NGUYỄN TUYẾT LỘC - Nghiệt ngã chuyện đời.

02 Tháng Mười Hai 201512:00 SA(Xem: 7351)
NGUYỄN TUYẾT LỘC - Nghiệt ngã chuyện đời.

 

Lời Tòa soạn: Xin lưu ý, tất cả những bài viết đăng tải nơi cột mục này, từ trước tới nay, không nhất thiết phản ảnh quan điểm hoặc lập trường của web-site dutule.com. Trân trọng.

 

(Hồi ức)
Với từng dòng hồi ức được viết ra sau đây, tôi như đang cấu xé chính lòng mình, và tôi biết việc đụng chạm tới vết thương của những người thân thiết trong họ tộc, thậm chí có thể bị hiểu lầm, nhận những đánh giá sai lệch ngoài ý muốn. Nhưng những cái tên, những con người được gợi lại đã an nghỉ dưới mồ sâu, số phận của họ dẫu cay nghiệt cũng đã an bài. Tôi chỉ hy vọng việc ôn lại một nỗi đau lớn lao hay một sai lầm nghiêm trọng đến đâu, của ai đó – thân sơ – cũng là một cách tẩy rửa tâm hồn, một sám hối cần thiết cho mỗi người hiểu đời và hiểu chuyện! 
 

Dì tôi nhũ danh là Ngọc Cầm (tên đầy đủ là Hồ thị Ngọc Cầm) con gái thứ ba trong gia đình có 5 người con của ông bà ngoại tôi. Mẹ tôi là chị đầu, rồi lần lượt đến cậu Hà (làm trong phủ chủ tịch Hồ chí Minh), dì Ngọc Cầm, áp út là dì Lan (chồng theo Việt Minh bị Tây xử bắn), cuối cùng là cậu Luyện chủ tiệm may lớn, thường may lễ phục cho tổng thống Ngô Đình Diệm và các vị chức sắc cao cấp của chính quyền Sài Gòn thời đó. Tất cả đã qua đời, trừ cậu Luyện tôi đã trên 90 tuổi, hiện còn sống ở Thanh Đa, Sài Gòn. Gia đình ngoại tôi con cái bên nầy cũng có mà “bên kia” cũng có, rất mực thương yêu nhau.

Trước đây, khi ở Quảng Trị, ông bà ngoại thuộc diện gia đình giàu có. Ba người con gái đều nổi tiếng xinh đẹp, nhưng Mẹ tôi là chị cả không những đẹp mà còn giỏi cầm kỳ thi họa. Anh Hai tôi thường tự trách môn toán dù khó đến mấy anh học cũng được, vậy mà ngón đàn của Mẹ thì anh đành chịu thua.

 Thuở thiếu thời, theo lời cậu Luyện kể ông Lê Duẫn từng để ý và có nhờ cậu làm chim xanh chuyển thư từ cho dì. Thật hư thế nào tôi không rõ nhưng rồi dì phải lòng và lấy ông Nguyễn Cần, người tôi gọi là dượng, cũng là một cán bộ đảng. Cả ba giúp nhau hoạt động trong tình đồng chí vừa là cấp trên và cấp thừa hành. Khi được lệnh ra thành phố, bên ngoài dượng là thầu khoán đứng thầu các dinh thự dưới thời Ngô đình Diệm, bên trong dượng hoạt động kinh tài cho tổ chức bí mật. Công việc thầu khoán kiếm được nhiều tiền chủ yếu dùng làm quỹ cho tổ chức bí mật. Quyền hạn, của cải nằm trong tay dượng, ân oán nhiều không biết đâu mà nói. Tiền dượng đem về, dì sắm hột xoàn đựng cả hộp đầy. Điều lạ là chính người dì xinh đẹp, lành tính của tôi dần dần cũng có thay đổi. Có tiền dì sinh ra đánh bạc, lắm lúc chơi với mấy tướng tá phu nhân của chính quyền Sài Gòn. Hết tiền, dì bán xe hơi ngay tại sòng bài, gọi tài xế lên cho tiền bảo về quê mà sống. Chú tài xế từng kể với Mẹ tôi là đã quỳ mọp xuống lạy “Lạy bà, bà làm như thế nầy ông biết được, ông bắn con chết.” và nhận được câu trả lời đầy quyết đoán “Tao bảo là cứ nghe lời tao. Ông nói gì, có tao.”

 Mỗi lần Mẹ tôi từ Huế vào sài Gòn thấy gia đình dì dượng không hạnh phúc lắm thường la rầy dì. Em út trong nhà ai cũng nể Mẹ vì bà học hành đến nơi đến chốn, lại có gia đình con cái thành đạt, nghiêm túc. Một lần chắc không kiềm chế được, dì òa khóc:

 - Dạ, em biết em làm sai, nhưng thằng nầy mặt mày đẹp trai, tướng tá oai nghiêm vậy chứ thâm độc, tàn ác và… - dì tức tưởi một lúc mới nói tiếp được - loạn luân lắm chị ạ. Nó gây không biết bao nhiêu tội ác. Em không nói được với ai em sẽ chết vì tâm bệnh. Đồng tiền nầy là của phù vân, kiếm dễ thì phá cũng dễ. Em muốn làm cho nó tang hoang, lột hết bộ mặt đạo đức giả của nó mới bằng lòng.

 Càng về sau dì ghiền uống bia, mỗi ngày từ 5 đến mười lít là chuyện thường.

 Cuối năm 1979 tôi cùng Ba Mẹ, Thanh Tịnh em trai tôi, và Thi, con trai út của tôi vào Sài gòn ở nhà dì tại đường Ngô Tùng Châu, Bình Thạnh. Dì dượng tôi có 4 con, 2 trai, 2 gái. Con gái đầu là Kim Loan có gia thất ở riêng, rồi đến Thành, Hoàng Oanh và con trai út là Nghi. Thành ra đời khi dì dượng còn hoạt động trong bưng. Vì hoàn cảnh xa cha mẹ, nên Thành học lớp ba đã nghỉ. Như tôi đề cập ở trên, sau khi về thành hoạt động bí mật, dượng làm thầu khoán xây dựng và nhanh chóng trở nên giàu có. Thành đến tuổi quân dịch nhưng nhờ dượng quen biết nhiều viên chức cao cấp nên xin cho Thành đi “lính kiểng”. Bộ mặt đẹp trai, cao ráo lịch lãm Thành ăn rồi chỉ biết chơi bời, tán gái. Các ca sĩ tên tuổi bấy giờ có người từng là người yêu một thời của Thành mặc dù cậu ta đã có bảy con. Sau 1975, dượng giữ chức vụ cao, can thiệp để Thành không phải đi học tập cải tạo. Nhà nước cấp cho dì dượng một khu đất rất rộng ở Bình Chánh, Thành về đó, và dù dì dượng có chu cấp Thành vẫn lái xe lam chở khách, vợ bán cơm tấm cho đến ngày được gia đình bên vợ bảo lãnh đi Mỹ.

 Hoàng Oanh là con thứ ba trong nhà, có vẻ đẹp kiêu sa, da trắng nõn, môi hồng mọng, mi cong, dáng cao, gầy, một vóc dáng và nhan sắc đến tôi là phụ nữ còn ngắm không biết chán. Cảnh Hoàng Oanh ngồi thêu, vừa khe khẻ hát, mấy ngón tay búp măng thoăn thoắt, điệu nghệ không ai nghĩ em bị tâm thần cả. Khi tôi hỏi:

 -Em biết ai ngồi trước mặt em không?

Hoàng Oanh mỉm cười, không nhìn lên:

 -Thì chị Tuyết Lộc con bác An chứ còn ai nữa.

 Những tháng hè nghỉ dạy hay chấm thi tú tài ở Sài Gòn, tôi được dịp về nhà dì ở. Hoàng Oanh, Nguyễn Bá Nghiêm và tôi chỉ cách nhau vài tuổi nên chúng tôi rất dễ gần gũi chuyện trò. Bấy giờ Hoàng Oanh nổi tiếng là hoa khôi trường Marie Curie. Trong lúc các giáo sư đi dạy bằng xe đạp hay xe gắn máy thì Hoàng Oanh đi học bằng xe hơi. Người đẹp, con nhà giàu, bao nhiêu chàng trai theo đuổi. Vì dì dượng vừa hoạt động bí mật vừa là nhà thầu khoán tiếng tăm nên dì sợ mọi bất trắc có thể xảy ra cho con cái, nhất là với cô con gái cưng vừa đẹp người lại đẹp nết, nhưng thật may mắn, Hoàng Oanh có thiên hướng sống nội tâm, không thích phô trương như một số tiểu thư Sài Gòn ngày đó.

 Ngoài giờ học ở trường, Hoàng Oanh chịu học thêm nhiều thứ: piano, chụp ảnh nghệ thuật, Anh văn. Chính tay em trang trí phòng riêng của mình. Chiếc đàn piano đặt trong phòng ngủ rộng của em cạnh cửa sổ nhìn ra vườn nhiều cây xanh. Tất cả màn cửa, tường, drap giường, chăn nệm đều một màu nâu trầm lặng, từ đậm đến nhạt dần, chấm phá nhẹ nhàng giữa tông màu lạnh đó là màu đỏ đậm rượu vang, rất hiếm hoi xen vài nét mỏng màu đỏ tươi như máu. Cái màu bất hạnh như dự cảm đoạn kết thảm khốc của gia đình và của chính em. 

Hoàng Oanh quen và phải lòng một trung úy quân y biệt động nhân dịp sinh nhật bạn. Em đưa cho tôi xem hình ảnh và thư từ của người yêu từ mặt trận gửi về đóng dấu KBC (Khu Bưu Chính). Em nói:

 - Hiếm khi anh ấy được phép về thăm nhà nên mỗi lần về cứ quấn quít bên em không muốn rời. Anh bảo là chiến tranh ngày càng khốc liệt, hết hạn quân ngũ mình sẽ ở mãi bên nhau.

 Tôi nhớ như in, mỗi lần có dịp tâm sự em như muốn hụt hơi khi kể lể chuyện tình không ngày mai của mình. Nhưng mọi chuyện không xẩy ra như giấc mơ của em tôi và người yêu của mình, những gì mà tôi từng chia sẻ với em, với số phận phủ phàng và đắng cay của bao nhiêu đôi lứa trong thời chiến. Khi biết chuyện dượng đã tìm cách đẩy người em yêu ra tận Khe Sanh, mặt trận đẫm máu nhất lúc đó, để không còn đường về hậu phương nữa.

