VŨ THƯ HIÊN - Trần Dần, vài kỷ niệm

17 Tháng Chín 20221:40 CH(Xem: 2533)
VŨ THƯ HIÊN - Trần Dần, vài kỷ niệm
Tôi lưỡng lự ghi lại ở đây vài kỷ niệm với Trần Dần.

Anh nay đã là người thiên cổ, lại là thứ thiên cổ không bình thường, tức thị kẻ lúc sống bị người ta cố tình lờ đi, coi như không có trên đời, lúc chết lại ồn ào làm đám.

Tôi ở rất xa vào ngày anh ra đi.

Tôi được tin buồn khi đến sứ quán ở Moskva vì một việc gì đó không còn nhớ, một thủ tục hành chính không quan trọng nhưng phải làm. Anh bạn tùy viên văn hoá chìa cho tôi bản tin hằng ngày bằng telex. Cuối bản tin có một dòng về Trần Dần – anh không còn nữa.

Đầu năm. Đường phố đầy tuyết, vắng người. Mấy chiếc xe rải cát cho đường bớt trơn chạy chầm chậm. Chúng chẳng liên quan gì tới tin buồn vừa tới với tôi.

Tôi đi lãng đãng, nghĩ mông lung.

Tôi hình dung đám tang bạn mình. Tôi ước đương lúc thiên hạ tò te bài lâm khốc, Trần Dần của tôi lại khoét được một lỗ ván quan tài để ngó ra ngoài phố mà phá lên một tràng cười như cách anh cười khi khoái chá – đầu ngật ra sau.

Trần Dần vướng vào nghiệp thi ca rất sớm. Khi anh đã có tên trong thi đàn, tôi còn thò lò mũi xanh. Cuộc kháng chiến chống Pháp, và chỉ có nó, đã hào phóng cho chúng tôi một dấu bằng.

Tháng 10 năm 1954. Trong những ngày tiếp quản thủ đô, đoàn quay phim Liên Xô của Roman Karmen ở khách sạn Splendid. Tôi là phụ quay phim cho Eshurin trong đoàn này.

Trần Dần thường ghé khách sạn Splendid uống bia. Anh hay gọi tôi xuống uống cùng, “để tán phét”.

Bia bán ở trệt khách sạn. Trần Dần đến, xà-cột ngang hông, cùng với Hồng Minh. Ngồi quanh các bàn là các sĩ quan Pháp làm công việc bàn giao Hà Nội.
Chiến tranh qua rồi, lính tráng hai bên nâng cốc tươi bưởi chào nhau.

Hồng Minh ít nói, chỉ lẳng lặng nghe. Anh yêu điện ảnh, thích nghề viết kịch bản, nhưng không có duyên với nó. Nhưng chỉ với tình yêu ấy anh đã rất đáng yêu. Sau, anh chuyển ngành về Bộ Văn hoá, làm công việc gì ở đấy tôi không rõ.

Trần Dần quý Hồng Minh, anh lắc đầu, thở dài:

- Nghệ thuật khốn nạn ở chỗ cửa của nó quá hẹp. Không phải ai cũng lách vào được.

Trần Dần mặt nhầu nát, tóc bù xù, ngó nghiêng những kẻ thù hôm qua. Có vẻ anh muốn nói chuyện với họ, nhưng không biết có nên hay không, nếu nói thì nói cái gì.

Nguyễn Đình Thi đến. Anh xuề xoà ngồi với chúng tôi, hào hứng nói về sáng tác và phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nó là phương pháp thời thượng, chủ trương nhà văn phải miêu tả hiện thực “trong chiều hướng đi lên của nó”.

Trần Dần nghe lơ đãng. Anh không quan tâm mọi thứ lý thuyết văn học. Với anh, bia ngon hơn bất kỳ lý thuyết nào.

Ít lâu sau, Trần Dần cho ra Người người lớp lớp, một thứ tiểu thuyết không ra tiểu thuyết, ký không ra ký. Tôi cố gắng đọc không được một nửa. Nó không thuộc bất cứ thể loại văn chương nào.

