Về Thơ Nguyễn Lương Vỵ
Tôi vốn yêu mến thơ Nguyễn Lương Vỵ. Niềm yêu mến nơi tôi, gia tốc theo số lượng thơ, ngày một chất cao, của anh.
Niềm yêu mến nơi tôi, nằm nơi nỗ lực không ngưng nghỉ của Nguyễn. Nỗ lực thường trực: Đẩy ẩn dụ vượt qua nhiều giới, mốc…
Chính vì những trốt, xoáy thẳng tay đập phá ngôn ngữ, để ngôn ngữ bật ra, sáng lên những nghĩa ngữ mới - - Những nghĩa ngữ người đọc chưa từng kinh qua, giáp mặt (mà;) thơ Nguyễn bị coi, (thực sự) là khó hiểu(?)
Thơ Nguyễn Lương Vỵ do đó, có thể không đem niềm hoan lạc đến cho độc giả! Nhưng có hề chi, khi Thơ, trước nhất, phải là niềm hoan lạc của chính hắn. Tác giả. Như người tự cắt thân thể mình. Nhìn dòng máu chảy.
Những dòng máu bật, tuôn từ một trái tim thi sĩ. Nguyễn Lương Vỵ.
Du Tử Lê,
(
Thất Huyền Âm; Núi đen Và Sọ Trắng
Có khi độc ẩm là đối ẩm
Ly rượu chao nghiêng một bóng người
Bóng ma bóng núi đen lồng lộng
Chặc lưỡi mời nhau cho có đôi!!!
Hốc mắt nuốt hết trời cô liêu
Nuốt hết mây tiền kiếp quá nhiều
Óc quá tươi và sọ quá trắng
Sắc màu linh hiển nhập hồn rêu
Có khi ly rượu là môi ấm
Áp má nghe ra giọng hát mềm
Sao ta vẫn rợn khi vừa ngấm
Một niềm ưu hận rất dịu êm
Rất dịu êm, nét cọ lẫy lừng
Màu ươm nhan sắc, ý rưng rưng
Đêm trưng rạng rỡ lời oan nghiệt
Ngày réo hồn nhiên nghĩa tận cùng
Có khi ly rượu là tay nõn
Những ngón tay thon những búp gầy
Những trận gió bay trong cõi mọn
Cuốn sạch cơn sầu nên chẳng say
Khuya trầm mình mọc âm núi đen
Âm sọ trắng nở ngấn lệ hoen
Vũ trụ cũng lưu vong đấy nhỉ?!
Thời gian rộ một đóa hoa kèn…
6.2009
Viết sau khi phone thăm họa sĩ Đinh Cường, biết anh đang uống rượu chát một mình ở
THẤT HUYỀN ÂM: BIỆT XỨ
I.
Nhẩm tính gần mười năm biệt xứ
Mười năm nếp tẻ chuyện buồn vui
Xứ sở ở đâu cũng xứ sở
Cũng phàm cũng tục cũng …vậy thôi!
Bằng hữu thân sơ chi cũng quí
Cũng say tận tụy với chiều tà
Cũng khóc cũng cười với ma quỷ
Thần tiên cũng rộ tiếng chào ta!
Rất nhiều khi ngó sững bàn tay
Dấu chỉ tan thây trọn kiếp nầy
Nhếch mép mần thinh kinh khiếp chữ
Thơ về không hẹn mà lại…hay!
II.
Biệt xứ biệt tăm và biệt tích
Biệt mù thôn ổ trổ chùm bông
Ngát hương duệ địa xâu thành chuổi
Những đóa tinh âm ứa núm hồng
Những đóa tinh tuyền khêu búp lửa
Óa bay vó ngựa sắp đầu thai
Cồng chiêng nhớn nhác đau lòng bậu
Xớ rớ xưa sau chuyện cảm hồi
Chuyện vãn say nồng cơn bốc tia
Thèm nghe cánh bướm vỗ tan lìa
Thèm ôm em ngủ vang lừng mộng
Giọt giọt trùng lai ai sớt chia?!…
III.
Nhẩm tính gần mười năm biệt xứ
Đời quen lầm lũi có sao đâu!!!
Búng tay bắt nhịp điêu linh hú
Sau trước trườn lên lóa sắc màu
Lóa hết âm vang trong mắt ướt
Nhìn nhau tang hải gió cưu mang
Thơ vẫn ghìm hơi trong mỗi bước
Mỗi đời mỗi kiếp mỗi tan hoang
Trau chuốt âm thật nhọn chỗ nằm
Nghe thật lâu hun hút mù tăm
Mẹ ơi! Tim óc con đã ứ
Tiếng võng xanh hơn thất huyền âm!!!
