LÊ GIANG TRẦN - con gà Ó Mã Lại

11 Tháng Năm 201512:00 SA(Xem: 7100)
LÊ GIANG TRẦN - con gà Ó Mã Lại

 

Phượng Hoàng được nhân gian biết đến như Vương nữ của các loài chim xinh đẹp, hót hay và múa giỏi. Rất hiếm người gặp được Phượng Hoàng, các bậc thánh nhân, cao tăng, hoặc thiền sư sống ẩn dật trên núi cao rừng thiêng mới có kỳ ngộ trông thấy. Người xưa tin rằng chỉ khi gặp đời thái bình thịnh trị, chim Phượng Hoàng mới xuất hiện. Người phàm phỏng theo sự tả lại mà họa nên hình thần kỳ như truyền thuyết, và tôn trọng là một linh vật.

Phượng Hoàng theo truyền kỳ là con gái út của Tây Thiên Thánh Mẫu, phong tư diễm tuyệt, văn nhã phong tao, tính khí lãng mạn, đam mê ca múa. Hằng Nga từ Nguyệt Điện đến dâng lên Ngọc Hoàng điệu Hạ Nguyệt Vũ. Phượng Hoàng đang nhiệm vụ nấu đan, nghe tin háo hức, dặn dò gia nhân giám hộ, sang Bắc cung để thưởng lãm tận mắt điệu múa Nghê Thường mới lạ của Nguyệt Nga. Không may Thánh Mẫu ngự đến vì linh đan bị khê do Phượng Hoàng tắc trách, nàng bị đày xuống Hy Mã Lạp Sơn thuộc Phật địa Tây Tạng. Ở đó, trên đỉnh băng chót vót có Tuyết Sâm nghìn năm nở hoa một lần, bông linh sâm độc nhất này là hương liệu dùng luyện lại linh đan kia. Nàng phải đợi đến năm hoa nở, hái về dâng lên Mẫu mẹ để chuộc tội.

Mùa xuân nắng ấm ở Hy Mã Lạp Sơn chỉ đôi ngày. Đứng trên “Sân thượng của trái đất”, ngọn núi “Cao Không Ngơi Nghỉ” được người Tây Tạng ở mạn Bắc Sơn yêu quí gọi là Chomolungma, mang ý nghĩa “Người Mẹ Vĩ Đại Tuyệt Vời của Trần Gian”, còn dân phía Nam Sơn mạn gọi là Sagarmata với ý nghĩa “Thượng Đỉnh Bầu Trời”, Phượng Hoàng nhìn xuống dòng trường giang Brahmaputra phát xuất chào đời ở ngọn Kailas trong rặng Chemayungdung khoảng 60 dậm về hướng đông nam, ở đó, trong chu vi 30 dậm xung quanh ngọn Kailas mọc lên nhiều ngôi chùa Phật giáo và Bà La Môn giáo. Từ thượng nguồn ấy, con sông Brahmaputra chảy băng về đông bắc ngạn, ngang qua những Phật Tháp vĩ đại như Tashilhunpo trong vùng Phuntsogling ‒ Tại khoảng sông này, Đạo Sư Thangtong Gyalpo đã bắt chiếc cầu treo lịch sử ‒ rồi tiếp tục chảy ngang qua các Phật tháp xa hơn như Mindolin, Changzhusi, Samye. Hầu hết người Tây Tạng sống tựa vào lưu vực này gọi nó một tên khác, là Yarlung Zangbo, họ sống dọc theo nó đến tận Zetang, nơi Phật giáo Tây Tạng phát triển tột cùng vào kỷ nguyên thứ Tám.

Bò hiền lành qua khỏi vùng Tháp Phật linh thiêng, con sông Yarlung cất đầu đâm chếch lên, thu mình hẹp lại tại ngọn Pei thuộc Trung Quốc rồi ngóc cong đầu thành ngọn thác phun siết nước dồn chứa vào một đáy sâu mười ngàn bộ, sau đó lại bất thần cuồn cuộn phóng mình xuống ở độ cao bảy ngàn bộ như một hiện tượng phi thường, tạo thành cảnh tượng hùng vĩ suốt 150 dặm dài. Từ trên núi cao hơn hai mươi lăm ngàn bộ này, nó đổ dốc theo hình chữ S cong về hướng tây nam xuyên qua Nepal, bẻ hướng bất ngờ đâm thẳng xuống Bangladesh, đổi thành tên Jamuna rồi nhập chung với nhánh sông Ganges từ Ấn Độ chảy sang, tỉa ra nhiều nhánh phụ, lại thay tên lần nữa là Meghna, trước khi chạm vài mũi Bengal hòa nhập vào trùng dương biển mẹ của trái đất.

Rung động trước sự tươi mới và cảnh tượng hùng vĩ phi thường của vạn vật chuyển mình, Phượng Hoàng cất tiếng hót thần tiên chào đón chúa Xuân, thả hồn mơ màng nhớ về tiên giới nơi nàng suốt ngày tung tăng ca múa cùng đàn tiên nữ.

Chúa tể của loài dũng điểu là Đại Bàng. Vương điểu Đại Bàng thuộc giòng Linh Vũ. Trong hằng hà sa số tiền kiếp đã quy y Địa Tạng Vương Bồ Tát, hầu hạ bên ngài. Khi cần thiết, Điểu Vương dùng oai lực đánh đuổi và khuất phục lũ kên kên là ngạ quỉ hiện thân. Có công phụng hầu Bồ Tát Vương nên Đại Bàng một thời được làm bá chủ cõi ta bà khi loài người chưa xuất hiện, dạy dỗ loài vật dưới đất và trên không đi vào trật tự trời đất. Loài người sau khi thống lĩnh địa cầu còn nhớ ơn, nước hùng mạnh nhất mới được dùng hình ảnh Đại Bàng làm quốc hiệu.

Vương Điểu khoác y bào đen tuyền, biểu hiệu cho tạng đất. Cổ quấn giải bạch phù, biểu hiệu của mây cao. Tránh nơi ô trọc, chọn địa thế hùng vĩ ngự trị. Cung điện xây trên lưng núi cao ngút ngàn, tung hoành bốn phương tám hướng, thỉnh thoảng giá ngự xuống đồng bằng, vì đồng bằng về sau là nơi an ổn do loài người làm chủ. 

