Phỏng vấn Kiệt Tấn

30 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 12376)
Phỏng vấn Kiệt Tấn


dangmailan_1-content-content


Đặng Mai Lan và Phan thị Trọng Tuyến thực hiện cho Văn

Hỏi:
Truyện ngắn đầu tay anh viết lúc nào, trong bối cảnh nào ?

KT:
Truyện ngắn đầu tay của tôi ? Thiệt tình mà nói, tôi cũng không nhớ rõ. Bởi lẽ tôi đã viết lai rai từ thuở còn học trung học và đại học.
Hình như truyện ngắn đầu tay tôi viết về Diane, người em xóm học, khi tôi từ Paris trở về Québec năm 1961, không còn nhớ rõ tựa, đăng trên nội san Đất Lạnh số 1 của nhóm sinh viên Việt du học tại Québec chủ trương. Đất Lạnh ra có mỗi một số thì tòa soạn đóng cửa đình bản vì cụt vốn, các mầm non đại văn hào đều bị bắt buộc nghỉ dài hạn không ăn lương.

Hỏi :
Trước khi nói thêm phần kế tiếp về văn chhương khi thực sự tham gia làng báo tại Việt Nam, KT cho biết sơ về đời sống sinh viên trong khoảng thời gian du học ở Québec, hình như anh hơi kì thị chủng tôi: vì anh mê toàn mấy cô đầm, hết đầm Âu đến đầm (bắc) Mỹ. Dạo đó có lẽ thiếu con gái VN đi du học ? Hay là dạo đó việc "giao du" trai gái VN
có nhiều khó khăn, trở ngại ( thí dụ : không thể có " sex " nếu không cưới nhau?) Con gái VN khó "thương " hơn ?

KT
: À !…Để tôi động não ráng nhớ lại coi. Nếu không lầm thì Trước Mặt là truyện tình đầu tay của tôi được lên mặt báo, nhưng báo nào thì tôi không còn nhớ rõ. Đó là sự nối tiếp của cuộc đời tình ái lăng nhăng của tôi. Truyện kể tôi đến nhà đón một cô vũ nữ bồ bịch đi chơi. Trong lúc ngồi chờ cô em trang điểm tôi hồi tưởng lại những cuộc tình đã qua ba trật bốn vuột của mình mà ngán ngẩm. Những Hoa, những Tuyết, rồi Diane, Louise, Danyèle, những Nguyên, Hường, Nhung… đều lần lượt giã biệt. Buồn ơi! Ta xin chào mi. Truyện kết thúc bằng những câu hỏi miên man không dứt : Cô em sẽ phụ tôi, tôi sẽ bỏ nàng, tôi và nàng sẽ yêu nhau dai dẳng, nàng sẽ có con với tôi, tôi sẽ cưới nàng, nàng sẽ bỏ tôi bất thần để đi lấy chồng? Hoàng hôn lần lữa năm hầu hết, hờ hững ai xui thiếp phụ chàng..Tôi không còn dấu vết nào của truyện Trước Mặt.

Hỏi :
Thời đó đưa vũ nữ bồ bịch đi chơi có "dễ dàng" không: dù giới nghiêm, thiết quân luật, vợ nhà vân vân",nàng sẽ có con với tôi, tôi sẽ cưới nàng, nàng sẽ bỏ tôi bất thần để đi lấy chồng" chắc anh yêu lắm nên mới có những câu hỏi thực tế như vậy hay chỉ vì nhớ đến cái chết của Tuyết ? Khi trở về VN, anh làm việc ở đâu ? Làm công chức cao cấp có chán không ? Truyện của KT đa số đều đưa vấn đề tình dục vào ? Tại sao ?

KT:
Câu trả lời thật ra khá đơn giản: Cuộc tình nào của tôi cũng tay chưn rối beng, thịt da bát ngát, đồi núi chập chùng, cỏ non mút mắt. Khi hồi tưởng và viết lại thì nó y chang như vậy thôi, cũng đất trời choáng váng, thịt da bấn loạn, đâu có mất công gì phải đưa với đón tình dục vào truyện hoặc hư cấu làm chi cho nó nhức cái đầu, mệt thằng nhỏ (cười cười ). Xin cô Hai thông cảm.
Có lần khi nói về tình dục tôi đã minh định : “Tôi viết về tình dục với mục đích cho độc giả thấy tình dục là một điều tự nhiên và đẹp đẽ”. Lần khác, khi viết về tôi, Nguyễn Hưng Quốc đã nhận xét : “Nhiều người cho là Kiệt Tấn viết bạo. Thêm điều này nữa : Bạo nhưng không bao giờ nhớp nhúa. Thiếu cái trong sáng của Thạch Lam, tình yêu trong truyện Kiệt Tấn lại gần hơn với sự thực, với cuộc đời” ( Tuyển tập Kiệt Tấn)

Hỏi :
Anh có thể đưa ra một vài đoạn văn tiêu biểu của anh khi viết về tình dục ?