IV.
Xứ sở ở đâu cũng xứ sở
Mà sao dưới đất lưỡi ma le
Liếm gót chân ta rồi khẻ nói:
Bậu ơi! Rau đắng mọc sau hè
Bậu ơi! Mướp đắng râu tôm ngọt
Trộn chút tình thâm ngấm đến giờ
Dẫu có bẽ bàng đây cũng mót
Một vài chút đỉnh nghĩa cầu bơ
Cầu bất cất bầu tâm sự thôi
Mồi ngon rượu bảnh hóa ra…tồi
Văn minh điệu nghệ hóa ra…dỏm
Tỏm tóm tòm tom tọm hết rồi!!!
V.
Nhẩm tính gần mười năm biệt xứ
Mặc ai đa dục với đa ngôn
Đa đoan đa trí và đa sự
Ta chỉ đa tình nên hết khôn
Hết biết lòng người sao cực hiểm
Cực kỳ lộn lạo bó tay nhìn
Ngu ngơ cơm áo làm sao kiếm
Giật thót bậu ơi! Đời vắng chìm
Giật thót bậu ơi! Thơ vắng xa
Thơ? Tờ lơ! Tớ lỡ lầm?! A!!!
À Á Ả?! Ma Ma Phật Phật
Thời của lụi tàn Phật khóc Ma!!!
VI.
Xứ sở là đây? Ừ! Xớ sử
Ừ ta hít thở chút hương đêm
Hương bay len lét mùi cơ khí
Lờm lợm gì đâu xương cốt rêm
Nhờm nhợm gì đâu râu tóc bạc
Đường đi xe chạy giống quan tài
Di động di quan tan với nát
Đêm rùn vai rụt cổ hình hài
Vuốt trán nhớ suối sông núi đồi
Nhà Quê?! Hai tiếng điếng hai môi
Hai tai hai mắt hai tròng đỏ
Cỏ áy hừng đông gọi đứt hơi!!!
VII.
Nhẩm tính gần mười năm biệt xứ
Gần hơn cửa tử (cũng nhanh thôi!)
Vui chẳng vui mà sầu cũng dở
Ráo hoảnh nhìn nghe biết đủ rồi!!!
Biết đủ nên bài thơ viết chậm
Âm trùng âm, đầm đậm kiếp người
Gọn lỏn một đôi lời lạnh ấm
Âm trùng âm, lẩm bẩm tài bồi
Biết đủ thôi, bài thơ viết nhanh
Ngôn trùng ngôn níu thanh tượng thanh
Ta biệt xứ?! Ừ ta biệt xứ
Mưa nắng bão bùng ngọn lửa xanh…
6.2009
Rất nhớ Cung Tích Biền, Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Tôn Nhan, Lý Đợi và Bùi Chát.
THẤT HUYỀN ÂM: NGƯỜI MUÔN SAU
Tặng thi sĩ Du Tử Lê
Người muôn sau, cho nhắn đôi câu
Thơ ta gửi theo tiếng hú trắng
Chịu khó hú theo mà bắc cầu
Mở ra đọc chơi, đỡ quạnh vắng
Rằng ta muôn trước được làm người
Được mần thơ nên hộc máu tươi
Máu bay đỏ trong cơn bão tuyết
Vũ trụ mồ côi từ lâu rồi!!!
Từ lâu rồi cái lạnh ngít đen
Tỉ độ âm nên mịt tiếng kèn
Trái đất phun một luồng khí lạ
Lời thơ ngùn ngụt bốc hơi men!!!
Lời thơ ẩm tửu, chữ bạc mệnh
Nhưng vẫn còn tươi nghóa tận cùng
Nhưng vẫn còn rực nghĩa tuyệt tận:
Người muôn sau cùng ta uống chung
II.
Người muôn sau cùng ta uống cạn
Sinh ly tử biệt rất đề huề
Rất ý tứ từ thiên cổ lụy
Sầu vô chung vô thi lóng nghe:
Tinh âm bay vút vút đá vang
Tinh tú hát rợp rợp hồng hoang
Ta đáp lễ một chầu trống ngực
Tim trong veo và óc chói chang
Ý tịch liêu những sợi khói bay
Tứ tịch lặng những tia nắng gầy
Ta đáp lễ một câu thơ mọn
Như cọng rơm ngọn cỏ cát lầy
Rất ngố như trời kia đất nọ
Chia tay từ trận gió sơ huyền
Chia tay từ âm A quá độ
Đi biệt không về đành lãng quên?!