***

Mùa xuân, Vua Đại Bàng thăm thú muông chim, vỗ an dân điểu, ban lệnh trật tự, truy lùng và tận diệt ác thú. Mồng một Nguyên Đán năm ấy, đúng ngọ, Vương Điểu biết là ngày Tuyết Sâm nở hoa, chàng bay đến Hy Mã Lạp Sơn. Đến nơi, đúng lúc tiếng hót thanh tao não nùng của Phượng Hoàng cất lên làm trái tim chàng xúc động mãnh liệt.

“Nàng từ đâu đến, cớ chi âu sầu?” Chàng nghiêm trang hỏi một thanh nữ đẹp tuyệt trần mà trong đời dọc ngang chàng chưa từng gặp. Mỹ nhân nhan như ngọc, chân mày xanh biếc, môi sen hồng, mắt u huyền. Nàng quàng trên cổ khăn nhung đỏ thắm, xiêm y màu cẩm thạch vân huyết, áo choàng sắc phướng xanh da trời, nhìn vào như thiên tiên. Khơi động đến nỗi u hoài, Phượng Hoàng kể sự tình.

Từ đó, cứ vào xuân, khi bạch đào, bạch mai rộ nở, đúng ngọ Tết Nguyên Đán, trên chót đỉnh Hy Mã Lạp Sơn cao ngất có tiếng hót thánh thót của một loài chim nghe thật thanh khiết, khích thích người lòng sầu muộn trở nên yêu đời, tưới vào tâm hồn người quân tử niềm sảng khoái bâng khuâng. Dứt điệu hót, lại có tiếng chim khác họa theo, ra chiều thống khoái, oai hùng, vang vọng cả hang sâu núi thẳm. Tiếng chim ấy khiến người nhục chí cảm thấy phấn khởi, ý chí bừng dậy, cảm tưởng mình như tráng sĩ đứng trên núi cao thét tiếng thét ngàn cân hào khí ngất trời. Nhưng về chiều, lúc vầng ô chìm sau lưng núi tuyết, cũng tiếng chim thanh tao ban sáng cất lên, nhưng lại làm cho lòng người u sầu héo úa. Âm thanh não nuột thổn thức, thúc bách lòng người xa cố quận hình dung có ngàn mũi kim đao châm chích. 

***

“Dù hoa linh chi Tuyết Sâm nở ba năm mới tàn, và mối tình chúng ta hương lửa đã đượm nồng ba mùa hoa xuân ấy, nhưng kỳ hạn mang hoa trở về thiên quốc của thiếp không còn có thể lần lựa”. Nàng đau khổ nắm tay chàng, Phượng Hoàng nước mắt ràn rụa thưa thốt.

“Giọt máu của chàng, thiếp không thể mang theo. Đó là khối tình gửi lại, mong chàng thay thiếp ấp ủ cho con trẻ ra đời. Thiếp mang thân lưu đày nơi này, dù địa linh hùng vĩ nhưng thiếp sống u mặc, lòng luôn vọng tưởng cố hương. Kết nghĩa đá vàng vì chàng là bậc anh hùng đã chinh phục trái tim thiếp. Nhưng tội tình yêu nơi hạ giới không được thiên luật khoan dung. Đành gửi con lại chàng. Đành thôi!”

Vương Điểu tim oặn thắt. Lời chân tình của vợ, đứa con sắp chào đời, hạnh phúc bên nhau... giờ đây... tan nát. Đêm ấy, rặng Hy Mã Lạp Sơn bão tuyết mịt mùng, gió hú rền vang. Người sơn cước nghe tiếng chim Đại Bàng kêu thét thảm thê. 

***

Vương Điểu nhớ lời dặn của vợ: “Thiếp vượt lễ Trời, ăn ở với chàng có giọt máu đã là tội trọng, nếu chàng giữ con bên mình ắt mắt Trời cũng biết. Chàng hãy đưa con xuống đồng bằng cho sống trà trộn loài người, con chúng ta sẽ thoát khỏi truy tầm của Thiên tướng. Đứa trẻ vô tội, đừng bắt nó gánh chịu nghiệp quả của song thân”. Vương Điểu xuống đồng bằng, đưa con đến cánh rừng thiêng đã chọn, là nơi Đế Thích Đế Thiên đã được các Vua cùng tăng chúng xây dựng hoàn hảo, con người sống nơi đây thiện tâm hiền tánh. Chàng truyền dạy cho con tính anh hùng, lòng dũng cảm, chí khí bất khuất, tâm độ lượng nhưng quyết định, võ bách thắng nhưng không chủ quan, chiến thắng nhưng không tàn nhẫn, cứng rắn nhưng không ác độc. Chàng từ giã con, dặn dò bằng lời chung quyết:

“Với hình vóc đẹp đẽ do mẹ, tư thái oai phong và tính khí anh hùng do cha, con sẽ không bị khuất phục bởi bất cứ loài vật nào. Loài người sẽ thân thiết và quý giá con, nhưng đó chỉ do con thực hiện lòng khao khát tiềm ẩn của con người. Bởi vậy, đối với người anh hùng, con dùng tài năng chứng tỏ cho thấy con xứng đáng. Với bọn tâm địa dã thú, bọn bị ám ảnh bởi bạc tiền quyền lực, con hãy dùng đức kham nhẫn và có thể cả đức hy sinh thân mình để làm bài học răn dạy cho bọn lợi dụng con. Chúng có thể nhìn con là kẻ chiến bại, nhưng bài học này để chúng thấm hiểu. Chúng sẽ tán gia bại sản, gia đình sụp đổ nếu không cảnh tỉnh. Những kẻ xung động như thế, đấu trường chỉ để phô trương dục vọng, để nhục mạ lẫn nhau, kẻ mê đắm mù quáng sẽ đi đến tự vận.

Ta từ hôm nay lập lời nguyền, kẻ nào xúc phạm đến linh thân con, gia sản họ kết sù như vua chúa cũng tàn mạt. Kẻ nào hủy hoại hùng xác con, hồn vía họ sẽ không được yên nghỉ, giòng tộc họ sẽ lụn bại, con cháu họ ly tán cầu thực tha phương. Từ nay, con là vua loài chim ngự dưới đồng bằng, cha là vua loài chim ngự trên núi cao. Ngoài mẹ con ra, không một loài chim nào có thể cao quý hơn chúng ta”. 