KT: Khi đọc những truyện tình hôi hổi tình dục của tôi trong Tuyển Tập, ở trang 17, Đoàn Nhã Văn đã phân tích và để ý được điểm này : “Một trong những điểm đặc thù ở chữ nghĩa của KT, trong vùng cấm địa này, là đặt nhiều cặp tính từ đằng sau một câu nói để nhấn mạnh điều diễn tả. Cặp chữ này nối liền cặp chữ kia tạo nên những đợt sóng dập dồn trong dòng suy nghĩ người đọc. Vì thế, người đọc thấy mình tham gia đủ đầy qua những vùng chữ nghĩa mang hơi hướm đàn bà ” :

“ Tuyết vừa ngồi xuống là tôi đi thẳng vào nỗi ám ảnh của mình. Bàn tay tôi sục sạo tìm kiếm đoá hoa thầm kín của nàng. Mềm mại, ấm áp, trơn mượt, nhung êm. Mê mẩn, sung sướng, hạnh phúc.” (TNBN, Đêm Cỏ Tuyết, tr. 56).
“Chân tay hai đứa quấn quýt chằng chịt rối beng, tưởng không thể tháo rời được nữa. Rên rỉ, năn nỉ, xô ra, quấn vào, cuồng nhiệt, mê tơi, cực điểm, chết ngất…” (TNBN, Người Em Xóm Học, tr.105)

Hỏi : Khiếp thiệt ! Cái gì anh cũng ngó, cũng mó, cũng sờ, cũng nếm tuốt tuột. Còn chi là đoá hoa rừng ! Bộ khi gần gũi đàn bà anh chỉ có phàm tục như vậy sao ? Tình yêu của anh có nhiều tình yêu xác thịt, phải chăng anh cố ý bỏ quên phần...trái tim ? Trái tim thì rất khó sờ mó !

KT : ( Đưa hai tay lên trời ) Ối ! Tôi chỉ sờ nếm cái gì mà đàn bà có thôi, chớ tôi đâu có sờ mó cái gì đàn bà không có đâu mà cô Hai cự nự ? (Dở Tuyển Tập ra ) Ở trang 492, Thụy Khuê đã nhận
xét : “Đứng trước vẻ đẹp của người đàn bà, Kiệt tấn trở thành thi sĩ. Văn ông không hề gợi dục, khi viết dường như có chất thơ đâu đó lãng đãng bước vào. Nhục cảm của thi nhân bỗng nhiên trong sạch lắm:
"Hương nắng còn đọng trên da lụa, tay khua tưởng đánh thức mặt trời, dục lên sóng biển và điệu tây ban cầm sẽ phả ra từ khung cửa sổ khuất kín của nàng. Dấu cỏ mất còn đó? Dấu bầm bên vú trái còn đó. Lời thề yêu em suốt đời còn đó. Tôi nựng nịu gò tình. Hôn lên ẩm ướt. Yêu. Yêu.” ( TNBN, Người Em Xóm Học, trang 113)
Đó ! Cái cung cách yêu đương và thưởng thức đàn bà của tôi là như vậy đó. Viết về tình dục kiểu đó cô Hai có bị dị ứng không ?

Hỏi : ( Lắc đầu nhè nhẹ, mỉm cười ) Dạ dị ứng thì không dị ứng, chỉ thấy hơi thiếu sót...giùm mấy nàng. Thấy những người nữ tội nghiệp hết sức. Thôi xin hỏi tiếp câu sau. Rất nhiều ca dao trong truyện KT. Tại sao ?