Trần Dần hỏi. Tôi ậm ừ một nhận xét chung chung.

Những tưởng với một thằng nhóc hờ hững với tác phẩm của mình, Trần Dần sẽ nhún vai bỏ đi. Nhưng không, anh kéo tôi tới tiệm Bodega ở Tràng Tiền, thết tôi bánh min-phơi kèm một cốc sô-cô-la. Trần Dần gọi cà-phê, hút thuốc lá Cotab.

Tôi thấy Đoàn Chuẩn ngồi trong góc, chai Cognac vơi trước mặt. Chúng tôi gật đầu chào nhau. Vào một trưa nắng vỡ nứa trên đèo Re trên đường Tuyên Quang đi Thái Nguyên Đoàn Chuẩn đã dốc cạn số ký ninh phòng thân cho tôi uống, cho tôi nghe tiếng đàn Hạ Uy Di của anh trong niềm vui thấy tôi qua cơn bạo bệnh.

Tôi hèn. Tôi không đủ can đảm kéo Đoàn Chuẩn về bàn mình. Tôi đã bị “cạo” đến nơi đến chốn vì tội vào buổi sáng đầu tiên tiếp quản Hà Nội đã ngồi con cà con kê với “một người trong thành” tại cà phê An Thái Majestic.

Năm 1955 tôi đã ở Moskva.

Báo chí trong nước chỉ có ở sứ quán. Để biết chuyện trong nước thì phải ra đấy mà đọc. Một lần cầm tờ Nhân dân lên, thấy toàn những bài chửi Nhân văn – Giai phẩm thậm tệ với những tên Trần Dần, Phan Khôi, Trần Duy, Văn Cao, Hoàng Cầm, Lê Đạt…

Chẳng có tờ Nhân văn hay Giai phẩm nào. Chẳng có ai để hỏi ngọn ngành. Ở sứ quán không có ai họ hàng với văn chương. Người nào cũng là cán bộ cách mạng thuần chủng.

Tôi mua một bưu ảnh có hình điện Kremli gửi về cho Văn Cao: "Không gì có thể làm cho tôi tin rằng Văn Cao chống lại cách mạng…", tôi viết thế.

Văn Cao nhận được bưu ảnh. Nó đem lại cho anh niềm an ủi trong những ngày chịu đòn hội chợ. Lời nhắn ấy rồi được người ta cho vào hồ sơ mang tên tôi.

Thì ra bất cứ người nào có bài đăng báo đều được công an lập hồ sơ để đấy, phòng hờ vào lúc nào đó tác giả nọ trở thành phản động.

Văn Cao đã lọt vào sổ đen. Có một hồ sơ dày về anh. Tôi đã thấy nó.

Tôi thân với Văn Cao. Chúng tôi có thời gian dài sống với nhau trong rừng Quảng Nạp gần Quán Ông Già ở Thái Nguyên. Nhớ những đêm rừng lạnh lẽo, ngồi quanh đống lửa hồng, nướng sắn, mặt nóng rát mà lưng lạnh như băng, Văn Cao mơ một ngày tôi và Quang Hưng sẽ lĩnh xướng bản Đường về trên sân khấu Nhà Hát Lớn. Bài này là thơ nhạc giao duyên:

“Về đây có những đồng hương cốm lúa xanh dạt dào/ Bao nhiêu năm trong hội ngày mùa/ Ngọn lửa chài và con sông trắng…”

Trở về Hà Nội, tôi đến thăm Văn Cao. Hỏi thăm về vụ "Nhân văn – Giai phẩm", về Trần Dần. Văn Cao bảo:

- Nó khai bậy. Tao đâu có nói: “Phải phục xuống mà đánh”. Làm chúng nó nện tao tơi bời.

Đấy là chuyện xảy ra trong vụ văn nghệ sĩ bị tập trung học tập tại Thái Hà Ấp.