***

Mạn bắc phía trên kinh thành Thăng Long gọi là Kinh Bắc, được coi là đất ngàn năm văn vật, cái nôi văn hóa cả nước, nơi truyền thống hội hè và âm nhạc phong phú. Lê Tuấn là con độc nhất của một đại địa chủ tại đây và chàng thanh niên này còn là một thương gia giàu có. Gia thế tài phiệt nên chàng là công tử hào hoa ăn chơi khét tiếng. Tiền tiêu như nước chảy, giai nhân như bướm lượn, bè bạn như đám ong, nhưng thú đam mê chính của chàng không phải trận cười thâu đêm với mỹ nhân, không phải tiệc rượu trọn ngày với đám bạn. Thú đam mê của chàng tao nhã hơn: chơi chim và chọi gà.

Nhà chàng có khu vườn mênh mông đặt tên là “Điểu Uyển”, nuôi đủ loài chim lớn như Phụng, Khổng, Trỉ, Hồng Hạc, Bạch Hạc, Thiên Nga, Trích, Gà Lôi... Các loại chim hót như Yến, Họa Mi, Anh Vũ. Chim nói như Nhồng, Sảnh, Sáo Sậu, Sáo Nghệ, Cưỡng... Các loại gà chọi được sưu tầm từ Bắc chí Nam, khắp nước mang về, đủ giống đủ loại, từ gà Bướm, gà Lau, gà Nhạn, bông Trích, Xám, Điều, bông Chuối, gà Mái Lại, gà Ô, gà Ó... Trong làng gà chọi, chàng là cao thủ được kiên dè vì lắm tiền của mà gà chiến cũng thừa dư.

Sáng tinh sương, Lê Tuấn đã có mặt trong khuôn viên độc đáo của chàng, nhanh chân đến chỗ nuôi gà chọi, đích thân ôm từng con ra khỏi chuồng, vuốt ve, mơn trớn, nựng nịu. Con cho ăn lúa, con cho ăn thịt bò, con cho mút trứng gà... rồi mới cho vào “lồng ép”. Cho vào lồng ép phải sao cho có kỷ luật và mỹ thuật: nâng gà lên trong tay rồi đút ngược để cho đuôi gà vào trước mới đúng điệu nghệ. Không bao giờ tay nhà nghề đưa đầu gà vào trước, làm mất thể thống con gà. Đưa đuôi vào trước thì khi vào lồng con gà ngó mặt ra trước trông oai nghi hơn.

Con gà nào nuôi thúc để mang ra trận mạc thì mang ra “vần sương” và “nhồi gà”, “sổ gà”. Khi nhồi gà, chàng đưa tay hữu bợ bằng hai ngón dưới ức con gà, nâng cho gà hỏng cẳng khỏi mặt đất độ hai tất, nhồi nhẹ nhẹ cho gà biết ý thủ thế trước, rồi lẹ làng vừa nhồi mạnh vừa rút tay ra, gà bỗng nhiên bị mất thăng bằng rớt xuống chổng cẳng sẽ biết dùng hai gối chống thế cho khỏi té. Cặp nào chàng muốn sổ thử thì lấy lá chuối khô, vải và da mềm, bịt cựa lại rồi thả hai con cho đá nhau trên bãi đất mềm hay trên đám cỏ tơ xén ngọn mới mọc lên lúp xúp. Xổ, vần, tắm gà xong là chàng loay hoay vô nghệ cho gà. Con nào đến ngày xả nghệ thì chờ đến lúc bông mười giờ nở, nắng đủ ấm, dùng xác trà huế cọ chà khắp châu thân gà cho sạch sẽ, rồi thả gà cho xả hơi, bay giỡn. Buổi sáng nào của chàng đều như vậy.

Trong số những con gà đá chàng tuyển chọn, có con Ó Mã Lại sắc lông đen tuyền, đứng đi hùng vĩ, mắt chân linh mẫn. Đặc biệt, dù cổ con Ó Mã lại đã nhổ trọi lông khoe cần đỏ au nhưng lông mọc ra trên cổ lại trắng tinh, nếu để nguyên một thời gian không nhổ sẽ mang một hình thù kỳ dị: lông thân, lông giò tuyền đen mà lông cổ lại mượt bạch. Ở xa nhìn nó, nếu không để ý phần lông đuôi, người ta có thể nhìn lầm ra con ó biển hay con diều hâu, đại bàng. Đây là bí mật, Lê Tuấn tuyệt đối không cho biết lai lịch con gà Ó này. Chỉ biết lần chàng xuôi Nam lùng gà chọi, lần trở về đó ôm về độc nhất con Ó Mã Lại, quấn nó trong chiếc khăn gấm, cực kỳ thống khoái cho biết giá trị của nó, cả trăm con đang nuôi cũng không đổi được nó.

Con gà này khi ngủ sải chân xòe cánh, cổ ngoẹo xuống như chết, giả tướng độc đáo này được thầy gà hạng tổ sư đặt biệt danh là gà “Tử Mị”. Khi ra trận nó mới hiển lộng thật tướng, nó vỗ cánh, túc con, hùng hùng củ củ, oai phong lẫm liệt khiến gà kia khiếp vía hoảng hồn. Và, khi nhập độ, trong vài ba miếng xạ đầu, gà nọ như bị thôi miên bủn rủn không ra đòn được, đứng xớ rớ chờ nó dứt mũi cựa là xong. Gà nào gặp nó như gặp phải diều hâu, đại bàng. Họa hoằn con nào gan lắm cũng chỉ chịu nổi ba bốn đòn, không bị đâm vào “giao long” huyệt, cũng “chữ tử”, “hang cua”. Cặp giò nó một chân có vảy “liên giáp nội” đóng ngang hàng cựa nhìn giống hàm rồng gọi là “long hàm”, chân kia ngoài vảy “khai vương” có vảy “huyền châm” nhỏ xíu chen chính giữa các vảy khác đóng ngang cựa. Đôi cựa “Nhật Nguyệt” của nó chuyên đá “đòn dọc”, đứng trước địch thủ là tung cước tạt ngay vào tử huyệt ở cần, ở mặt đối thủ.