KT : Tôi được cái may mắn là từ thuở lọt lòng tôi sống ở nhà quê và xóm bình dân. Lối xóm ai ru con cũng đều biết ầu ơ ví dầu vài ba câu ca dao. Má tôi cũng biết ầu ơ… Ví dầu ví dẩu ví dâu, ví qua ví lại ví trâu vô chuồng. Hoặc : Má ơi đừng đánh con đau, để con hát bội làm đào má coi. Rồi lớn lên, khi đi học, nhờ học giỏi tôi được lãnh thưởng mấy quyển sưu tầm tạp lục ca dao, tôi đọc thấy sướng ran, bèn đọc đi đọc lại nên thuộc lòng hồi nào không hay. Khi cầm bút lên viết thì nó cứ rỉ rả tuôn ra vậy thôi chứ chẳng có bí quyết gì hết ráo. Hơn nữa, khi viết về miền Nam ruộng đồng mút mắt, sông nước tư bề, khi viết về những người bình dân sống nơi miền đất này mà không có hò hát, không có ca dao, tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Hò hát và ca dao tạo được bầu không khí quê mùa cho truyện viết, cũng hợp tình hợp cảnh lắm chớ. Nên lắm ! Ngoài ra, khi còn đi học đôi khi tôi còn dùng ca dao để chim gái, như dụ dỗ cô Hoa trong Bến Đò Trao Thơ khiến cho cô xiêu lòng mà trao duyên cùng tướng cướp : « Hãy thề với anh hết iễu qua chùa, Ai cho anh uống thuốc bùa anh mê ? » Rụng rún chưa em Hai ?

Hỏi : Dạ rụng là cái chắc, nhất là mấy em nào tưởng ca dao là thơ anh làm thiệt. Tiêu tùng mấy hồi cả một đời huê !! Bây giờ xin nói chuyện liên hệ ...với nhóm Sáng Tạo (Mai Thảo, Thanh tâm Tuyền … ) như thế nào ?

KT : Nhóm Sáng Tạo à ? Để coi… Nói gần nói xa không qua nói thiệt. Tôi nghĩ sở dĩ nhiều người tưởng rằng tôi có liên hệ nhiều với nhóm Sáng Tạo là vì Sáng Tạo đã đứng tên xuất bản Điệp Khúc Tình Yêu Và Trái Phá, tập thơ đầu tay của tôi năm 1966. Thiệt ra, khi tôi về nước khoảng cuối năm 1963 thì tờ Sáng Tạo đã đình bản. Tôi cùng nhiệm sở với Cung Tiến nên nhân một dịp đi chơi chung, Cung Tiến có ghé ngang Thị Nghè giới thiệu tôi với Mai Thảo và Anh Ngọc ca sĩ khi đó đang lai rai ba sợi. Nhưng rủi thay, Chưa gặp anh, em đã có bầu ! Mới gặp nhau lần đầu mà tôi và Mai Thảo đã chạm súng lẻ tẻ. ( Cười cười ).

Hỏi : Anh còn nhớ lí do cuộc chạm súng đó không ? Sau này bác Mai Thảo mỗi lần sang Pháp có gặp lại anh không ? Và rồi sao nữa hả anh Kiệt Tấn ?

KT :
Cũng chẳng có trăng sao gì hết. No stars where ! Nói tiếp. Sau khi tờ Sáng Tạo đình bản thì Mai Thảo quay sang làm tờ Nghệ Thuật, toà soạn toạ lạc tại đường Phạm Ngũ Lão, máy in cũ mèm chạy xầm xập như trời đổ mưa. Viên Linh làm thư ký toà soạn, Anh Ngọc thủ quỹ. Ca sĩ nhà ta thủ rất kỹ nên tôi chẳng bao giờ được trả nhuận bút. Tới toà soạn chơi thỉnh thoảng gặp Thanh Nam, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền, Tạ Tỵ, Phan Lạc Phúc, Cung Trầm Tưởng và nhiều tay khác nữa. Bài thơ đầu tiên của tôi đăng báo Nghệ Thuật hình như là bài "Biết Bao Giờ" tặng Lộc và Diane. Trong những bài kế tiếp có nhiều anh ngợi khen bài thơ Dòng Sông Và Con Thuyền 20 Tuổi của tôi. Trong nhóm có lẽ tôi còn lõi nhứt thời đó.

Hỏi
: Anh Kiệt Tấn chơi với các anh ấy ra sao ? Có khi nào còn " chạm súng " nữa không ?

KT :
Thì thỉnh thoảng đi ăn nhậu với nhau cho vui vậy thôi. Tôi vốn không thích bàn cãi hay tranh luận văn nghệ. Tôi chủ trương “Viết không có chủ trương”, và viết từ bên trái sang phải, từ trên xuống dưới là ăn chắc. Thời viết cho tờ Nghệ Thuật, thỉnh thoảng tôi xách một chai Johnny Đi Bộ tới toà soạn, rồi kéo nhau đi nhậu. Thế là xong.

