhà thương lén chở cô về chờ mai táng. Vậy mà cô có chịu chết đâu! Cô lành vết mổ, nhì nhằng chì chiết, nguýt hái xỏ xiên má tôi một thời gian nữa rồi mới chịu từ giã cõi đời. Tôi nhớ đó là một buổi sáng vườn nhà rụng đầy hoa mận trắng.

 

 Người em cô, ông bác Năm hay ngâm Lục Vân Tiên của tôi, đã chết mấy tháng trước. Con ông, anh Chắt, người tôi đã kể hay chở tôi đi hái rau mơ hồi nào, suốt ngày nhậu nhè, chửi đổng và nói chuyện đóng tàu vượt biên. Chắc là tàu giấy! Có bao giờ anh có được một khoanh vàng lận lưng?

 

 Chị Tầm thì cuộc đời coi vậy mà cũng không được bằng phẳng. Trong chiến tranh thì chị với anh binh nhất không quân đi đi lại lại, tới ngày hoà bình anh về thì chị đã gởi ngoại hai cháu. Phiền là sao lúc người ta thụt thò lén lút với nhau thì yên vui là vậy mà khi vai kề má dựa dài dài thì nảy sinh biến cố. Không biết vì lý do nào đó, anh bỏ một ngàn cái hun chạy lấy người. Hồi ở trại mới về, tôi có qua Giồng Trôm Bến Tre quê chị để thăm. Lúc đó chị lại có chồng, nguyên trước kia là du kích xã, mới vừa bị điều động sang Kampuchia. Chị khóc rấm rức, “Ước gì còn như những ngày xưa, chị em mình nằm nói chuyện tào lao, dù cho ở góc chuồng heo nhà cô Tư cũng được.” Tôi cũng nghe nghèn nghẹn, không hiểu tại sao. Qua những năm lính năm tù, tôi tưởng mình đã trở thành thằng con trai chai đá lắm!

 

 Sáu

 

 Mùa hè xưa, trong ngọn gió hâm hấp nóng, vườn mận bắt đầu ửng chín. Sau mỗi trận mưa đêm, sáng ra, dưới ánh nắng rưng rưng, vuờn mận như đổi thịt thay da thấy rõ. Những chùm mận tháng tư chín đỏ mọng nước. Một mùi thơm thoang thoảng đâu đây. Bầy chim trao trảo kéo về nhảy nhót, kêu lảnh lót khắp vườn. Chúng đến để chia mận ngọt đầu mùa. Hết kỳ bãi trường, mùa mận lại qua đi, vườn mận thêm những cây già cỗi, không còn cho trái sai như mùa trước. Gần bên gốc những cây mận lão người ta đặt sẵn cây con. Ngày nào đó, khi gốc già bị loại bỏ, cây mận con sẽõ bắt đầu cho trái chiến. Tôi là một thứ cây con không chịu ăn rễ đất này. Tôi muốn trổ lá đâm cành ở một bầu trời khác. Trong tôi, những kỷ niệm vui buồn thuở nhỏ đã ít nhiều rơi rớt. Chùm hoa mận trắng đã mờ nhạt trong tâm hồn tôi bạc bẽo cùn mằn.

 

 Cây mận Trung Luơng đã có lúc mang lại sự ấm no, sung túc cho người. Nó đã làm nên cơ ngơi cô tôi. Còn bây giờ, nó phơi trần sự nhỏ nhoi và bất lực trong việc làm ra miếng cơm manh áo. Tôi giật mình khi nghe kể đem một tụng mận ra chợ, cả ngày cầy cục bán đổ bán tháo, bán hết, cũng chỉ đổi được một lon gạo. Không đủ nấu cháo một bữa! Trúng mùa mận, nhìn mận rụng đầy gốc, tiếc nhưng chẳng làm được gì. Giá rẻ mạt mà không lái nào tới mua. Một số nhà vườn đã đốn gần hết mận. Số phận cây mận mong manh như cuộc sống của những người đang trông cậy nó.