Ngày Lê Tuấn ôm con Ó Mã Lại về, không hiểu tại sao nó mang thương tích trầm trọng, máu me xơ xác. Chàng gần như bặt giao với bên ngoài, hủy bỏ luôn một số độ gà đánh cược to đã giao ước. Ngày đêm săn sóc nó không rời, nào ngậm rượu nút máu bầm, nào đổ sâm, thoa nghệ, vít vá thương tích. Đến độ cha mẹ định ngày tốt đã coi, đưa chàng đi xem mắt vợ, chàng cũng đủ lý do để ở nhà. Hai tháng sau, con gà Ó lành lặn mạnh khỏe, cũng là ngày tân hôn vội vàng của chàng, vì theo lịch tử vi, trọn năm tới không có ngày tháng nào tốt cho đôi tuổi tân lang và giai nhân. Cha mẹ cưới về cho chàng một nàng vợ xinh đẹp sắc xảo, con một gia đình vọng tộc thân thiết ở Hà Đông, đôi bên gia đình đã hứa cưới gả từ khi chàng còn tấm bé. 

**

Con Ó Mã Lại chưa thua trận nào, công trạng bách chiến bách thắng của nó mang về cho chàng tiếng tăm lẫy lừng. Tiền thắng độ bao giờ cũng thật to, do lòng thù hận và quyết tâm muốn triệt hạ nó mà nhiều chủ gà thẳng tay cược lớn nhưng cuối cùng luôn thua cuộc. Từ khi mang nó vào gia đình chàng, cha chàng buôn bán bỗng trúng nhiều vố lãi to, phát triển thêm hai cửa hàng ngoài kinh thành. Mẹ chàng có hiệu buôn bán vàng và đá quý cũng may mắn không kém, món nào mua vô bán ra đều lãi năm lãi mười. Con Ó Mã Lại được xem như báu vật mang vận hên đến. Bởi vậy, chàng tưng tiu nó như con, phụng hầu nó hơn cha mẹ. Khó ai đụng được cọng lông đuôi nó. Vợ mới cưới của chàng so với nó kém xa sủng ái. Chính vì thế, mở ra một trời oan nghiệt.

Người vợ Hà Đông xinh đẹp của chàng về nhà chồng thay vì có những ngày tháng vợ chồng mới mẽ đầu ấp tay gối quấn quít nồng nàn, đằng này cô nàng chỉ nhận được hững hờ tẻ nhạt và nghiêm nghị của chồng. Chồng nàng ăn nằm với nàng như thủ tục. Đối xử với nàng bằng thái độ của người trưởng giả chủ nhân chứ không bằng cưng yêu ưu ái. Thật trái ngược với mơ ước của người thiếu nữ lên xe hoa, liên tưởng nét mặt thẹn thùa của mình trong vòng tay thèm muốm của chồng, bế bồng ngụp lặn sông ân bể ái trong thời kỳ phong hoa ong nhụy. Cay đắng ngay đêm động phòng. Sau dâng hiến đầu đời, cảm giác hạnh phúc còn tràn lan trong thân mình, nỗi phập phồng trinh nguyên còn chưa hết thẹn thùa trên gương mặt, hơi ấm còn nồng mùi da thịt thì chàng đã vội nhỏm dậy, khoác áo bươn bã ra vườn “Điểu Uyển” thăm con gà Ó. Nàng ngỡ ngàng khi chàng chuồi khỏi lớp chăn bông. Đôi mắt lim dim tận hưởng dư vị hoan lạc bỗng phụt tắt, mở trừng nhìn lên trần phòng u tối giống như từ đáy vực trông lên. Nàng mơ hồ một viễn tượng bất hạnh, người mình trao thân gởi phận bị thu phối trọn vẹn bởi một hấp lực khác mãnh liệt hơn nàng.

Nỗi ê chề đó không chỉ tái tê một lần trong đêm dạ chúc mà có thể xí xóa. Cứ mỗi đêm sau hồi ân ái, dù có khi chàng nán lại thêm dăm phút cuộc tàn, nhưng rồi cũng thế, cũng bỏ ra sau vườn thăm nom con Ó Mã Lại, trở vào với mình mẫy hôi nghệ hôi gà. Nàng căm thù con gà quỉ quái đó. Nó là cái thá gì mà chồng nàng quý yêu hơn nàng? nó chỉ là con gà đen đúa gớm ghiếc. Đã thế, chồng nàng thức giấc vừa sáng tinh sương, thay vì ôm ấp ái ân nàng, lại không cả một chiếc hôn, lẳng lặng đi xuống chuồng gà chuồng chim. Chồng nàng phải chọn một trong hai, khi nàng đã là phu nhân trong nhà này nhất định không thể còn có mặt con gà đen ghê tởm đó. Một con vật không thể nào tước đoạt hạnh phúc trong vòng tay của nàng được! 

**

Đầu tháng mười ta, người nông dân hưỡn đãi việc đồng áng, bắt đầu nghĩ tới việc đá gà. Lê Tuấn sửa soạn lên đường xuôi nam một tháng để viếng thăm các chủ gà quen biết và tìm giống gà nòi rặt đổ từ các kiện tướng lừng danh. Chuyến đi này chàng đặc biệt sẽ tìm thăm một người.

Cuộc hành trình được chừng nửa tháng, chỉ mới quần quanh Gia Định, Thủ Thiêm, chưa xuống tới Bảy Sào, Sóc Trăng. Một đêm trong quán trọ, chàng nằm mơ thấy một người đàn bà cầm gươm chém phạt vào chàng, bay mất một cánh tay, máu tuôn xối xả. Chưa kịp nhận diện, người đàn bà mơ hồ ấy đã biến mất. Choàng thức, mồ hôi toát đầy mình, trong bụng lo lắng. Sợ ở nhà có điều không lành, chàng quày quả thu xếp hành lý trở về, đành bỏ dở ý định đi thăm người chàng muốn gặp, ẩn cư trên núi Sam tỉnh Châu Đốc.

Về đến cửa, gia nhân chạy ra báo cho Lê Tuấn biết vợ chàng mắc bệnh đột ngột. Vào buồng thấy vợ đang nằm, cần cổ sưng to ra đến mé cằm, nước vàng theo da căng nứt rỉ ra hôi thối, rên ư ử chứ không nói được. Bệnh đột phát khi chàng rời nhà mươi bữa. Nhưng động trời hơn, gia nhân cho biết con Ó Mã Lại một đêm bị chồn phá chuồng vào vật cổ chết, phu nhân ở nhà đã cho làm thịt ăn.