Hỏi:
Trước đây anh đọc tác giả VN nào. Anh thích ai ? Tại sao ? Anh có đọc tác giả hiện nay trong nước không

KT : Tôi đã có dịp trình bày ý kiến mình về văn chương Việt trong bài Thơ Văn Quê Nhà Trong Trí Nhớ đăng trên Văn Học số 203 &204 năm 2002. Nhắc lại, khởi đầu tôi đọc và học thuộc lòng Quốc Văn Giáo Khoa Thư, kế tiếp là quyển tiểu thuyết đầu tiên Đồng Quê của Phi Vân, theo sau là các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn cùng với các tiểu thuyết nẩy lửa của Vũ Trọng Phụng, trinh thám của Thế Lữ, Phạm Cao Củng… Vài truyện ngắn và tùy bút của Võ Phiến, Mai Thảo, truyện tình của Nguyễn Đình Toàn, biên khảo và truyện phong tục Miền Nam của Sơn Nam. Thơ thì đầu tiên là Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính, theo tiếp là các nhà thơ Tiền Chiến. Rồi thì chiến tranh Pháp Việt bộc phát, kết thúc bằng trận Điện Biên Phủ, đình chiến và chia cắt đất nước năm 1954. Thời kỳ từ 1954 đến 1975, chiến tranh Mỹ- Quốc-Cộng phừng phực đổ lửa, đất nước loạn cào cào, tôi đọc sách lung tung nhưng phần lớn thì ham chơi hơn là ham đọc và viết. Thời kỳ này tôi thích Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Tạ Ký, Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Nhã Ca và còn những ai nữa, nhưng quanh đi quẩn lại thì vẫn là những người làm thơ, phần lớn. Cũng nên nhắc lại là tôi thuộc thế hệ 40 nên lãnh đủ cuộc chiến tranh đằng đẵng 30 năm Pháp-Mỹ- Quốc-Cộng từ 1945 đến 1975. Thiệt là chó chết ! (Lắc đầu.)

Hỏi :
Hiện nay anh còn giữ được liên lạc với ai ? Những suy nghĩ của KT về văn học trong và ngoài nước ? Và về những bạn văn của ông.

KT :
Để đáp câu này, tôi lại dựa vào bài viết Thơ Văn Quê Nhà Trong Trí Nhớ đã nhắc lại khi nãy. Nhưng lập lại những ý kiến đó thì dài dòng lắm. Nếu tò mò muốn biết thì xin tìm đọc bài đó.

Hỏi :
Anh tiên đoán sao về tương lai của văn học ngoài nước ?

KT : Khi nói về văn học ngoài nước, tôi tự ý giới hạn trong phần sáng tác bằng Việt ngữ. Theo tôi nghĩ, môi trường sống dài hạn của các sáng tác bằng tiếng Việt phải là nơi mà mọi người đều đọc được tiếng Việt, nói được tiếng Việt và viết được tiếng Việt. Vì có như vậy mới có người thưởng ngoạn, phê bình và bàn cãi. Một điều rõ bông : Môi trường đó phải là đất nước Việt Nam. Ngoài nước, các sáng tác hải ngoại bằng Việt Ngữ chỉ sống ngắc ngoải như người bị bệnh nan y, sống vất vưởng như một lũ cô hồn. Bởi lẽ ấy, tôi mong là một ngày nào đó, một ngày đẹp trời, các sáng tác hải ngoại sẽ được hồi hương, chấm dứt kiếp sống lưu đày, và được in lại trong nước. Chuyện này không mắc mớ gì tới cộng sản cộng siếc gì hết. Chế độ nào rồi cũng phải có ngày chấm dứt. Còn sờ sờ đó cái màn cộng sản Nga sập tiệm, phần cộng sản Tàu thì giờ đây còn tư bản hơn cả Mỹ. Chớ cộng sản mà cứ « kéo dài xa tít tận chân trời » thì bỏ mẹ người ta hết sao ? Nếu sau này chẳng may không có cơ hội nào được in lại trong nước thì tất cả những sáng tác Việt Ngữ có giá trị tại hải ngoại sẽ trở thành những mối tình ôm xuống tuyền đài chưa tan ráo trọi !

Hỏi :
Biết đâu được sẽ có những giọt nước mắt Mị Nương bất ngờ ?. Nói chuyện gần gần cho dễ kiểm chứng. Ai cũng thở than cho tương lai của nền văn học hải ngoại, riêng anh thấy thế nào ? Anh xủ cho một quẻ coi.