Tôi không biết, cũng không hỏi Trần Dần có nói thế hay không. Tôi tin Văn Cao không bịa.

Trần Dần nhìn tôi bằng cặp mắt ngơ ngác, pha chút nghi ngờ khi thấy tôi đến. Cái nhìn cảnh giác là đặc trưng cho thời gian ấy.

Trước khi có thể tin nhau, người ta nghi ngờ nhau cái đã – một khoản tạm-ứng-thanh-toán-sau trong các mối quan hệ.

Trần Dần bảo:

- Đất Nam Hạ là đất nghịch, cậu ạ. Đất của những tướng cướp và những văn nhân ngang bướng.

Trần Dần và tôi là đồng hương. Đất Nam Hạ xem ra quả có thế thật. Anh vướng vào "Nhân văn – Giai phẩm". Tôi đi tù, rồi ở miết. Hiền lành như anh giáo Tuấn – Trần Xuân Bách – bỗng dưng cũng trở thành kẻ chống đảng.

Tôi có hai người bạn có tên trong bản Tuyên ngôn Dạ Đài là Vũ Hoằng Địch) và Trần Dần.

Tuyên ngôn Dạ Đài là tiếng kêu than và cũng là tiếng thét của văn học khốn cùng trong thời thuộc Pháp:

“Chúng tôi – một đoàn thất thổ – đã đầu thai nhằm lúc sao mờ. Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mơ của những người thuở trước. Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt; và mai một: ý tứ những thi nhân mò ánh trăng mà thác. Chúng tôi không còn khóc, không còn muốn khóc – vì người ta đã khóc mãi ái tình, công danh và thế sự. Chúng tôi không còn nhìn mây, không còn muốn nhìn mây – vì người ta đã nhìn mãi mây chiều cùng nắng sớm. Chúng tôi đã gào thét những đêm thâu, đã rên la những ngày dài dằng dặc. Chúng tôi đã nhìn lên Tinh Đẩu và đã nhìn xuống Thế Nhân. Chúng tôi đã về giữa non sâu để trở lại những bình nguyên hoang lạnh. Chúng tôi đã sống, sống hết cả những hình thức dương trần, đã đau khổ hết cả những mối sầu vui nhân loại...”

Tôi uống bia với Trần Dần. Tôi nhớ những vần thơ của anh:

Điện cháy đầu ô đêm… phố dốc
Chòi sương cánh vạc giật mình
Trống đánh đoàn thợ lên tầm
Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp
ò… ò đêm đi như một cỗ quan tài
Ngày về: đây mới thực là đau
Thành quách heo heo mây cò bợ
Bụi nổi chân thành lem luốc đám đông đi
He hé búp lai-ơn
Cửa sổ phố nhà quan vàng nghệ
Leo dốc – đoàn tầu vào ga – rú vài tiếng… rồi đi!
Kèn thổi bùm bum một đoàn xiếc ế
Ngã tư… nhà Lợi Tường mõ Tây tịch ký
Tượng chúa Giê-xu búa gõ tầm tầm
Gió đánh hàng bàng, lá chết chạy vòng quanh
Phố chéo chênh chênh. Ăn mày gặp ăn mày
Lườm nhau – mắt vải điều cay cay chớp nắng
Rầm rầm lũ trẻ đuổi bà gù quăng đá làm bia
Thùng bắc! Quan công phò nhị tẩu!
Cả ba nhân vật lịch sử
Mặt vôi lơ láo phố tuồng chua…
Chiều buông như một tiếng thở dài
Trại lính chòi canh nâu
Mỗi ngày hai lần tò te chào cờ tam thể
Lính đi manơ ắc-ê rời trại
Gặp lính về íc-ắc chào nhau!
Nhưng cổng trại đèn lên
Thôi đã hết một ngày!
Ai mửa sao đêm đầy các ngõ?
Để hầm hập bồ hôi cơn sốt phố về đêm.

Trần Dần không chỉ buồn thế sự trong thời thuộc Pháp. Anh không hài lòng trong mọi thời gian, cả trong thời lạc quan cách mạng con người không được phép buồn.