Nghe xong, mặt mũi tối tăm, chàng ngửa cổ kêu trời, “Làm sao cớ sự có thể như vậy được?” Chuồng con Ó Mã Lại xây bằng gạch, cao ráo rộng lớn hơn cả chuồng heo, cửa chuồng có khóa cẩn thận, ban đêm còn lắp thêm lớp lưới chì mịn bên trong, chuột nhắt cũng không chui lọt. Con Ó Mã Lại lúc ngủ tuy trông như gà chết, nhưng là linh vật khôn như người, khó con vật nào phạm vào nó được, ngay người không phải chủ nó cũng khó sờ tay vào sợi lông đuôi. Gia nhân có lơ đễnh quên khóa cửa chăng nữa, một con chồn lọt vào chuồng không thể làm gì được nó. Chàng tin chắc mười mươi như vậy. Gia nhân kể sáng ra cho lũ gà ăn mới khám phá con Ó Mã Lại đã gãy cổ nằm chết, chân bầm vập và một giò gãy lọi, bên cạnh là xác con chồn to tướng hai mắt bị mổ thủng đổ máu. Chốt khóa cửa không hiểu vì sao sứt ra. Tuy đau khổ trước sự việc không ngờ, nhưng bệnh tình của vợ bây giờ quan trọng hơn.

Vợ chàng không hẳn do cha mẹ đứng ra cưới mà chàng lạnh nhạt gối chăn, nhưng vợ chàng kiêu căng ra mặt, quen thói phí phạm của hạng nhà giàu, hống hách với gia nhân, là những điều chàng không bằng lòng, chờ dịp để nghiêm dạy. Nhìn cặp mắt long lên sòng sọc của nàng quét vào đám gia nhân mỗi khi không hài lòng, chàng nhận ra tính ác đức của vợ. Nàng không ra mặt chống đối việc chồng dễ dãi với người ăn kẻ ở, nhưng khi riêng tư, nàng lên giọng chỉnh đốn chồng phải tỏ ra phong cách chủ nhân, bỏ đi cái tính phúc hậu với bọn nô bộc. Nàng mượn khi ái ân thỏa mãn, kê đầu gác lên tay chồng, miệng bắt đầu mách vạch công việc của tôi tớ, những chuyện đúng ra nàng phải tự gánh vác, giải quyết thay thế cho chồng, khi nào gặp việc quan trọng ngoài định đoạt của người vợ hẳn cho chàng hay.

Chàng công việc đa đoan, thú giải trí chim chóc và gà chọi đã chiếm mất nửa ngày, còn lại là thì giờ tới kinh thành giao dịch, gặp bạn bè, thanh lý sổ sách hai cửa hàng lớn của gia đình do chàng trách nhiệm. Từ khi có vợ, chàng đã bị chiếm mất một số thì giờ. Thông lệ mỗi sáng luyện chim, quần gà bất dịch của chàng phải thu ngắn bớt. Ấy là chưa kể vì ghen bì với thú tiêu khiển của chồng, mỗi sáng sớm chàng chỗi dậy để ra vườn, nàng mê ngủ thì thoát, còn thức tỉnh thế nào cũng ôm ghì chồng vòi vĩnh ái ân, lẳng lơ rằng vào giấc tinh mơ cuộc ái ân mới hiến cho nàng cảm giác tột đỉnh. Đó là lý do giữ chàng khỏi ra vườn. Nàng bảo sao không sai gia nhân làm thay. Nghệ thuật nuôi chim nuôi gà nếu đã giao được việc ấy cho lũ gia nhân, chàng đã không phải cực nhọc thức khuya dậy sớm.

Dù đào hoa ăn chơi, chàng rất khinh loại đàn bà đa dâm quá độ. Người đàn bà khi ái ân tỏ lộ hứng tình nồng cháy mạnh bạo, khích động người đàn ông bằng rên la cong cớn ghì siết để dẫn họ đến khoái lạc, là cách làm cho bọn đàn ông thô thiển sớm gục ngã trên chiến trường chăn gối. Nhưng ở người đàn bà đông phương quý phái, dù nhạy cảm, tư thái biểu lộ cùng cảm ứng thụ hưởng lại kín đáo. Nương theo từng giây nồng nàn mà không lộ liễu dâm sắc, đạt tới khoái cảm tột cùng mà không phát phát dâm ngôn rên lên lời tục tằn, mắt ngây ngất mà không ngây dại, tứ chi nhũn mềm mà thần thái không đờ đẫn. Đó là người đàn bà hiểu được nghệ thuật ái ân, dành trọn vẹn cảm giác hưởng thụ cho người đàn ông thấy họ là bão táp tung hoành trên một thổ ngơi oằn oại ngập tràn ơn mưa móc; thay vì như thế, một nữ nhân thô tục có bao nhiêu tật tánh xấu dâm dật đều bộc lộ trong giây phút rơi vào tuyệt đỉnh, kêu bố kêu me, rít thở hào hễn, mắt lờ đờ ngây dại... Người đàn ông bất ngờ khám phá nhục tính dâm đãng này, nếu thuộc người lịch lãm trí thức như chàng sẽ cảm thấy mất hứng thú và nhờm khinh nữ nhân lộ đầy dục thú giao hoan. Không may, vợ chàng thuộc loại đàn bà đa dâm đầy thú tính. Mỗi lần nàng thúc nhịp rên toáng trong cơn khoái lạc là chàng tự dưng mất hết cảm giác, xấu hổ sợ lọt vào tai lũ gia nhân, hồi tưởng đến “phòng trung thuật” của bọn cô đầu bán thân mà chàng từng tung tiền mua tiếng cười thâu đêm với họ. Do đó sau mươi ngày đầu chung đụng “phong quyển tàn vân” với vợ, chàng chán chường. Rồi chàng dứt khoát không bỏ lơi thông lệ của mình, dù biết vợ chàng ghen tức với thú tiêu khiển của mình cũng mặc.

Săn sóc thuốc thang cho vợ hơn tháng thì nàng qua đời. Đau khổ vì con Ó Mã Lại đã mất, thêm muộn phiền việc tang chế rườm rà, trông chàng phờ phạc hẳn ra, người xọp xuống. Sau khi chôn cất vợ, muốn quên đi phiền não, tránh dịp đầu năm khách khứa viếng thăm, chàng lên thẳng kinh kỳ. Suốt những ngày trong Tết, chàng vùi vào tiệc rượu tiêu sầu với bạn bè, hết phường cô đầu này đến phường cô đầu khác. Người ta cho là chàng đau khổ mất mát người vợ xinh đẹp nên buông mình vào nơi tài tử ăn chơi.