KT : Thì thôi, thể theo lời yêu cầu của cô Hai tui cũng làm gan đứng ra làm thầy rùa, rờ mu rùa mà xủ cho một quẻ, nếu không trúng thì thế nào cũng trật, mất mát gì đó mà sợ ! Theo tôi, biến cố lịch sử tháng Tư 75 đã làm phát sinh hiện tượng văn học hải ngoại. Và như mọi hiện tượng trong trời đất, nền văn học hải ngoại đã sống như một hiện tượng, rồi giờ đây mãn hơi đang thoi thóp như một hiện tượng, để rồi sẽ biến đi như một hiện tượng. Một điều rõ rệt, trong lãnh vực sáng tác bằng Việt Ngữ tại hải ngoại, số lượng người viết càng ngày càng ít đi, số lượng người đọc cũng càng ngày càng ít đi. Tuy nhiên bù lại, nhờ có mạng lưới nên hiện nay người viết tại hải ngoại đã mở rộng lượng người đọc của mình về địa bàn trong nước. Nhưng (lại nhưng ! ), ngày nào
tại hải ngoại hết còn ai sáng tác « ra hồn » nữa thì cũng đành ngủm củ tỏi mà thôi ! Bó giò ! Xin kiếu gia chủ ta thăng !

Hỏi :
( Khoát khoát tay). Khoan ! Khoan đã anh Kiệt Tấn. Anh bi quan quá đáng, bởi vì như anh đã nói, nhờ mạng lưới truyền thông, sáng tác, sách vở đôi bên trong và ngoài nước hầu như không còn biên giới nữa, và chuyện giao lưu, du lịch đôi bên cũng mở rộng, thì đến một ngày nào đó, khi chế độ này cáo chung, việc phổ biến, in ấn, trao đổi... kể cả tương lai văn học trong ngoài lúc bấy giờ không còn là vấn đề nữa. Nhưng ( lại nhưng!) đó là chuyện...tương lai. Anh chưa trả lời mục các bạn văn của anh.

KT :
Cô Hai đã trót la “khoan ! khoan ! » rồi thì phải xuống vọng cổ để tui đây/Tây đui còn phựt đèn màu chớ ! Thì thôi, khoan khoan ngồi đó chớ ra. Như đã nói hồi đầu, tôi không thích bàn cãi hoặc tranh luận chuyện văn chương. Tôi chỉ chú trọng phần sáng tác. Tôi thấy phe ta cứ cãi gì mà cãi nhau như giặc, cãi như mổ bò. Có cầm bút lên mà sáng tác hay không thì bảo ? Cũng bởi lẽ không thích tranh cãi văn nghệ nên không có luôn trao đổi văn gừng, do đó làm sao mà có được bạn văn… dênh ? Bạn nhậu thì có, cái đó thì không. Bạn cầm bút, nếu có gặp nhau thì cũng rủ đi nhậu. Nhưng rủi thay, cũng có người thích uống nước dừa, uống sữa đậu nành, hột é lười ươi hoặc sương sa hột lựu. Mấy cha nội này thuộc phe « trà đá chanh đường ». Thì mấy chả rán mà chịu cho quen ! Làm gì mà cứ nằng nặc chê rượu như mèo chê mỡ : « Em chả ! Em chả ! », nghe sốt cả ruột.

Hỏi : Cách dựng truyện của anh như thế nào ?

KT : Hầu hết những truyện tôi viết đều là tự truyện, nên « Có sao nói dậy người ơi ! Xin người đừng gian dối đời nhau ! ». Tuy nhiên, tôi không phải là một người đêm đêm kể chuyện đời xưa cho con nít nghe hay một ký giả chiến trường viết bài tường trình cho một tai nạn tình ái kèm theo ảnh chụp. Về cách dựng truyện, trước khi viết, tôi hồi tưởng lại cuộc tình của mình, sau đó tôi sắp xếp các sự kiện, các chi tiết để cho chúng xuất hiện theo một thứ tự nào đó mà tôi thấy là « hết xẩy ». Tôi thường đảo lộn trật tự, cắt đổi thời gian, hoán chuyển được. Thứ nữa, thêm một điều quan trọng : Độc giả chỉ muốn đọc một truyện hay chứ không nhất thiết phải là truyện thật một trăm phần trăm. Họ cóc cần, có thể nói thẳng ra như vậy. Thế nhưng nếu hư cấu quá trớn, truyện viết thấy « xạo » rõ ràng thì độc giả cũng chịu đời không thấu. Xem xong nàng khẽ thở dài, người đâu tả ở mấy dòng

Hỏi : Khi viết anh quan tâm điều gì ? Chủ đề ? Hình thức ? Anh hạ bút viết thẳng một lèo hay " đứt rồi lại nối ", cần một chỗ yên tĩnh, nghe nhạc ?

