Dutule.com (ngày 27 tháng 8 năm 2010): Nhà văn Thảo Trường, tên thật Trần Duy Hinh đã từ trần vào lúc 3 giờ chiều, ngày Thứ Năm, 26 tháng 8 năm 2010 vừa qua, tại quận hạt Orange County, miền nam California, vì chứng bệnh ung thư gan.
Tác giả “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” sinh ngày 25 tháng 12 năm 1938 tại Nam Định. (Có tài liệu ghi ông sinh năm 1939.)
Ông khởi nghiệp văn vào cuối thập niên 1950, với truyện ngắn đầu tiên đăng trên tạp chí Sáng Tạo, trong thời gian ông đang thụ huấn tại trường Bộ Binh Thủ Đức.
Chính vì thế, trước khi đăng truyện ngắn đầu tiên, truyện “Thử Lửa" của Thảo Trường, nhà văn Mai Thảo đã đổi tên Thảo Trường thành Thao Trường!
Mãi tới năm 1962, khi Cơ Sở Xuất Bản Tự Do in “Thử Lửa,” ấn hành tập truyện ngắn đầu tay của Thảo Trường, bút hiệu Thảo Trường mới được “hiệu đính” và, trở thành quen thuộc với văn giới, độc giả.
Là quân nhân trong quân lực VNCH, phục vụ trong ngành Chiến Tranh Chính Trị (cục An Ninh Quân Đội,) hầu hết các nhân vật trong truyện Thảo Trường đều liên quan tới người lính, chiến tranh.
Nhưng người lính và, chiến tranh trong truyện Thảo Trường không mang tính thời thượng như một số nhà văn viết về người lính cùng thời với ông; hiểu theo nghĩa người lính là hình ảnh hào hoa, anh hùng, hy sinh tuổi trẻ cho quê hương, tổ quốc…Mà, người lính trong truyện Thảo Trường luôn gây nhiều bối rối, đôi khi nhức nhối cho chính quyền miền Nam; nhất là với các cơ quan phụ trách phần vụ thông tin, kiểm duyệt. Điển hình như truyện ngắn “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp,” sau này, được in thành sách bởi nhà Trình Bày (1966,) với nhân vật chị Tư, một người đàn bà nhà quê thuần túy, có chồng đi tập kết, ở lại miền Nam, bị ép làm công việc giao liên, tiếp tế, lấy tin cho phía cộng sản. Chị mặc nhiên trở thành vợ của một du kích cộng sản ban đêm, và ban ngày, cũng là vợ của một người lính truyền tin thuộc phe quốc gia… Cuối cùng, khi mang thai, sinh con, chị không biết ai là cha của đứa nhỏ! Bi kịch quốc – cộng khép lại khi chị Tư chuyển dạ, chị được một y sĩ của phe quốc gia đỡ đẻ, mặc dù mới trước đó, hai người lính của sĩ quan này tử thương vì gỡ xuống một tấm biểu ngữ “Đả đảo đế quốc Mỹ,” trên cành tre, do chính tay chị treo…
Trong khi chính quyền miền Nam nhìn nhà văn Thảo Trường với con mắt e dè, ngần ngại vì sau này, ông cộng tác mật thiết với những tạp chí được coi là “khuynh tả” như Hành Trình, Đối Diện, Trình Bày, Đất Nước… và thân thiết với những nhân vật như Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Truơng Bá Cần, Lý Chánh Trung…Nhưng khi miền nam sụp đổ, Thảo Trường lại là sĩ quan cấp tá duy nhất, nằm trong danh sách bị nhà cầm quyền Hà Nội cầm tù lâu nhất, 17 năm, chỉ vì tác phẩm “Hà Nội nơi giam giữ cuối cùng,” ông viết sau khi theo phái đoàn của VNCH ra Hà Nội nhận tù binh, trong chương trình trao đổi tù binh giữa hai bên.
Ra khỏi tù, nhà văn Thảo Trường đã được đoàn tụ với gia đình tại miền nam
Rất nhiều truyện ngắn viết về thời gian lao tù cũng như liên quan tới xã hội miền
Tuy nhiên, ở mặt kín khuất, mặt sâu lắng nhất của hàng ngàn trang văn, ThảoTrường đã viết xuống trong cuộc đời làm văn của mình, chỉ cần một chút lắng tâm, người đọc sẽ nhận ra tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và, khát khao tự do cho người đân Việt Nam nơi Thảo Trường, là một tình yêu nhiệt thành tới ngậm ngùi.
Điều này cho thấy, ông là mặt khác, mặt đối nghịch của một số nhà văn miền Nam thời trước 1975, đứng về phía chống chiến tranh vì mặc cảm trốn lính, hoặc ước ao thầm kín mong được xếp vào thành phần…trí thức tiến bộ,
Thêm vào đó, tính nhân bản trong từng trang sách của họ Trần, như ngọn hải đăng, soi rọi suốt hành trình văn chương giầu có, nhưng đằng đẵng gập ghềnh của ông vậy. Calif. 27. 8-10.