Không ai biết chính cái chết con Ó Mã Lại mới làm chàng đau khổ. Nó là Linh Kê, theo lời người giao phó nó lại cho chàng, tuổi thọ nó rất cao, khó con vật nào xúc phạm được. Chàng nuôi nấng tưng tiu, nó sẽ mang đến vận may. Bằng chứng đã cho thấy kho vựa nhà chàng vun cao, tiền bạc chảy vào nhà, việc bán buôn của cha mẹ chàng phát triển nhậm lẹ. Chỉ sau ba tháng mang con Ó Mã Lại về, bề thế nhà chàng tăng lên thập bội. Mọi chuyện chàng mó tay vào đều thuận lợi suôn sẻ sinh ra tiền bạc. Tiếng tăm chàng nhờ đấy lừng lẫy lan ra nhiều địa phương, người ta nhìn chàng bằng cặp mắt ngưỡng vọng. Người giao sinh mệnh con Ó Mã Lại cũng nhấn mạnh thêm bằng giọng nghiêm trọng, bảo chàng suy nghĩ cẩn thận về quyết định cưu mang nó, nếu lý do nào nó mất đi, cuộc đời chàng sẽ long đong, sự nghiệp to lớn mấy cũng khó giữ. Thú mê gà chọi đã khiến chàng mù quáng, sau khi xem xét nó kỹ lưỡng từ lông vảy, tướng cựa, tướng chân, chàng mạnh dạn nhận lãnh nó như nhận lời thử thách cùng vận mệnh. Sự giàu có vững vàng của gia đình chàng hiện thời, chàng không tin sẽ có bất cứ nguyên nhân rủi ro nào có thể làm sụp đổ được.

Con Ó Mã Lại chết, những lời nói kia giống như lời tiên tri rùng rợn ám ảnh chàng khôn ngơi, dù trước mắt chưa thấy một hiện tượng nguy cơ cỏn con nào. Chàng mượn rượu tìm quên, ngày đêm bên tiếng đàn giọng hát. Mọi việc kinh doanh giao cho người quản gia già quán xuyến. Chim gà cũng thuê một tay thiện nghệ tạm thời chăm sóc. Chàng muốn ở lại ngôi dinh thự nơi kinh thành một thời gian để lắng quên mọi việc. Không thể nào ở trong ngôi nhà trên Kinh Bắc mà không bị hình ảnh của con Ó Mã Lại ám ảnh với những lời nghiêm trọng của người giao nó lại. 

***

Chàng đang ngất ngưỡng cùng chúng bạn nơi một tửu lầu bậc nhất tại kinh thành. Bỗng nghe có tiếng người thốt bên cạnh “Mô Phật, thí chủ từ tâm xin nhủ lòng bố thí”. Giật mình, chàng quay lại bởi tiếng nói ấy rất quen tai. Sửng sốt. Đây là vị Quán Chiếu Thiền Sư, người giao cho chàng con Ó Mã Lại nơi miền biên giới Châu Đốc-Cao Mên, người đã nói những lời bí ẩn về con Linh Kê, người chàng dự tính trong chuyến xuôi nam vừa rồi sẽ đến thăm tại núi Sam Châu Đốc để cảm ơn đã tặng chàng con Linh Kê mang phúc lợi đến cho gia đình chàng.

“Thí chủ nhận ra bần tăng chứ?” Quán Chiếu Thiền Sư điềm đạm nhìn Lê Tuấn. Chàng chợt như người choàng tỉnh, đứng lên chấp tay niệm Phật hiệu, nghiêm trang chào vị thiền sư rồi nói liền: “Không ngờ! không ngờ! tôi rất mong gặp Đại sư. Đang dự tính thu xếp vào nam chuyến nữa để tìm đến tham vấn ngài thì ngài đã hiện thân nơi xa xôi này. Thật thất lễ. Xin thỉnh Đại sư về tư gia, tôi thật là có lắm điều muốn nói”. Chàng cung kính giới thiệu Quán Chiếu Thiền Sư cùng mọi người, rồi để lại món tiền hậu hỉ dư thừa cho chúng bạn tiếp tục cuộc vui. Chàng mời vị thiền sư cùng lên xe ngựa trở về dinh thất.

“Bần tăng vì đại nạn của thí chủ mà lặn lội tìm đến. Con Linh Kê ngày trước tình cờ khi bần tăng vào rừng sâu vùng Đế Thiên Đế Thích hái thuốc mà cứu nó khỏi tay con hắc báo. Bần tăng không tiện nuôi giữ, lúc trở về gặp thí chủ tại Châu Đốc, nhìn ra người phẩm hạnh nên không ngần ngại giao phó nó vào tay thí chủ. Những tưởng nó sẽ được an thân sung sướng trong tay người chủ hết lòng thương yêu, ngờ đâu một đêm sau buổi tọa thiền, bần tăng thấu hiểu mọi sự và nó đã hóa kiếp. Tuy báo nghiệp có căn do, nhưng sự ác độc giết nó đã làm cho Vương Điểu, người cha của nó nổi cơn thịnh nộ. Về sau này, chồn cáo sẽ thay con người chiếm lĩnh giang sơn gấm vóc do tổ tiên ta đã dày công dựng lên. Loài quỷ này sẽ đầu độc tư tưởng và làm tiêu tán nhiều thế hệ suốt sáu mươi năm phủ trùm tang tóc. Lửa chiến tranh sẽ bừng cháy, xương máu sẽ lan tràn. Người giàu sẽ bị tước đoạt và bị hành hạ. Người tham gia chiến tranh bị chết chóc, tù đày. Người thiện tâm phúc đức sẽ có thuyền “Bát Nhã” đưa sang bờ bến khác. Người có cơ duyên sẽ được chư Phật độ trì qua biển qua rừng lánh xa quỷ cáo.

Ôi một trường thiên lịch sử chỉ vì một lời nguyền nghiệt ngã! Gia đình thí chủ rồi đây sẽ tản lạc tha phương, sự giàu có sẽ tan thành mây khói. Thí chủ nhờ vào tâm đức nên mạng sống hãy còn, hãy mau dời gia cư về phương Nam sinh sống, chần chờ e không kịp trở tay. Nhờ công đức thí chủ dưỡng nuôi Linh Kê nên tuy gặp nạn mà chỉ như người chỉ mất một cánh tay, bần tăng phá lệ lộ bày. Đại sự này không cho phép thí chủ bâng khuâng, phải quyết định nhanh chóng rời đi. Phương Nam đồng ruộng bao la, con người chân chất, là nơi có thể sống an lành. Đừng nuôi ảo tưởng dựng lại nghiệp đồ. Nếu thí chủ tái tạo cũng chỉ là con dao thêm một lần cắt đến đôi chân, thí chủ đau khổ nữa mà thôi”. 