 

 Cái đói xồng xộc tới thăm nhiều nhà. Người ta dửng dưng nhìn những gốc mận lão chết lần mà không màng trồng lại mận con. Đó cũng là bi kịch của vú sữa Vĩnh Kim, ổi xá lị Mỹ Thuận, cam sành Cái Bè, những loại cây trái phù phiếm không vực nổi phận người. Cây trái nhiều loại khác thực tế và do đó kinh tếù hơn. Khu vườn nhà tôi mỗi ngày một thưa thớt mận. Ba tôi còn giữ vài cây làm cảnh chứ trong làng ngoài xã mọi người đã lên liếp trồng khoai. Rồi cao lương. Rồi cảm khung chỉ để làm thuốc dân tộc. Rồi bạc hà để lấy tinh dầu… Nhiều năm liền lụt về Trung Lương, Cai Lậy, Cái Bè, Mỹ Thuận. Không phải nước sông Tiền leo bờ mà nước từ Đồng Tháp tuôn ra. Đó là thành quả của những kế hoạch đào kinh tưới kinh tiêu!

 

 Người ta bán cây mận làm củi. Ba tôi tiếp tục đốn nữa. Tôi đòi ông chừa lại gốc mận hồng đào mép cầu ao. Cây mận như vị lão tướng cuối cùng còn sót lại của một binh đoàn đang ùn ùn rã ngũ. Cô đơn. Buồn bã. Nhiều khi ghé vô thăm má, trời lộng gió, ngồi đưới những bông hoa mận rụng trắng đầu, tôi thử ráng mường tượng lại bức tranh thời niên thiếu. Nền bức tranh loang lổ đó là cái bệt màu xám xịt ghê khiếp: cái cảnh mấy đứa nhỏ làm mọi trừ nợ, kiếm cơm, suốt đời tính toán bằng năm ngón tay chai sạn.

 

 Bảy

 

 Từ Mỹ tôi về… Sau nhiều năm tôi trở về thì cây mận lão cuối cùng đó cũng không còn nữa. Thời gian mà, tùng bách rồi cũng thành củi khô, biển còn hóa thành ruộng! Cái ao có bắt nhà cầu nuôi cá trê phi ngày nào đã được lấp bằng làm chuồng bò. Thằng em tôi ngày nào còn chạy lông nhông ngoài ngõ bây giờ đã là một trang hán tử chăn bò. “Thoạt đầu còn mương còn ao, còn thả cá, chăn vịt. Sau này chuyển sang gà, heo. Rồi dê, bò. Mình phải nhanh nhạy với thị trường, nếu không muốn đói. Cái gì cũng có phong trào. Anh biết nếu bán bầy dê trễ mấy ngày thì coi như cụt vốn.” Những vườn mận Trung Lương từ năm não năm nao đã tụt hậu với phong trào, bất lực khi giải quyết vấn đề bao tử. Cái chết đáng đời, không có gì tức tưởi! Ở vườn sau, một vài gốc cà phê nấm ăn vàng lá, là những gì còn sót lại của một phong trào nữa vừa tàn lụi. Tôi nói thèm mận hồng đào, bữa trưa đứa em dâu đem về một rổ hồng đào Thái Lan.

 

 Chị Bo ghé qua thăm tôi, hỏi chuyện nuớc ngoài. Nhòm chị như một bà lão hom hem, nếu tình cờ gặp giữa đường đố có nhận ra. Tóc chị bạc, hẳn nhiên. Đầu chị hói, điều tôi ít thấy ở phụ nữ. Chuyện trò, lâu lâu chị lại gãi gãi cánh tay và kẽ giữa những ngón tay. Lạ, tất cả mọi sự đều thay đổi, trừ chứng ghẻ ngứa của chị! Tôi bỏ ý định đòi má tôi buổi chiều nấu canh khoai mỡ nêm rắc ngò ôm ăn với cá lòng tong kho tiêu. Chị kể chuyện anh Chắt về sau lấy vợ quê nhưng khá giả. Nhân lúc đất hẹp người đông, anh bán hết mấy công mận cho người ta xây phố, rồi tiếp tục nhậu nhè và chửi đổng cho tới lúc chết năm ngoái vì bệnh gan.