KT :
Có những truyện tôi viết suôn sẻ, có truyện viết xong tôi xé hết, viết lại từ đầu. Tôi viết chậm, có thể nói là rất chậm, sau đó là đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại, có khi thời gian sửa còn nhiều hơn cả thời gian viết. Không hiếm những lần tôi sửa tới sửa lui sửa xuôi sửa ngược một câu cho chán chê rồi cuối cùng trở lại giữ câu đầu tiên viết ra. Khùng thiệt ! Tùy cảm hứng, có khi tôi viết cho tôi, nhưng phần lớn là tôi viết cho người đọc. Khi sửa chửa bản văn, tôi đặt mình vào địa vị người đọc, tôi sửa tới sửa lui, đọc đi đọc lại nhiều bận rồi tự hỏi : Liệu đọc như vầy đã sướng chưa ? Cái cảm giác chung chung mà tôi đón nhận được ở những người đọc truyện của tôi là “đã”. Đọc thấy đã ( sướng ran ! ). Như đã đời ! Như nuốt vô thấy đã. Nhậu biết đã. Gãi đúng chỗ ngứa, đã quá đã ! Nhứt gái một con, nhì thuốc ngon nửa điếu. Đã ơi là đã ! Tui nói thiệt đó cô Hai. Cô cứ thử đi thì biết. Hầu hết những người phê bình sáng tác của tôi đều đi tới cùng một nhận xét chung chung : Kiệt Tấn sống thật, viết thật. Kiệt Tấn sống hết mình, viết hết mình. Và Thụy Khuê đã chung kết nhận định : “Cung cách đặc biệt dấn vào văn chương như thế, mấy khi chúng ta gặp được.” (Tuyển Tập, tr 499) Bên cạnh cái cảm giác đã là cười. Khi theo dõi truyện của tôi, bỗng phát bật lên cười một tiếng. Có nàng cho biết đã bị đấng ông chồng yêu dấu chất vấn : “Bộ khùng tới nơi rồi hả? Sao khi không phát cười khơi khơi một mình vậy ? ” Dẫu cho truyện tôi viết có kết cuộc không khá, kết cuộc không có hậu, kết cuộc buồn hiu buồn hắt đi nữa thì vẫn cười hoặc mỉm cười lai rai suốt khi đọc truyện. Chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ ! Những nhà phê bình đều cùng nhau đi tới chung nhận xét : Kiệt Tấn dí dỏm, hóm hỉnh, tinh nghịch. Rất tiếc chưa có ai viết một bài đặc biệt có dẫn chứng về điểm này cho vui nhà vui cửa. Theo chỗ tôi nghĩ, trong đời sống, nụ cười giải toả được rất nhiều chuyện rắc rối, loạn tâm, nhức đầu, táo bón. Tôi rất nghi ngờ, dị ứng và sợ run sự nghiêm chỉnh. Một điều hiển nhiên : bộ mặt đạo đức giả bao giờ cũng phết lên mình một lớp son nghiêm chỉnh. Ai không đồng ý điểm này xin hãy thay bộ đồ lớn, thắt cà vạt đen, giơ cao tay lên và đứng dậy bước lên bục gỗ lớn tiếng phản đối… một cách nghiêm chỉnh ! Một cách nghiêm chỉnh, please ! s’il vous plait ! yakitori ! Phần tôi, tôi xin được phép bận xà lõn rằn, ngồi tại chỗ, giơ cao tay lên và đứng dậy… dết toa lô, dô toa lết. Sorry ! désolé ! hara kiri !

Hỏi :
Khi dựng và viết truyện, anh chú trọng phần nào nhứt ? Phần đầu, phần giữa hay phần cuối ?

phanthitrongtuyen-content-contentKT : Khi thực hiện Tuyển Tập Kiệt Tấn, tôi bắt buộc phải đọc lại hầu hết các truyện mà tôi đã viết ra.Nhứt là với những truyện đã được tuyển chọn, tôi phải dò tới dò lui để sửa chửa từng chữ một, hoặc để bổ túc hay cắt bỏ một vài chỗ, một vài đoạn mà mình không ưng ý. Trong lúc đọc lại các truyện viết của mình, tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy phần lớn cách dựng truyện với nhiều đề tài khác nhau của tôi, dù không cố tình, cũng có điểm giống nhau chung chung. Đó là cách thức vào truyện và phong cách ra khỏi truyện. Mở đầu, bằng một hình ảnh lóa chóa, tôi thường ném độc giả thẳng vào cuộc tình hay câu chuyện sắp được kể, đâu khoảng giữa chừng, khiến cho độc giả hoang mang không biết chuyện gì đã xảy ra trước đó, để rồi tò mò theo dõi, chờ đợi được giải thích, sự lôi cuốn đã được tạo nên. Rồi câu truyện được kể ra, không nhứt thiết theo thứ tự thời gian. Tôi sử dụng rất nhiều hình ảnh, rất nhiều sự kiện, rất nhiều chất sống thực, rất nhiều trải nghiệm, nói tóm rất cụ thể. Phần kết thúc, tôi thường đưa độc giả ra khỏi truyện bằng một xúc động. Cái cảm giác mà tôi muốn để lại cho người đọc là một nỗi bâng khuâng, man mác, có khi là một chút ngậm ngùi, tiếc nuối, có khi là một hoang mang, nghi vấn. Truyện tôi viết hiếm khi có kết thúc vui, một happy end. Ý thì vậy nhưng không biết là tôi có tạo được xúc động mong muốn hay không, ngòi bút tôi có dẫn dắt độc giả vào những vùng cảm giác đó được hay không. Một đôi lần, có người cho biết là sau khi đọc xong truyện tôi viết đã ngùi ngùi sa nước mắt. Còn tôi thì khi viết, tôi đã nhiều lần khóc nghẹn ngào, đành phải buông bút ôm mặt khóc ngất. Hoài niệm thương động. Ôi ! những hoài niệm thương động ! (cúi mặt.).. Theo cảm quan của tôi, sau khi đọc xong bất cứ một truyện nào đó, điều đáng kể là một chút cảm giác khó quên, một chút ám ảnh khôn nguôi,
một chút không khí lạ lùng, một chút ấn tượng nhớ hoài còn sót lại ở người đọc. Truyện viết được như vậy mới có thể gọi là thành công, là “đạt”. Bởi lẽ đó nên khi cầm bút, tôi viết theo cảm quan của tôi, tôi viết theo tính khí của tôi chớ tôi không viết theo một chủ trương nào hết, cho dù chủ trương đó mới toanh hay cũ mèm.

Hỏi : Hình như anh viết ra rất ít những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của đàn bà ? Bà náo cũng " đồi núi chập chùng, cỏ hoa tưng bừng rậm
rạp, động hang thăm thẳm " nhưng nhịp đập trái tim và sóng gió tâm hồn họ ra sao ? Ai cũng thấy "họ" rất " dễ thương " nhiều tình cảm, chất phác, mộc mạc, nhất là ...dễ tin.Nhưng đó cũng chỉ là "cảnh trí " bên ngoài. Anh có thấy vậy không ?

KT :
Đàn bà… Lại đàn bà ! ( Gật gù ) “Kiệt Tấn suy nghĩ sao về đàn bà? ”, cô Hai hỏi chi khó vậy ? Có câu nào dễ hơn không ? Chẳng hạn đàn ông gặp đàn bà nơi thanh ắng thì làm cái gì ? Hoặc : Thấy người đàn bà mặc áo hở ngực rộng có đôi vú lớn thì KT ngó cái gì trước ? Ôi thôi ! Thiếu gì những câu hỏi dễ ợt, sao cô Hai không chịu hỏi ? Lại đi hỏi “nghĩ sao về đàn bà ? ”, Là giết đời nhau đấy biết không ? Nhưng giờ đây cô Hai đã trót quăng câu hỏi nhớn lên không trung rồi thì tui cũng phải cố gắng động não để giả nhời sao cho lọt lỗ tai cô Hai : Trước nhứt , tôi đến với đàn bà không bằng trí tuệ cho nên hỏi tôi nghĩ sao về đàn bà thì tôi đành quăng khăn lên đài chịu thua. Tôi đến với đàn bà bằng đam mê, bằng rung động, bằng linh tính và bằng năm giác quan trời cho : Thấy, nghe, sờ, ngửi, nếm. Y chang như loài thú vậy. Vì sao ? Vì theo tôi, chỉ có cách đó mới thực sự xâm nhập được đối tượng và thực sự thấm nhập được tâm trạng người nữ. Có đi thực tế mới hiểu được lòng dân. Bằng không thì chỉ nói khơi khơi về đàn bà, hư cấu khơi khơi về đàn bà mà chưa hề đụng tới một sợi lông, một sợi tóc nào của nàng hết. Như thầy tu chính cống mà lại đi thuyết pháp về đàn bà thì nhứt định phải hỏng bét là cái chắc !