III
Người muôn sau cho nhắn đôi câu
Gửi đôi nhịp xừ xang xê cống
Tặng hài nhi rươm rướm sắc màu
Có hơi thở ta vừa nhấp giọng
Vừa mới nhớm nửa bước chân đi
Vừa đôi tay chạm tiếng rầm rì
Vừa chết mười phương hương trổ nhạc
Vừa em khép mắt đẹp trầm mi!!!
Đẹp nát tan, vũ trụ lỡ làng
Ta sầu câm sẫy bước lang thang
Thời gian? Bóng mộ u hồn đắp
Một nấm hư không đành cười khan…
Đành khóc thầm mần thơ đếm đo
Vũ trụ lừng hương một cọng ngò
Khẩn thiết tạ ơn em gửi lại
Một trời ngây dại để dành cho…
IV.
Cho ta thấu hiểu tình muôn trượng
Biêng biếc muôn tinh tú nháy hoài
Em đã cho ta muôn tưởng tượng
Thơ mần ngưỡng vọng cọng ngò…gai!!!
Giỡn chơi cho đỡ cơn trầm uất
Vỗ trán reo, thơ đã túa về
Đoàn quân chữ nghĩa chen vai hát
Âm cuồng thanh nộ, sướng đê mê
Thời ta trú ngụ rất ồn ào
Thiệt tình: Thơ là chuyện tào lao
Mà sao xanh mặt chiêm bao miết
Trí muốn quên mà hồn cứ trào
Cứ trào miết lời núi lời sông
Lời ta xưa: Mèo mả gà đồng?!
Có thể lắm, ai mà biết được
Trào thì mần như ngọn triều đông…
V.
Người muôn sau cho nhắn đôi câu
Nếu gặp ta bên cầu thệ thủy
Đang nhậu với ông Ôn Như Hầu (*)
Thì xin có đôi lời hoan hỉ!!!
Hoan hỉ địa chào nhau khinh khoái
Nhậu khinh không tỉnh rụi nhớ đời
Ta lầm lũi nên rất gần gũi
Những linh hồn oan nghiệt tả tơi
Ta bụi bặm bầm xác dập thân
Nên thương câu thiên địa phong trần
Nữ hồng nhan còn nam bạc phước
Còn rình âm rập chữ nên…đần
Nên ghiền sống ghiền chết ghiền…em
Ghiền bơ vơ ghiền thức thâu đêm
Ghiền âm cựa khẽ trong đáy mộ
Ghiền ngó trời sâu hút lỗ đen
VI.
Ghiền ngó em nằm ngủ như nguyệt
Khép hai tà và mở hai môi
Tiếng mớ mộng, lời thon hai búp
Niềm rưng rưng, thơ vuột mất rồi!!!
Ôi những tiếng thất thanh cổ độ
Bóng ta ngồi và dáng em nằm
Một chớp nháy ngàn thâu vắn số
Một thoáng nhìn thoáng ngó mất tăm
Thời ta trú ngụ người giết người
Chết rất nhanh và chết rất tươi
Người khôn quá thành ra…ác quá
Chủ nghĩa thành bom dội ngút trời!!!
Sầu khôn kham, mộng cũng khôn kham
Loay hoay đợi chết không càm ràm
Chắc lưỡi, đôi khi cũng tiếc thật
Trần gian đẹp quá, chết sao cam?!
VII.
Người muôn sau cho nhắn đôi câu
Tự dưng mần thơ mà rơi lệ
Chẳng lẽ khóc rống mà vô cầu
Thân còn tục lụy giữa nhân thế
Tái sinh? Nào biết được then chốt
Vũ trụ bí mật và âm u
Xin nguyện làm con ma lù đù
Muốn tái sinh thì rờ sau…ót
Vũ trụ ơi! Có chi vui không?!
Hẳn là vui tịch mịch mênh mông
Hẳn là dứt huyễn hoặc sống chết
Luân vũ đen tuyền, ta rất mong
Rất mong em cùng ta bụi bay
Hai hạt ôm nhau, âm tròn đầy
Người muôn sau biết đâu là bụi?!
Bay bay bay bay bay bay bay…
7.2009
(*)Ôn Như Hầu: …Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ…