Ngày đứng lớp của tôi sau một thời gian cũng hơi lâu. Thầy Hải Thanh là người thay mỗi khi tôi không có mặt. Tội nghiệp vì cố giữ tôi lại đã làm cho ông nhiều khi cũng bị bận rộn và miễn cưỡng. Tôi lên thăm thầy một buổi cuối tuần, lần nào tôi cũng vào chùa trước, vòng ra sau hậu liêu nơi thầy trú trì ở và nơi đó cũng có "thư viện" nhỏ gồm những kệ sách. Không hiểu sao tôi thích nhìn những kệ sách xưa với những bộ sách bìa đã vàng, sờn gáy. Trên những tủ sách cũng có ghi rõ những ngăn nào là Kinh, ngăn nào là Luật, và ngăn nào là Luận. Tôi ưa tò mò ở ngăn Luận. Tôi hoàn toàn không biết vì sao; có lẽ Kinh và Luật có vẻ khô khan cho tôi lúc đó, nhưng Luận làm tôi liên tưởng đến những tuệ giác lớn của các vị thiền sư giảng về Kinh. Những bộ Luận có thể đọc để biết cái hiểu biết của người xưa về Kinh và mình hiểu thêm về giáo lý. Luật thì thôi, nó dành riêng cho những thầy tu. Tôi nhớ có một lần còn học ở Huế, một hôm chú Viện (bây giờ là Thầy Hải Thanh) gặp tôi ở sân trường hỏi tôi đã quy y ngủ giới chưa. Tôi trả lời chưa. Hỏi vậy thôi, thầy không khuyên tôi nên quy y gì hết. Và từ đó không bao giờ thầy hỏi nữa.
Vòng xong thư viện gõ cửa vào đảnh lễ thầy trú trì, ngồi uống vài chung trà rồi mới bước qua văn phòng Hiệu Trưởng. Có nhiều khi lên cả hơn tiếng mà chưa qua trường như lần này nên gặp nhau thầy đã hỏi "Hôm nay anh gặp ông già phải không?". Tôi cười vì hai chữ ông già thầy dùng để chỉ thầy trú trì. "Dạ hôm nay ông già giữ lại uống vài chén trà, ổng nói "trà ngon phật tử từ Sài Gòn lên thăm". Hai thầy trò cười thật vui vì cả hai đều dùng danh từ "ông già, ổng" để nói chuyện về thầy trú trì già nhưng dễ thương, bình dị.
Thầy đưa cho tôi thời khoá biểu của tuần sau trong đó tôi có một lần đứng lớp. "Có anh trở lại tôi mừng quá. Học trò thấy tôi vào lớp tụi nó khép nép ngồi nghe giảng từ đầu đến cuối, có đứa nào đặt câu hỏi gì đâu. Tôi hỏi có cần hỏi gì không? tất cả làm thinh. Vậy mà tôi nghe nhiều cô cậu nói với nhau giờ của anh tụi nó hỏi nhiều lắm". Tôi nghĩ trong bụng điều đó đúng vì với một ông thầy tu học trò đâu có dám đặt những câu hỏi "táo bạo" về tình yêu trong những tác phẩm giảng dạy. Điều này ngay cả thầy Hải Thanh cũng hiểu nhưng thầy vẫn nói ra sự thật cho tôi biết.
Bước vào phòng tôi thấy một người lính đang ngồi xem tờ báo. Người dáng quen quen nhưng trong bộ nhà binh tôi nhận không ra. Người ấy bỏ báo xuống đứng lên. Cả tôi và người lính đều nhận ra cùng một lúc: Cao. Từ ngày rời Nha Trang đến nay mới gặp lại. Hai anh em ôm nhau "Vẫn vậy. Tôi vào lính phong sương, trông ông cũng còn vẽ thư sinh chán". Cao tóm tắt đời mình: "Bị động viên, trốn, bị bắt, nay mang lon trung sĩ..." Nói xong cười ngao ngán. Nay có thêm bộ râu trên. Người vẫn ốm như thuở nào. Trong câu chuyện tôi không hề nhắc đến người xưa vì biết hai "anh chị" đã rời nhau trước khi nàng du học. Có lẽ tại trốn lính nên Cao Hoành bị đi hạ sĩ quan, đó là hình thức phạt ngày xưa đối với những thanh niên không chịu trình diện theo lệnh động viên. Cao vẫn cái vẽ con gái nhỏ nhẹ "May mà có người còn yêu thơ mình nên tìm cách kéo mình về đây chứ không thì bây giờ vẫn còn ở trên tiền đồn Đức Cơ". Tôi mừng cho Cao về được với Chiến tranh chính trị khỏi phải đi đánh giặc. Tôi vẫn khôi hài "Hồn thơ thì thích lang thang ở những nơi xa xôi hẽo lánh, nơi đó chàng trai như một trượng phu trên thớt ngựa oai phong xung trận, để nàng ở nhà tim thót ra ngoài vì nhung nhớ chờ mong. Nhưng người làm thơ thì chỉ thích không đánh giặc, đầu tên mũi đạn". Cả hai cười vang quên mất thầy Hải Thanh rời phòng lúc nào không biết. Rồi bao nhiêu kỷ niệm về. Chỉ có thời Nha Trang giữa tôi và Cao mới có kỷ niệm. Cao nhìn tôi: "Nhớ giàn ti-gôn nhà ông". Tôi biết Cao nhắc đến giàn hoa này bởi vì bài thơ Ti gôn Ti gôn, màu hoa vỡ của Tôn Nữ tặng tôi sau cái ngày hai "anh chị" tình cờ đi ngang qua giàn hoa nhà ở dưới chân núi Hải Đức. Tôi lại nhắc đến cái đêm Cao gõ cửa rất khuya xin ngủ lại vì trễ tàu. Thời gian đó giữa Cao và Tôn Nữ tha thiết lắm nhưng gia đình nàng không chịu. Sau này thơ của nàng vẫn đều đặng gởi về đăng ở báo Phổ Thông của Nguyễn Vỹ nhưng không thấy bóng dáng của chàng Cao ngày xưa. Trong khi đó thơ của họ Cao vẫn tràng ngập hình bóng tà áo xanh màu xanh muôn thuở. Giữa rừng xanh mà chẳng thấy màu xanh.
Tôi hỏi Cao có biết Văn Đàn Phố Núi không? Cao cũng khôi hài nói với tôi "Tôi đang tìm cách nộp đơn gia nhập đây".
Chuyện say sưa quên mất thầy Hiệu Trưởng rời phòng đi đâu hồi nào cho đến khi chú tiểu bên chùa qua nói "thầy mời hai thầy qua dùng cơm chiều".
Cao đứng lên theo tôi tay với lấy tờ báo đang xem khi tôi bước vào: "Tôi xem Từ Thức chưa xong thì ông vào. Tôi mượn tờ báo này đem vô trại đọc tiếp. Nhân vật có thực?". Tôi gật đầu. Rồi cả hai đi qua nhà ăn. Thì ra Cao đang xem truyện của mình. Mà sao thầy Hiệu trưởng có báo này?
Bữa cơm tối có thầy trú trì. Thầy bao giờ cũng chững chạc trong áo tràng màu vàng khi dùng cơm. Có lần thầy bảo "Hạt cơm của Phật". Có lẽ Thầy muốn nói đến công đức cúng dường của thập phương.
Vòng Sân Cát