Những nhà lãnh đạo văn nghệ của đảng cộng sản không hề hiểu rằng sự hài lòng với hiện tại là những cái đinh năm phân đóng vào ván thiên người nghệ sĩ.

Khi anh hài lòng, có nghĩa là anh không còn muốn cái hơn nữa.

Ngoài miệng, người ta không cấm Trần Dần buồn, họ cũng chẳng vỗ vai khuyến khích anh vui. Nhưng người ta tự cho mình quyền phán xét cái anh viết ra – anh vui cái gì đây, anh buồn cái gì đây?

Thơ của Trần Dần làm “người ta” khó chịu. “Người ta” không phải người đi ngoài đường. “Người ta” là người tốt bụng tự nhận có trách nhiệm cầm dây tròng vào cổ các nhà thơ để dắt họ đi cho họ khỏi lạc lối.

“Người ta” khó chịu với Trần Dần vì họ không hiểu anh nói cái gì, anh muốn cái gì. “Người ta” muốn thơ phải giống bản tự kiểm thảo.

Những nhà thơ lại không thế. Cảm xúc đến, họ cầm lấy bút, và những vần thơ tuôn chảy.

Như bài này:

tuổi 60 rồi? không viết nổi một câu thơ?
.bại? bại? đại bại? anh sáu mươi rồi chẳng có quê? càng là lí do anh đốt quê ác liệt hơn?
không chơi với bọn không quê – vẫn ăn – ngủ… tam đa?
người? con khoanh tay? con tất tả – dạ tràng? thà là con phó thác?
chúng sinh mù? dưới mồ?… mới thao láo mắt nhìn ra?
.tôi lại ngủ như ngày mới đẻ? khi còn đỏ hỏn chân mây? tôi lại ngủ như ngày mới đẻ?
.kẻ viết? đạp đổ chân trời? xổng xích các chân mây?
.kẻ viết cầm chắc âm dương trong tay? không vui không buồn? ngoài mọi nghĩa? bên kia bảy tục cảm? Mĩ? Nộ? Ai? Lạc? Ái? Ố? Dục?
kẻ viết rung ở một địa đồ ma xó? Tuệ cảm? Tuệ tâm? Tuệ ác?
kẻ viết cốt ở tào lao man rợ? không cốt tuỳ thời cúi ngửa?
kẻ viết bất biết thị phi chê-khen? thị phi hiểu? mọi thị phi công ty không nhìn nghe…?
.thức khuya mới biết đêm ngắn? kẻ ngỡ đêm dài là chửa thức khuya?
Khi “người ta” không hiểu thì họ vác gậy xông tới phang cái đã. Cẩn tắc vô áy náy.

Trần Dần là nhà thơ cô đơn. Anh có bề ngoài, và cả bề trong nữa, giống tu sĩ khổ hạnh. Thơ là Thượng đế của anh.

Để hiểu Trần Dần theo cách khảo cứu đã có nhiều người viết. Phạm Thị Hoài là cây bút nổi bật. Trong lĩnh vực ấy, tôi là kẻ bên lề.

Ở Hà Nội thỉnh thoảng tôi đến thăm Trần Dần. Thỉnh thoảng thôi. Nói đúng chữ là năm thì mười hoạ.

Lần nào cũng như lần nào, tôi thấy Trần Dần ngồi đấy, một mình, bên cái điếu bát ngổn ngang những xoắn giấy dùng thay đóm nứa.

Có người nhận xét: nắng chiếu vào bức tường nơi anh ngồi bất động ghi lại một hình người. Tôi không nhận ra chi tiết đắt giá ấy.

Ngồi bên nhau, chúng tôi im lặng.

Im lặng cũng là một thứ đối thoại. Chúng tôi ngồi một lúc mới nói một câu, thường là nhắc về một người anh em lâu không gặp.

Trần Dần hút thuốc lào liên tục, rít ngắn từng cơn. Đóm là những mảnh giấy con con xoắn lại.