 

 Lẽ ra bây giờ là mùa mận! Nhà cửa san sát trong ngôi vườn cô tôi xưa, che khuất khu đất nghĩa trang gia đình, nơi hàng năm tôi sơn và tô chữ lại mộ chí ông tôi. Tôi biết côâ nằm phía dưới chân ông, bên cạnh dượng: cô dượng đã chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi từ hồi tôi còn con nít. Ba má tôi không ai nhắc tôi ra thăm mộ. Còn tôi, cứ lần lữa mãi cho tới ngày lên máy bay, đành hẹn lòng chuyến sau.

 

 Trong suốt những ngày về, tôi không hề muốn gặp lại những người quen cũ, những người một thời có dính líu tới cuộc đời tôi, hiện đang còn cắm rễ đâu đó trên vùng đất này. Tôi hiểu sự đổi thay không ngờ của mình. Tôi hiểu tôi là một thứ người phụ nghĩa bạc tình đáng ghét. Cũng có thể bởi tôi hình dung ra được sự đổi thay của người khác. Mỗi người tự nhích xa mình một chút, giữa chúng ta toác ra một khoảng cách mịt mù.

 

 Nhưng đó là người sống, đã đành, còn người chết? Tôi không biết ông tôi. Ông mất khi tôi chưa có mặt trên đời. Những người nằm xuống khác là những người tôi gặp mặt đôi lần, nhớ cũng được mà quên cũng xong. Còn cô và dượng? Không cần đứng trước mộ phần, nhiều đêm xứ xa tôi vẫn tưởng tượng ra được cái thân hình xương xẩu của dượng trong bộ đồ bà ba trắng thùng thình đang đong đưa dưới sợi dây thừng, và văng vẳng giữa khuya là tiếng chì chiết chửi rủa của cô.

 

 Tám

 

 Buổi trưa nằm võng, nghe thằng em kể chuyện xóm chuyệïn làng, nghe bầy chuột chạy chíu chít trên ngọn dừa lão. Lẽ ra bây giờ là mùa mận! Cả ngôi vườn không còn gốc mận nào. Nhà vườn hàng xóm cũng vậy. Buổi chiều thả dọc con lộ 60, cửa nhà lúc nhúc. Biết bao mùa mận đã qua chốn này. Lẽ ra bây giờ là mùa mận!

 

 Không chủ ý, tôi lơ ngơ băng qua bên kia con lộ bốn, rẽ xuống ngôi chợ nhỏ, trước kêu là chợ Bờ Đò. Con rạch cũ, nơi lưu trú cấm cố của những đám lục bình, ngày nay không còn nữa. Chỗ này hồi trước là bến đò ngang, ngó nghiêng qua hàng cau già là căn nhà gạch có con nhỏ mà xưa cô tôi tính chuyện cho tôi.

 

 Phải nói chuyện với con nhỏ một đỗi tôi mới nhận ra nó. Tôi nhớ đúng ra năm nay tuổi nó chỉ vừa khoảng năm mươi. Nhưng sao dòm giống hệt như bà già bảy chục! Phần nó, tôi chắc chắn nó không thể nào nhận biết được tôi. Tôi chận con nhỏù ở chỗ hồi đó là cái quán cóc lụp xụp mé lộ đất, nơi nó tập bán buôn lụn vụn với người qua đò. Cũng hồi đó, quanh đây là những vườn mận Trung Lương nức tiếng. Tôi giả đò làm người ở xa, tới hỏi mua cây mận hồng đào con rặc giống. Nó dòm tôi như đứa từ sao Hỏa xuống. Tôi liếc thấy trên bàn thờ nhà nó dĩa trái cây; trong có mấy trái táo, chùm nho và mấy trái mận Thái Lan, thứ mận mà đứa em dâu tôi mua ở chợ hàng bông Mỹ Tho trưa qua. Tôi nhớ tới dấu răng nó để lại trên trái mận hồng đào Trung Lương hơn ba mươi năm về trước.