***

Lê Tuấn chưa thực hiện ngay theo lời của Quán Chiếu Thiền Sư, nhưng trong lòng đã tin vị đại sư bí mật kia đến bảy tám phần. Lời dặn dò sau cùng của đại sư chàng còn nhớ rõ:

“Những người Tàu Phản Thanh Phục Minh sau khi họ thất bại đã kéo thuyền xuôi xuống phương Nam lánh nạn. Họ tìm đến các đồng bằng có nhiều sông ngòi đồng ruộng, tiếp giáp biển như Hà Tiên, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau mà lập nghiệp sinh sống. Dân tình tại các thổ ngơi như vậy thường cởi mở và chất phác. Bần tăng khuyên thí chủ nên lưu tâm các địa danh ấy. Khi nào thí chủ an cư, còn thiện duyên bần tăng sẽ ghé đến uống chung trà vấn an”.

Sau đôi lần vào Nam, đến các địa danh hiền hòa ấy để chọn nơi thích hợp cho tương lai, chàng trở về bàn với cha mẹ dời toàn bộ cơ nghiệp vào “đàng trong” nhưng giấu bặt chuyện Quán Chiếu Thiền Sư tiết lộ thiên cơ. Cha mẹ chàng đang lúc thịnh vượng, dứt khoát không nghe. Không ai đang giàu có lại thu dọn tài sản lìa bỏ quê cha. Đàng trong nghe đâu nhiều nơi dân chúng còn man rợ, dân trí thấp kém, gia đình chàng sao có thể sống chung đụng bọn cùng dân quê mùa ấy. Biết cha mẹ không lay chuyển, chàng thu dọn tư gia. Chim thú phóng sinh, đám gà chọi nuôi không đá chém nữa, chủ gà khác chuộc bao nhiêu cũng không bán. Chàng trả cửa hàng lại cho cha mẹ, viện lý do vào Nam thăm thú, đôi ba năm mới về lại Bắc phương. Mang theo một phần tài sản, chàng cùng hai người đầy tớ thân tín vào nam.

Chàng chọn đất Bạc Liêu làm nơi thực hiện dự tính. Dự tính của chàng là “nước đôi”. Lập thêm cơ sản đàng trong để lỡ khi xảy ra đại sự như lời Quán Chiếu Thiền Sư, cơ nghiệp đàng trong đã thiết lập, cha mẹ chàng có di cư vào nam thì cơ ngơi bấy giờ đã đâu ra đấy. Mấy năm gần đây, sau nạn đói năm Ất Dậu, cuộc chiến chống Pháp, đánh đuổi những người thay mặt Mẫu quốc đã ròng rã 9 năm, lòng người dân quyết liệt và tinh thần ai ai cũng căng thẳng. 1945 Việt Minh cướp chính quyền. Họ Hồ xưng Vương, chủ trương vô sản và cộng sản, là lý thuyết ngoại lai nhưng đánh trúng tham vọng nên đa số tầng lớp bần cùng và bọn tham lam chạy theo. Thời cuộc càng thêm rối rắm mịt mờ. Những lời tiên tri của vị đại sư hình như bắt đầu lấp ló. Chàng cương quyết gom thêm phần lớn tài sản mang vào Nam lần nữa.

Tại Bạc Liêu chàng đã mua nhiều ruộng đất, và làm “làng kha” buôn bán lúa gạo để tạo uy tín làm ăn. Chuyến vào Nam này, chàng dốc tiền mua thêm ruộng để cho thuê, mở một cửa hàng chạp phô trong chợ Nhà Lồng. Ngoài ra, hai căn nhà gạch ba gian chàng đã cất xong tại xã Long Thạnh cách tỉnh lỵ năm cây số, mua thêm mẫu đất nối liền, đào ao nuôi cá Phi, trồng tre Mạnh Tông và dừa Lửa, dừa Xiêm chung quanh. Nhìn vào đồ sộ không kém địa chủ. Đang tiến hành mọi việc thì có tin sét đánh. Một gia nhân của ba chàng lặn lội từ Bắc vào báo cho biết cha mẹ chàng đã bị đấu tố chết khi “cải cách ruộng đất” đột ngột ban hành. Toàn bộ ruộng cho nông dân thuê, nhà cửa cha mẹ chàng, đều bị nhà nước tịch biên. Cơ ngơi của chàng cùng số phận, họ còn xử khiếm diện chàng trước tòa án Nhân Dân, kết án “xử tử”. Trước khi cha chàng bị đội cải cách đến bắt đã bảo người tớ hầu vào Nam ngăn chàng trở về.

Sự sản đồ sộ của gia đình chàng một sớm một chiều tiêu thành mây khói. Mẹ cha chàng còn bị giết chết thảm thương. Run sợ thay cho lời tiên tri, chàng vỡ lẽ ra sự huyền nhiệm thì song thân đã nên người thiên cổ. Chàng chắc gì yên thân dù thoát vào phương Nam ẩn nơi tỉnh lỵ xa tít này. Thôi thì chủ tớ sụt sùi lo việc giỗ cúng. Láng giềng chòm xóm biết được đến chia sẻ cho hoàn cảnh bi thương. Đôi người biết chuyện thời thế, khuyên chàng nên dọn ở hẳn trong phố chợ. Nhà, ruộng ở nông thôn nên bán bỏ để tránh hậu hoạn.

Chàng đặt hai gia nhân trông coi cửa hiệu chạp phô ở chợ làm lợi tức sinh sống. Rồi chàng phiêu hốt tang bồng, nhưng nhất định năm nào cũng ghé đến tịnh thất của Thiền sư Quán Chiếu, tĩnh tâm đôi tháng. Chàng trở thành cư sĩ, kinh sách Phật nhiều hơn bon chen thương trường. Sống độc thân giang hồ đó đây, mãi đến khi đất nước chia đôi, dân phương Bắc ào ạt chạy vào Nam lánh họa Cộng sản, người ta mới thấy chàng xuất hiện nơi các trại di cư với tặng phẩm cứu trợ.