Tôi ngờ vực nhìn những xoắn giấy vứt quanh cái điếu. Rất có thể chúng là những vần thơ. Anh viết rồi anh chán – những mẩu thơ bỏ đi trở thành đóm. Có thể chúng là những câu thơ đẹp. Khi tứ thơ đến, anh khe khẽ gõ xe điếu vào thành cái điếu bát, miệng lẩm bẩm một giai điệu nào đó.

Tôi có đọc đâu đó về vợ văn hào Lev Totstoi. Ông viết, những trang đầy chữ. Không hài lòng, ông vò nát, vứt chúng quanh ghế ngồi, rồi cắm cúi viết tiếp. Bà vợ tích cóp những mảnh giấy bỏ đi ấy, cất vào một chỗ. Nhờ bà mà những nhà nghiên cứu Lev Tolstoi có thêm vô khối tư liệu để thấy Chiến Tranh và Hòa Bình hay Anna Karenin đã hình thành như thế nào.

Trần Dần không phải văn hào. Chẳng ai nhặt những vần thơ vương vãi quanh chỗ anh ngồi.

Trầm ngâm, Trần Dần thủ thỉ:

- Thơ viết ra rồi, cậu ạ, là đồ bỏ.

- Thế thì cái gì mới không phải là đồ bỏ?

Anh gõ cồng cộc vào đầu:

- Là cái còn nằm trong cái này này.

Nhà thơ đích thực nào cũng thế – thơ đích thực là thơ còn nằm trong đầu.

Khi một nhà thơ rời bỏ chúng ta, người đó mang theo tuốt tuột những bài thơ chưa được viết ra.

Thế có tiếc không cơ chứ!

(trích trong tập CHÂN DUNG)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Tư 20249:05 SA(Xem: 267)
Ngày nhỏ chúng tôi căng miệng hát một cách thích thú bài nhạc chế
27 Tháng Ba 20248:29 SA(Xem: 336)
Ai là một ví dụ có ích cho những cố gắng của các nhà văn đương đại viết tiếng Việt,
16 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 866)
Cuối cùng thì, sau hơn bốn mươi năm vắng mặt, Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương lại được, giờ đây, rót đầy tràn ly, trên tay mỗi người dân nước Việt, cùng nâng lên, cùng hát vang, cùng chúc vang một mùa xuân:
15 Tháng Hai 20242:26 CH(Xem: 1229)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam.
25 Tháng Giêng 20249:05 SA(Xem: 958)
Với tôi, Phạm Duy là Người gieo hương.
15 Tháng Mười Hai 20234:33 CH(Xem: 1031)
“Người đi qua đời tôi / Hồn lưng miền rét mướt / Đường bay đầy lá mùa / Vàng xưa đầy dấu chân / Lòng vắng như ngày tháng…”
08 Tháng Mười Hai 20239:13 SA(Xem: 1018)
Thơ bà, hòa trộn giữa nét âm trầm, sâu kín, dịu dàng của xứ Huế và nét xông xáo, cởi mở, sẵn sàng đón nhận, hóa giải nhẹ nhàng mọi vấn đề của kiểu Sài Gòn,
21 Tháng Mười Một 20239:39 SA(Xem: 1141)
Năm 1997, bố tôi, nhà thơ Trần Dần mất tại Hà Nội.
11 Tháng Mười Một 202312:00 SA(Xem: 8341)
Tôi gặp bà lúc nhà thơ Huy Cận còn tại thế. Hai lần gặp, bà như cái bóng bên cạnh chồng.
05 Tháng Mười Một 20233:49 CH(Xem: 1110)
Trong âm nhạc, Từ Công Phụng là một trong những nhạc sĩ rất đặc biệt,
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17040)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12258)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18989)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9172)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8340)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 609)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 980)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1171)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22464)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14001)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19179)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7898)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8815)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8500)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11063)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30716)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20817)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25512)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22911)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21732)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19789)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18056)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19254)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16922)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16115)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24507)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31956)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34935)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,