 

 Tôi vốn người nhẹ dạ, xa xứ thỉnh thoảng đọc được đôi bài viết về quê hương, về trái mận Trung Lương nức tiếng, tưởng vẫn còn đây những vườn mận gió tung hoa rợp trắng trời. Ngờ đâu chỉ đọc được những hồi ức mơ hồ cũ kỹ. Thứ hồi ức được cập nhật bằng trí tưởng tượng nghèo nàn. Về đứng giữa trời Trung Lương mới biết đó chỉ là những nỗi niềm hoài cổ tội nghiệp. Vừa thôi! Lẽ ra bây giờ là mùa mận. Cho dù một góc vườn ai vần còn vài tán mận để những đứa con nít rún lòi đen thủi- mũi dãi xanh lè che mát tuổi thơ, nhưng đã không còn rồi một Trung- Lương- Mùa- Mận!

 

 Khổ cho tôi, thiệt khổ thân tôi! Xưa Thôi Hộ trở về Đào Hoa thôn, người xưa biền biệt phương nao, chỉ cần thoáng nhìn hoa thắm màø nhớ má ai hồng. Còn tôi, trở lại làng Trung Lương, vườn xưa cỏ cây còi cọc, chắc quý vị làm thơ tưởng tôi thấy má người mà nhớ ra được mùa hoa? Người thì sờ sờ ra đó, nhưng đôi má hom hem tái nhợt kia làm sao có thể làm cho một đứa vốn vô tình, như tôi, liên tưởng lại nổi một trời hoa mận cũ?

 

 Nguyên Nhi

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Hai 20244:21 CH(Xem: 1692)
Mùa xuân/ mùa phục sinh
07 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 1292)
em/ người đàn ông có đôi lần dừng lại/ để ký thác một ngày một giờ/ không phải nói, tạm biệt/ biết không?
04 Tháng Hai 202410:03 SA(Xem: 1418)
một hôm nào bỗng nhớ/ mơ hồ tiếng hát xưa
31 Tháng Giêng 20249:58 SA(Xem: 1083)
Trăng mười bốn, buông lơi bãi vắng/ Ngày hè trôi trong tiếng ve ngân
27 Tháng Giêng 20249:56 SA(Xem: 1353)
đi về giữa chốn mênh mang/ hỏi thăm một nụ hoa vàng rưng rưng
24 Tháng Giêng 20249:51 SA(Xem: 1076)
Giao mùa trời đất chuyển/ Hoa trái thuận theo thiên./ Tạ ơn dãi đất liền./ Việt Nam mùa tiếp nối.
21 Tháng Giêng 20249:45 SA(Xem: 1235)
Nhớ lần đầu gặp anh/ Lúc em vừa năm tuổi
18 Tháng Giêng 202410:15 SA(Xem: 1280)
Kể từ đận đó nó về/ Em đem bóp vụn câu thề tuổi thơ
15 Tháng Giêng 20245:19 CH(Xem: 1140)
khuya mong manh thiếu phụ/ giọt trăng tắt lịm trong mưa
10 Tháng Giêng 20245:16 CH(Xem: 1115)
ê mùa xuân đừng khiêu khích tao.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17096)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12305)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19034)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9206)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8380)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 660)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 1036)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1213)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22504)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14042)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19216)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7930)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8849)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8521)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11100)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30752)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20839)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25548)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22934)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21770)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19826)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18077)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19285)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16946)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16134)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24538)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31988)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34952)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,