 Ngoài tôi thỉnh thoảng nhỏ to tâm sự, Hoàng Oanh may mắn có một em trai rất đổi thương yêu chị. Trái ngược với tính đằm thắm, kín đáo của chị, Nghi phóng khoáng, nghệ sĩ. Nghi thua Hoàng Oanh một tuổi nhưng cậu hiểu biết, giao thiệp nhiều, bạn bè đến chơi nườm nượp, đàn hát, tập dợt nhu đạo, hay học nhóm với nhau. Nghi thường đóng vai vệ sĩ đưa Hoàng Oanh đi xem phim hay đóng vai “ông cụ non” trò chuyện khuyên lơn, an ủi, vỗ về chị. Cao lớn, đẹp trai, đi đâu Nghi cũng nắm tay, ôm vai chị, người ta cứ lầm tưởng đây là cặp tình nhân đẹp đôi, lý tưởng. Nghi rất thương yêu và quý mến chị đến độ trốn học, trốn ba má, mua vé máy bay định đưa chị ra tận Huế rồi Đồng Hà, Khe Sanh cho chị gặp người yêu. Chuyến đi bất thành khi dượng Cẩn phát hiện hai chiếc valise “trong tư thế sẵn sàng lên đường”. Từ đó Hoàng Oanh rơi vào trầm cảm, ngày một nặng hơn.

 Nghe dì kể có lúc em bỏ nhà đi lạc mấy ngày, dì dượng tìm mãi mới gặp trong nhà thờ Bình Thạnh, may có người cho ăn uống tử tế nhưng người ngợm, quần áo dơ bẩn, lem luốc, tóc tai rối bù trông thật thê thảm. Mỗi tháng dì đưa em đi khám ở phòng tâm thần Bệnh viện Bình Thạnh. Ngày nào dì ham đánh bạc, quên cho uống thuốc thì em lên cơn điên dữ dội, lấy dao chặt chém, rượt đuổi những người có mặt trong nhà. Những lúc như vậy, chỉ có dì mới “trị” được em. Dì cột hai tay em lại, nhét một ngụm thuốc an thần vào miệng, nhưng bệnh em càng nặng, thuốc càng tăng liều.

Tôi nhớ hôm mồng hai Tết năm Canh Thân, nhằm vào tháng 2 năm 1980, đúng là cái Tết đầu tiên tôi ở Sài gòn, dì dượng đang tiếp ông Phạm Hùng. Nghe dì bảo là ông giữ chức Bộ trưởng hay Thứ trưởng Bộ Nội vụ gì đó. Mặc dù là một nhân vật quan trọng nhưng vào các dịp Tết ông vẫn dành chút ít thời gian thăm viếng dì dượng. Ông Phạm Hùng đem quà của ông Lê Duẫn vào biếu, khi nào cũng có một thùng bia dành cho dì, trà và bánh chưng, bánh tét… Dượng đang tiếp khách thì đột ngột Hoàng Oanh từ phía sau nhà bước nhanh ra phòng khách, trên người không có mảnh vải che thân, đôi mắt long lên, tay cầm con dao lớn chỉ thẳng vào dượng:

 - Thằng kia, mầy đang bày mưu kế gì đó nữa? Mầy là con thú dữ, tao sẽ giết mầy. 

 Trong lúc dượng và ông Phạm Hùng bối rối thì dì hốt hoảng trèo lên cả ghế salon mà chạy đến kéo sượt Hoàng Oanh vào trong. Tôi và Thi, hai mẹ con chân run như cầy sấy. Tôi kể lại chuyện nầy cho cậu Luyện. Cậu tôi im lặng một lát như ngẫm nghĩ có nên nói cho tôi nghe không, rồi giọng trầm xuống:

 - Con ở Huế nên không biết gì về gia đình dượng Cẩn, chứ dì con đau khổ từ khi lấy ông ta. Ông là tay thầu khoán cáo già, giàu sụ, ăn chơi tung hoành chứ không phải ngồi cù rủ như chừ mô. Ông đối xử với người lạ tàn ác thế nào cậu không biết, mà biết cũng không nói làm chi, còn trong nhà ông làm nhiều điều xằng bậy lắm. Ông Nghè Trại là anh ruột ông Cẩn ở Hà Nội. Ông Cẩn từ Sài Gòn ra chơi, thấy chị dâu xinh gái là để mắt tới ngay, tán ra tán vào làm bà chị dâu có bầu, đẻ thằng Nguyễn Khang. Trong dòng họ ông ai cũng biết. Sau 75, thằng Khang được nhà nước phân bố một căn nhà lầu ở Lê Thánh Tôn, gần chợ Bến Thành. Nó biết ông Cẩn là cha nó, và ông Cẩn cũng nhận nó là con ông với bà chị dâu Nghè Trại. Thằng nầy cũng thường kiếm dịp thăm “cha”, nhưng ông Cẩn đối xử lạt lẽo lắm, ngượng ngập lắm. Chưa hết, dì Huệ con chồng chết đã lâu, một mình nuôi bảy đứa con. Khi dì con từ Quảng trị vào thăm chị ở Sài gòn, vì thương em nên dì Cầm con bảo chồng hằng ngày lấy xe hơi chở em gái đi đây đó cho biết. Không may vì không cưỡng nổi vòng tay anh rể làm thầu khoán giàu có, đẹp trai, hào hoa nên khi về lại Quảng Trị, dì Huệ đã mang bầu sinh con Minh Phương đó, nó giống hệt ông Cẩn không cãi chối được. Vậy mà mẹ Hoàng Oanh vẫn thương em, gửi tiền nuôi nấng Minh Phương đầy đủ lại xưng má má, con con. Biết chuyện Mẹ con giận lắm nhưng nghĩ cho cùng thì cả hai đều là em gái của mình, nên Mẹ con nói anh cả của con giúp cho dì Huệ chuyển về dạy ở Quảng Ngãi, tránh dư luận xì xào. Sau nầy tốt nghiệp Đại học Sư phạm ban Văn ở Huế, Minh Phương có gia đình và được các anh chị cùng mẹ khác cha bảo lãnh sang Úc đi theo với mẹ.

Liên quan tới bệnh tật của Hoàng Oanh, cậu kể:

- Ông Cẩn là đảng viên đảng cộng sản nên khi biết con Hoàng Oanh có người yêu là trung úy quân y thuộc lực lượng biệt động Việt Nam Cộng Hòa, ông tìm mọi cách ngăn cấm không cho chúng nó gặp nhau. Ông vận động cho anh ta đổi ra chiến trường nóng ở Khe Sanh, thật xa để không về Sài gòn được. Hoàng Oanh thương nhớ đổ bệnh một thời gian, nhưng như vậy chưa đủ để nó bị tâm thần. Biệt thự có vườn rộng, cây cối um tùm, sau vườn có cái giếng, Hoàng Oanh rất thích tắm ở giếng. Có lần nó đang đứng tắm thì ba nó ra và giở trò gì đó không biết, nó vùng chạy, la hét thất thần. Cậu đang ngồi nói chuyện với mẹ nó, nghe tiếng hét, hai chị em cùng chạy ra, thì vừa lúc nó hớt hải chạy vào không nói được gì, chỉ ráng cổ hét, hét và hét, tay chỉ ra vườn. Ông Cẩn vừa đi vừa lẩm bẩm, cậu không nghe rõ vì Hoàng Oanh hét to quá, nhưng mẹ nó hiểu. Chỉ mẹ nó mới hiểu chuyện gì đã xảy ra cho con gái mình. Bà đến nắm áo ông ta, tát đấm vào mặt ông lia lịa. Ông không phản ứng, đôi mắt trân trân nhìn vợ rồi lên thẳng lầu. Kể từ đó con Hoàng Oanh sinh trầm cảm, bỏ ăn, đóng kín cửa phòng, bệnh càng ngày càng nặng, lúc tỉnh lúc điên. Mẹ nó càng lúc càng hung dữ, đánh bạc, uống bia, bất cần đời. Gia đình như địa ngục.

 Nghe cậu kể tôi bàng hoàng cả người, ngồi lặng đi rất lâu, biết rằng đây không phải là chỗ an lành cho Ba Mẹ và tôi. Hằng ngày dì sai cu Thi đi bộ thật xa, qua 2 khoảng đồng trống mới đến nhà hàng bán đồ ăn nhậu. Tay Thi xách theo một cái can nhựa 5 lít để mua đúng 5 lít bia hơi, thứ bia mà ngày đó rất nhiều người uống và hợp khẩu vị của dì. Dì uống đến khi nào môi mềm nhủn ra, mắt lờ đờ là bắt đầu lên cơn chửi bới dượng cho đến khi quá mệt, kiệt sức, miệng không mở ra được nữa dì gục xuống luôn, cả nhà mới hoàn hồn. Khi tỉnh dì nói quấy quá rằng lúc đó bia nói chứ không phải dì nói.

 Những lúc dì tôi lên cơn như vậy, dượng không bao giờ hé môi cãi lại dì. Không hiểu sao ai cũng khiếp dượng, chỉ có dì không hề tỏ ra nể sợ dượng, mà ngược lại, dượng rất sợ dì. Im lặng là thượng sách với dượng. Tôi để ý dượng không bỏ đi mà cù rút ngồi chịu trận, hai tay bó đầu gối, hai vai nhô cao, mắt chỉ nhìn về một hướng như người không hồn. Một lần cậu Luyện nhận xét: “Ông Cẩn ít ra cũng có một ưu điểm là không bao giờ dám cãi cọ với vợ.” Không rõ cậu nói đùa hay thật.

 Tôi và Ba Mẹ thương dì, thương Hoàng Oanh nhưng lại sợ cảnh lên cơn điên của em và rất căng thẳng những lúc dì vật vã với bia rượu nên phải tìm thuê nhà khác. Dì năn nỉ, khóc lóc muốn Ba Mẹ tôi ở lại. Có Ba Mẹ tôi, dì cảm thấy như có chỗ dựa tinh thần. Càng ngày dì càng gầy ốm hơn. Dì nói, nếu dì chết sớm sợ không ai chăm sóc Hoàng Oanh. Dì phải sống. Sống như vậy!

 Khoảng đầu năm 1982, khi gia đình Thành đã đi Mỹ theo diện đoàn tụ bên vợ, dì dượng bán ngôi biệt thự Ngô Tùng Châu chuyển sang ở khu đất vườn Bình Chánh mãi tận An Lạc. Nhà bằng tranh vách ván, Thành đã sửa sang lại khá xinh xắn, đủ rộng cho dì dượng sinh hoạt nhưng lại lọt thỏm giữa cánh đồng ruộng mênh mông, cây cỏ khô cằn. Dì cho đào một hồ thả cá tra và trồng thêm rau muống. Tôi không hiểu vì sao dì dượng chọn cảnh sống biệt lập và cô độc đến thế.

 Dì vẫn đánh bạc hằng ngày, và uống bia liền miệng. Người ta dụ dỗ vay tiền dì rồi quịt luôn không trả, dì không biết tính toán, tiếp tục tiêu pha thả dàn. Dượng ngày một già yếu, bệnh suyễn từ thời trai trẻ nay kéo về hành hạ vào lúc đổi mùa. Dượng dùng đủ thứ thuốc, thuốc uống, thuốc xịt khi bị ngộp thở. Gần như không có ai bầu bạn, dượng tự cô lập sống như người tịnh khẩu. Con cái chỉ còn Kim Loan và Nghi. Cháu nội, cháu ngoại hầu như chẳng đứa nào đến thăm viếng ông bà. Dì cho một cậu ăn xin ngủ trước hiên để coi nhà ban đêm, ban ngày cậu này đi xin ăn. Sau nầy có dịp nhớ lại, tôi lờ mờ đoán rằng dượng Cẩn không tin tưởng ai, còn dì có lẽ không muốn ai ở gần biết rõ những bí mật không hay ho gì của gia đình. Cuộc sống về già giữa đồng không mông quạnh nầy chỉ có hai người và một cô con gái tâm thần. Kịch bản dì chưởi, dượng im lặng, cứ lập đi lập lại như thế.

 Hóa ra dì về ở đây chủ yếu cho Hoàng Oanh có khoảng không gian rộng, thong thả ra vào hít thở khí trời, không bị tù túng như ở Ngô Tùng Châu, Bình Thạnh. Chiều chiều tắt nắng, là lúc Hoàng Oanh được “sổng chuồng”. Bấy giờ Hoàng Oanh đã trên 30 tuổi.

 Có hôm tôi về thăm nhằm ngày trăng, thấy em đang chạy tung tăng khắp cánh đồng cằn cỗi, y như đứa trẻ con ham chơi. Có lẽ đó là những giây phút hạnh phúc nhất đời em. Có lúc em hái hoa dại kết với rơm rạ, lá khô cài lên tóc, vừa chạy vừa hát líu lo rồi cười vang, rồi khóc, quá mệt lại nằm ngữa trên mặt đất khô, hai tay duỗi dài, bất kể bùn đất vấy bẩn. Dơ dáy đến thế, hoang dã đến thế mà kỳ lạ sao dưới ánh trăng em vẫn đẹp, đẹp đến bàng hoàng. Nước mắt tôi không ít lần trào ra, thương và xót xa cho em tôi quá!

 Hôm đó tôi đang ngồi đan len trước nhà ở 61 Bến Chương Dương thì nghe Tuyết con dì Huệ, em họ tôi, báo tin Hoàng Oanh chết rồi. Tôi thót cả tim, vội vã thuê xe xích lô đi ngay. Xác Hoàng Oanh đã được quàng, dì không muốn để lâu. Những người đến lo đám nói cô Hoàng Oanh chết linh lắm và vì còn con gái nên phải làm kỷ và nhẹ nhàng. Thanh Tịnh, Nghi và Kim Loan đang ở Vũng Tàu cũng được Tuyết báo tin, nhưng chưa về kịp. Đám ma vắng vẻ, nhạc đám ma ỉ ôi, lê thê suốt ngày thật não lòng. Tôi ôm tấm thân tong teo đang run rẫy của dì, nghe dì thều thào kể “Chiều nào nó cũng ra chơi thơ thẩn, múa hát ngoài đồng cho đến tối dì mới dẫn về. Khoảng 4 giờ chiều, dì nghe tiếng hét lớn vội vàng chạy ra thì thấy một con trâu điên đang rượt theo nó, dùng hai sừng để húc. Hoàng Oanh chệnh choạng, cố chạy. Nó lao vào húc Hoàng Oanh, húc mạnh đến lòi cả ruột rồi bỏ chạy. Dì thấy rành mạch tận mắt, dì đến thì không kịp nữa, nhưng có kịp cũng chẳng làm chi được con ơi! Thôi, nó chết trước dì cũng tốt rồi. Chứ dì chết trước nó, dì không nhắm mắt được!”. Dì lại kể tiếp, giọng khào khào gần như không cảm xúc “Ba nó nhìn cảnh chết chóc thảm khốc của con gái, mặt mày tái xanh không còn chút máu, lần mò tới chỗ đi văng, bò vào tận góc tối, mắt lờ đờ nhìn người qua lại. Dì nhìn mà không nén nổi căm phẫn “Ông đã giết nó. Nó chết rồi đó, ông hả dạ chưa?” Ổng lầm bầm nói nhỏ “Tôi đâu giết nó”. Tới đó, con biết không, dì phải hét to “Ông im đi, không thì tôi sẽ giết ông. Lẽ ra con gái tôi cũng được hưởng hạnh phúc như bao nhiêu con cái nhà người khác, nếu ông không dùng quyền lực ngăn cản tình cảm của nó, nó đâu đến nổi trầm cảm. Chưa đủ, ông còn đẩy nó đến mức điên khùng. Ông lấy chị dâu của ông làm tan nát gia đình anh Nghè Trại, ông cũng lấy luôn em gái tôi, lòng tôi đau như xé, nhưng vì thương em tôi bỏ qua cho ông. Tôi biết, tôi có nghiệp nặng phải cộng nghiệp với ông nên cam chịu cả đời, chứ những chuyện ông gây ra cũng đủ để trời tru đất diệt ông, ông nghe rõ chưa?” Bất ngờ ông lết xuống đất quỳ dưới chân dì, níu lấy chân dì… Dì đi đến đâu ổng lết theo đến đó. Ngang qua xác của Hoàng Oanh, ổng rúm người, chồm dậy, đâm đầu chạy ra khỏi nhà, vừa chạy vừa la lớn “Đừng đuổi theo tao. Tụi bây định giết tao hả?”. Nhưng có ai đuổi theo ổng đâu con!”.

 Dì tôi chợt im thít, người lã ra như không còn chút sinh lực nào, ngạc nhiên là khuôn mặt không còn nét của dì ráo hoảnh, chắc đã cạn kiệt nước mắt rồi. Tôi khẻ khàng vòng tay ôm lấy đầu tóc bù xù của dì y như ôm một đứa trẻ đang bệnh, biết muộn lắm rồi, không còn một lời nào an ủi được dì nữa!

 Bây giờ chỉ còn Nghi, út trai của dì cũng đã ba mươi mấy tuổi, rất hiếu thảo với dì dượng, là cậu em tôi thương nhất trong số anh em bà con. Mọi chi tiêu của dì dượng đều do Nghi lo chu đáo. Mẹ nợ đến đâu Nghi trả hết đến đó không bao giờ dám than phiền mẹ. Nghi tốt nghiệp kỹ sư hóa học, nhưng lại nối nghiệp cha làm thầu xây dựng. Nghi có gia đình và 2 con.

 Lúc con gái tôi đang theo học năm thứ ba Đại học Sư phạm, ban Anh văn ở Huế thì tôi đã gửi gắm cho Nghi, để khi ra trường có chỗ làm ngay. Những năm nầy Ba Mẹ tôi không còn mạnh khỏe như trước. Tôi nghỉ dạy ở Cao Đẳng Sư Phạm Sài gòn, vừa đan len kiếm tiền mà vừa có thể ở nhà chăm Ba Mẹ. Nghi tạo điều kiện cho tôi tìm mua các thứ vật liệu xây dựng như sơn, bột màu, gạch, đá granit, đá hoa làm nền từ Sài gòn rồi cho xe tải chuyển ra Vũng Tàu. Khi con gái tôi tốt nghiệp đại học, được Nghi đưa vào làm ở văn phòng Tramasuco thuộc Sở Công Nghiệp Vũng Tàu, chi nhánh đặt tại thành phố Hồ Chí Minh. Nghi cho cháu làm tại đây để được sống gần tôi và cùng tôi chăm sóc Ba Mẹ tôi. Một hôm Nghi đột ngột ghé tôi và báo tin hai vợ chồng em đã ly dị, tài sản Nghi tạo dựng giao hết cho vợ để nuôi hai con và ra đi với cây đàn guitar Nhật. Không tiện góp ý tôi chỉ im lặng, lòng thương xót hoàn cảnh lận đận của em. Vài năm sau, Nghi cho xây một biệt thự rộng đẹp ở trung tâm thành phố Vũng Tàu, nhưng chưa hoàn chỉnh. Nghi nói tôi đưa Ba Mẹ, Tịnh và con cáí ra ở đó. Hai chị em liên lạc nhau hằng ngày, bàn tính mọi thứ. Vào dịp nghỉ hè hay những ngày lễ, tôi cho Thi ra nhà cậu chơi, Nghi giao luôn cho cháu nhiệm vụ đi đòi nợ khách hàng. Vũng Tàu thời kỳ đó rất yên bình, chưa phát triển nhiều, đường sá cũng chưa mở rộng, nên Thi ôm tiền về cho cậu mà không lo nạn cướp giựt như sau nầy. Thi làm chơi mà được cậu “trả lương” nên thích ở với cậu lắm. Nghi rất quý em trai út của tôi, vẫn thường nói anh Tịnh là thần tượng của Nghi. Tịnh dạy Nghi sáng tác nhạc và tiếng Anh.

 Một hôm trời chập choạng tối - vào tháng 5 năm 1985 - Nghi từ Vũng Tàu phóng xe lên nhờ tôi đứng chủ hôn cho tiệc cưới Nghi và người yêu mới vào tuần sau. Nghi cho biết giấy tờ hôn thú xong rồi, thiệp cưới cũng in xong, chỉ còn hình thức lễ nghi hai họ. Do sức khỏe kém dì dượng tôi không xuống Vũng Tàu lo cho con được.

Trước lễ cưới Nghi hai ngày, em lên Sài Gòn đón hai đối tác làm ăn người Đài Loan bằng xe du lịch 4 chỗ ngồi của sở. Dư thời gian Nghi ghé qua thăm tôi đang ở Nhà Khách Chính Phủ đường Pasteur. Hôm ấy mưa lớn, mới 5 giờ chiều mà trời đã tối. Nghi có vẻ mệt mỏi ngồi duỗi dài trên ghế bành, thở ra thườn thượt, bứt rứt không yên. Chiếc áo ca rô màu xám làm cho da mặt Nghi sạm đi. Tôi khuyên Nghi ở lại mai khỏe rồi về lại Vũng Tàu. Nghi lắc đầu:

 - Công việc nhiều lắm chị à. 10 giờ tối nầy, sau khi đi ăn em phải đưa hai tay Đài Loan nầy về Vũng Tàu để kịp sáng mai họp.

 Trong ký ức tôi vẫn còn ghi nhớ hình ảnh cơn mưa tầm tã phủ trắng cả đường phố trong buổi tối bất hạnh khi em bịn rịn từ biệt tôi.

Sáng hôm sau con gái tôi xong công tác từ Vũng Tàu đang trên đường về Sài gòn. Tôi chờ con ở Nhà Khách Chính Phủ thì được điện thoại của Công ty Tramasuco báo tin Nghi mất từ hôm qua tại Long Thành, hiện xác đang để tại nhà xác Bệnh Viện Vũng Tàu chờ thân nhân đến nhận. Tôi bán tín bán nghi hỏi lại vậy Nghi mặc áo màu gì, họ cho biết Nghiêm mặc áo thun ca rô màu xám. Đúng là chiếc áo Nghi mặc khi đến gặp tôi.

 Cùng lúc ấy con gái tôi bước vào. Nghe tôi kể nội dung cú điện thoại, cháu tái mặt.

 - Trên đường về ngang Long Thành con thấy có mấy xác chết lôi từ ruộng lên sắp thành hàng ven đường, nhưng không biết đó là cậu.

 Tôi gọi ngay điện thoại cho anh Lộc, y tá cấp cứu của Bệnh Viện Sài Gòn, nhờ anh điều động xe cấp cứu xuống Vũng Tàu chở xác Nghi lên, nhưng anh nói xe cấp cứu chỉ để chở bệnh nhân còn sống, cần cấp cứu chứ không chở người đã chết. Tôi phải điện thoại qua Chị Rảnh, Phó Giám Đốc Bệnh Viện Cấp Cứu Sài Gòn bấy giờ, xin chị ký giấy chứng nhận xe bệnh viện xuống Vũng Tàu chở bệnh nhân cần cấp cứu. Chị đồng ý. Theo xe là cu Thi, Mỹ Đức con gái tôi, và anh Lộc. Hơn một giờ sáng xe mới đến Bệnh Viện Vũng Tàu, rồi chở xác Nghi quay về Bình Chánh nơi dì dượng tôi ở.

 Người sống sót trong xe là chú tài xế. Chú kể:

 - Long Thành hôm đó 10 giờ đêm vẫn còn mưa tầm tã. Trên xe có hai Phó Giám Đốc Sở là anh Nghi và chú Sáu cùng hai người Đài Loan. Xe đang chạy thì một chiếc xe bồn chở xăng ngược chiều, do tài xế ngủ gục hay nhậu say lạc tay lái đâm nhào qua kéo xe con xuống ruộng. Sáng sớm có người đến kéo từng xác dưới bùn lên để ven đường. Con tưởng mình đã chết rồi. Chú Sáu thì như điên khùng, bò lóp ngóp, bò đi bò lại không điều khiển được mình. Anh Nghi và hai ông Đài Loan đã chết, bụng sình lên, toàn thân nhuốm bùn không nhìn rõ mặt, chỉ nhìn vóc dáng mà đoán người. Một số người dân tốt bụng gần địa điểm tai nạn đã thuê xe đưa tất cả về Bệnh Viện Vũng Tàu.

Chỉ trong vòng một năm phải chứng kiến sự ra đi thảm khốc của hai người con, một trai một gái, dì tôi bị sốc nặng, suy sụp thật nhanh. Dượng như kẻ tâm thần. Căn nhà thật sự đã trở thành địa ngục.

 Từ khi hai em mất, tuần nào tôi cũng xuống Bình Chánh thăm dì tôi. Thấy tôi dì mừng lắm, níu lấy tay tôi. Tôi gửi tiền nhờ người hàng xóm đi chợ, lo ăn trưa cho dì dượng. Tôi chào dượng, nhưng dượng chỉ gật đầu nhìn chỗ khác, không nói câu nào.

 Có hôm tận mắt tôi thấy dượng ngồi dựa một gốc cây cạnh nhà, tự mình cào cấu vào mặt đến chảy máu. Khi tôi rón rén bước lui, chợt nghe tiếng dượng gào sau lưng:

- Mình ơi, mình nói giùm chúng đi đâu thì đi, đừng theo tôi nữa.

 Tôi quay lại định hỏi thì dượng bỗng xông vào bếp, tay cầm dao hớt hơ hớt hãi chạy ra vườn như rượt đuổi ai:

- Chúng mầy muốn gì? Muốn gì? Đòi mạng hả?

 Dượng chặt túi bụi vào mấy đám cỏ khô, rồi quá mệt không còn sức nữa, dượng ngồi bệt xuống đất hả miệng thở dốc.

 Dì chạy ra lật đật kéo tay tôi vào nhà.

 - Con đừng để ý, đừng sợ, không phải chỉ hôm nay mà mỗi ngày. Ổng điên thiệt rồi.

 Hình hài đẹp trai, phong lưu ngày nào của dượng nay trông như người tàn phế, dơ dáy, hôi hám. Mỗi lần đi ngang qua phòng khách dượng không dám ngẩng đầu có lẽ vì tấm ảnh trên bàn thờ của Hoàng Oanh đang trừng trừng nhìn dượng. Dượng rón rén bò lên đi văng, kéo mền trùm kín mít từ đầu đến chân chỉ chừa hai mắt và mũi để thở, thỉnh thoảng lẩm bẩm một mình:

 - Để tao yên. Mệt rồi! Mệt rồi!

 Mỗi lúc cơn suyễn đến mắt dượng trợn trừng mà thở dốc. Cơn suyễn hành hạ dượng không buông tha mỗi ngày, đuối sức, dượng nằm xuống lại vội nhổm dậy tựa vào tường há miệng thở.

 Nhiều khi bất đắc dĩ phải nhìn dì dượng như thế, lòng tôi đau xé. Có lúc tôi tự hỏi liệu dượng đã thực sự ăn năn sám hối chưa. Nhưng dẫu có cũng đã quá muộn màng. Tôi ôm dì, ôm hình hài xương bọc lấy da không còn chút sức sống nào nữa của dì mà nước mắt ràn rụa. Thêm một lần khóc nữa trong đời, đau đớn xót xa từ khi tôi khóc vì mất Ba Mẹ chỉ trong vài tháng!

 Theo lời người ăn xin kể thì hai ngày liền anh ta không thấy ông bà ra ngoài ăn sáng, kêu hoài chẳng ai trả lời. Anh ta vào nhà trong thấy dì dượng tôi đã chết liền chạy báo công an, rồi thấy có số điện thoại dán trên vách nhà, anh ta gọi cho Kim Loan, cho ông cậu Luyện. Người ta thấy dượng trong tư thế đang với tay tới chai thuốc suyễn xịt mũi chỉ cách mấy tấc, người té nghiêng trên đi văng. Từ hai hốc mắt mở to, từ hốc mũi, lỗ tai kiến to, kiến nhỏ đang bò rúc rỉa. Và dì, không rõ trước đó có ăn uống gì không, nằm gọn trong võng rồi qua đời luôn, dưới đất là can bia hơi đã cạn.

 

Tôi chưa bao giờ thực sự tin thuyết quả báo đời sau, nhưng những gì xảy ra cho gia đình dì tôi, làm tôi nghĩ ngay đến chữ Nghiệp của nhà Phật. Tính ác của xã hội không phải một sớm một chiều xảy ra, mà cái nghiệp quả của con người phải chăng đã được cộng nghiệp qua nhiều kiếp trước như Đức Phật đã dạy! Bản án dành cho dượng, tự dượng xử lấy. Còn dì tôi, hết nghiệp chướng cũng đã ra đi như người đã trang trãi xong cả nợ lẫn lãi, như một diễn viên trong bi kịch của Shakespeare rời sân khấu khi nước mắt chưa kịp lau. Nhưng bản án đó quá nặng tay với một trái tim đầy mẫn cảm và còn lương tri của dì tôi, và quá đổi bất công đối với hai đứa em trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa hoàn toàn vô tội của tôi. Dù muốn tránh xa mặt chính trị vốn đã quá thừa phức tạp ở đất nước nầy, tôi không khỏi chạnh lòng nghĩ rằng hóa ra một con người - tôi không dám nghĩ là tất cả - có thể có mặt đóng góp nào đó cho xã hội, thậm chí cho “lịch sử”, vẫn có thể nhúng tay vào những tội ác bất nhẫn đáng xấu hổ, ít ra là trường hợp của dượng tôi, ông Nguyễn Cẩn, chồng và cha những người thân cùng máu mủ bất hạnh của tôi.

Nguyễn Tuyết Lộc

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
27 Tháng Ba 20243:59 CH(Xem: 10)
Đêm nay, có một người đàn bà ôm con bên hiên, thẫn thờ nhớ thương.
09 Tháng Ba 20244:34 CH(Xem: 276)
Người lính, ba lô trĩu vai, cắm cúi đi trong đêm.
04 Tháng Ba 202410:08 SA(Xem: 233)
Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết.
28 Tháng Hai 20249:43 SA(Xem: 154)
Ở nơi đâu mà núi chẳng cựa mình…
10 Tháng Hai 20248:41 SA(Xem: 589)
Vậy mà mùa xuân đã về rồi. Mùa xuân của những ngả đường cỏ non, của những ngày khởi đầu nhung lụa, của những đợt khói hương thơm ngát trong đêm Giao thừa,
27 Tháng Giêng 202410:13 SA(Xem: 447)
Dưới ánh trăng rực rỡ và đỏ như màu của máu ai, tôi thoáng thấy gương mặt em thảng thốt, vói theo cùng tiếng nhạc như một lời oán trách trăm năm.
15 Tháng Giêng 20248:59 SA(Xem: 621)
Sau mùa đông năm đó, nàng đã không quay lại KAUST.
09 Tháng Giêng 202410:11 SA(Xem: 551)
Khi anh ngẩng mặt lên thì trời đã sáng rõ. Cả bầu trời như đang cất mình lên cao cao mãi và những tia nắng đầu tiên của một mặt trời da cam rực cháy chiếu thẳng vào mắt anh.
31 Tháng Mười Hai 20235:08 CH(Xem: 417)
Tôi đi đâu xa, mỗi lần trở về Hưng Mỹ không theo đường đò dọc, mà theo đường bộ,
25 Tháng Mười Hai 20232:21 CH(Xem: 568)
Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về nơi dòng sông miên man chảy.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 16812)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12048)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18829)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9023)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8122)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 450)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 817)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1019)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22338)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 13898)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19085)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7779)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8693)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8390)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 10936)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30587)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20743)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25363)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22810)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21613)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19669)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 17962)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19147)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16823)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16014)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24371)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31806)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34841)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,