Khi chắc chắn có thể sống an thân lộ diện, chàng bán căn tiệm hàng xén, mua dãy phố lầu trên đường Lê văn Duyệt nằm trong khu phố chính Bạc Liêu, cho thuê chừa một căn để cư ngụ, dùng căn trước mở hiệu may nhỏ, bảng hiệu lấy tên là “Nhà May Hà Nội”, rồi lập gia đình, trở thành lớp người kỳ cựu trong thị tứ. Người phương Bắc nào ghé đến đất Bạc nắng bụi mưa sình, đều tìm đến Nhà May Hà Nội để hỏi thăm người đồng hương này về nơi họ chân ướt chân ráo đặt đến lần đầu. 

***

Trong đêm trước khi sáng ngày vợ Lê Tuấn sanh, chàng nằm mơ thấy con Ó Mã Lại. Nghề chọi gà đã bỏ tiệt từ lâu, vậy mà thấy lại nó, lạ thật. Bộ dạng nó trông vẫn oai phong lẫm liệt như ngày nào. Nó cất cao cổ gáy một tiếng dài nghe kiêu hùng, chào mừng gặp lại người chủ cũ, rồi nó nói bằng tiếng người với chàng:

“Chủ nhân, khi xưa Người có công cứu sống và nuôi dưỡng tôi, yêu quý tưng tiu như con mình. Chẳng may phu nhân ra tay bất ngờ, nửa đêm xông khói ngãi độc rồi thả chồn đói vào vật chết tôi. Con chồn hôi ấy cho dù tôi kiệt lực vì khói mê, xúc phạm đến tôi phải bỏ mạng. Tôi đột ngột ra đi nên thời gian đền đáp ơn Người chưa đủ. Nay đến lúc thuận tiện, tôi trở lại đền ơn Người cho trọn nghĩa ân. Tôi chỉ báo cho Người biết đến thế thôi”.

Giật mình tỉnh mộng, chàng thật hoang mang. Sáng tinh sương sau đó, vợ chàng hạ sinh đứa con gái thứ hai. Chung quanh khuôn viên viện bảo sanh là “Xóm Đá Gà”, xóm xuất phát nhiều tay chơi đá gà lẫy lừng, có hai người nổi tiếng, nghe danh, là Giáo Thời, Giáo Long. Tiếng gà giấc sáng tinh sương bỗng gáy rân cả xóm khi đứa bé sơ sinh oe oe khóc tiếng chào đời. Chàng đặt tên cho con là “Bích Hợp”. Bích có nghĩa là toàn bích như ngọc. Hợp có nghĩa là sum họp. Không biết chàng có nghĩ gì đến giấc mộng ứng hay không mà lựa ý nghĩa đoàn viên đặt tên cho con. 

***

1975, miền Nam lại lọt vào ách đô hộ Cộng sản. Bộ mặt thật của đảng đương quyền cai trị, nhân danh thống nhất nước nhà, chưa bao lâu đã lộ ra loài ác quỷ khủng khiếp. Từ Bắc chí Nam, thiên hạ như nước vỡ bờ, băng rừng lội suối, vượt biển trèo non... cả triệu dân lành tìm đường thoát khỏi ngục địa Cộng sản. Quốc nạn ấy kéo dài mãi hơn mười lăm năm sau còn chưa dứt.

Nước Hoa Kỳ, ở tiểu bang California tập trung người Việt tị nạn đông đảo nhất, xây lên một thành phố buôn bán sầm uất được người Mỹ đặt tên là Little Saigon. Khoảng năm 2000, Việt kiều định cư tại đây ai cũng biết nữ ca sĩ thành danh tên Bích Hợp. Khi nàng cất tiếng hát lên những nhạc khúc tình tự non sông, trong lòng người thương nhớ quê hương cảm thấy trăm ngàn mũi kim đao châm chích. Người ta diễn tả tiếng hát nàng “như tiếng chim nào gọi cố hương”: sầu thương, ai oán, não nùng... Muốn biết lai lịch nàng, có lẽ tìm hỏi Quán Chiếu Thiền Sư, may ra. Nhưng mới đây, trên một nguyệt san Phật giáo, có đăng thông bạch Đại Sư Quán Chiếu vừa viên tịch tại Việt Nam. 

lê giang trần

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Tư 20249:24 SA(Xem: 265)
Mối tình dành riêng cho nàng mà tôi giữ miết ở trong lòng từ bao nhiêu năm,
02 Tháng Tư 202411:15 SA(Xem: 332)
Tôi thương Sài Gòn và thương cho chính mình, đã hư hao một chốn để về.
27 Tháng Ba 20243:59 CH(Xem: 334)
Đêm nay, có một người đàn bà ôm con bên hiên, thẫn thờ nhớ thương.
09 Tháng Ba 20244:34 CH(Xem: 540)
Người lính, ba lô trĩu vai, cắm cúi đi trong đêm.
04 Tháng Ba 202410:08 SA(Xem: 531)
Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết.
28 Tháng Hai 20249:43 SA(Xem: 386)
Ở nơi đâu mà núi chẳng cựa mình…
10 Tháng Hai 20248:41 SA(Xem: 810)
Vậy mà mùa xuân đã về rồi. Mùa xuân của những ngả đường cỏ non, của những ngày khởi đầu nhung lụa, của những đợt khói hương thơm ngát trong đêm Giao thừa,
27 Tháng Giêng 202410:13 SA(Xem: 669)
Dưới ánh trăng rực rỡ và đỏ như màu của máu ai, tôi thoáng thấy gương mặt em thảng thốt, vói theo cùng tiếng nhạc như một lời oán trách trăm năm.
15 Tháng Giêng 20248:59 SA(Xem: 804)
Sau mùa đông năm đó, nàng đã không quay lại KAUST.
09 Tháng Giêng 202410:11 SA(Xem: 718)
Khi anh ngẩng mặt lên thì trời đã sáng rõ. Cả bầu trời như đang cất mình lên cao cao mãi và những tia nắng đầu tiên của một mặt trời da cam rực cháy chiếu thẳng vào mắt anh.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17048)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12262)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18992)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9174)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8345)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 610)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 983)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1172)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22466)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14003)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19181)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7900)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8817)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8502)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11064)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30718)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20818)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25516)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22912)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21734)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19791)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18057)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19256)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16924)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16116)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24508)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31959)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34936)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,