Hỏi
: “Sờ nếm nghe thấy ” đàn bà ? Vẫn rất là cụ thể ! Vẫn rất là thể xác. Xin nhắc lại lần nữa. Anh nói bằng đam mê, bằng rung động, bằng linh tính và bằng năm giác quan trời cho : Thấy, nghe, sờ,
ngửi, nếm. Y chang như loài thú vậy. Vì sao ? Vì theo tôi, chỉ có cách đó mới thực sự xâm nhập được đối tượng và thực sự thấm nhập được tâm trạng người nữ Anh thấm nhập được ( nghe cũng rất là ...physique) rồi thì sao ? Xem đến cùng rồi cũng thấy rằng những người đàn bà ấy, tất cả đều " lồ lộ, dày dày " mộtù thể xác ? Mà về thể xác ấy, độc giả cũng không nghe thấy anh hỏi " cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao " Những người nữ của anh hình như là những con búp bê tội nghiệp, yếu đuối và ...nạn nhân Bộ anh không có ý nghĩ nào về đàn bà “siêu” hơn một chút ?

KT :
( Ngần ngừ ). Thiệt khó mà diễn tả được rốt ráo những gì tôi nghĩ về đàn bà. Mà nghĩ lại, thiệt tình có bao giờ tôi nghiêm chỉnh bóp trán nghĩ ngợi về đàn bà đâu ! Tôi chỉ biết ham sống. Tôi chỉ
biết si tình và đam mê đàn bà. Nhưng sự ràng buộc mật thiết giữa tôi với đàn bà nó kỳ lạ lắm. Nó vượt ngoài lý luận, ngoài phân tích. Tôi không diễn tả nổi !

Hỏi : Không diễn tả nổi thì anh cứ thử nói đại coi. Chết chóc gì mà sợ ? Nói vậy chứ anh hãy thận trọng, nhiều nhà nữ quyền đang " dòm chừng " anh đó. Coi như đây là câu hỏi thách thức : về đàn ba, dường nhừ anh chỉ biết " yêu " cái thể xác, còn về cái " tinh anh " ? Nếu đàn bà mặt mũi xấu xí, ngực lép, mông teo hoặc quá trí thức, hoặc " đòi " được " yêu toàn diện " thì anh ...tính sao ?

KT :
Nói đại ? (Cười cười ). Chết bỏ ! Thì thôi, như thế này nghe. Tôi diễn tả không được thì để người khác nói dùm tôi. Hồi đầu, Nguyễn Hưng Quốc đã nói lai rai về ba cái tình dục của KT rồi. Giờ xin để cho
kép Đoàn Nhã Văn lên tiếng dùm tôi. ( Lật lật Tuyển Tập ). Đây nè, trang 16 : “Với ông( Kiệt Tấn), đàn bà là cả một thế giới bí mật. Con gái cũng vậy. Càng nhỏ tuổi càng bí mật. Nhưng khi lớn lên, các nàng lại tăng thêm bí mật một cách khác (EOBDT, tr . 40). Càng bí mật, ông càng nhứt mực tôn thờ. Ông đến với họ như một thứ tôn giáo của riêng ông, mà ở đó đã mở ra những đắm đuối, say mê, cởi mở, hạnh phúc, hừng hực, dập dồn, xốn xang, xao xuyến, thèm thuồng, quyến luyến v..v.. Và ông bơi lội trong vùng không gian này thỏa thích. Thiếu họ, ông mất quân bình, như một bình điện hết hơi, nằm cú rũ, phế thải.” Ổng nói tôi tôn thờ và ghiền đàn bà như vậy đó, chịu chưa ?

Hỏi :
Chưa chịu ! Nói gì thì nói, thấy KT vẫn cứ còn lẫn quẩn bên bóng dáng, bên nhục thể, bên "núi non, thung lũng " của người đàn bà và nhất là để ý nghe ngóng, diễn tả cái đê mê của mình. Nhưng
còn trong thâm tâm anh, anh nghĩ gì ? Tấm lòng anh đối với đàn bà như thế nào ? Có bao giờ anh hỏi : còn ẻm, ẻm đam mê và sung sướng thoả mãn ra sao ? Thoả mãn, đam mê ấy có " xứng đôi vừa lứa " với cái "đê mê chết giấc " của anh ?

KT :
Thì đành lôi kép Đoàn Nhã Văn ra làm chứng. ( Lật Tuyển Tập). Đây nè, trang 15, ông kép viết : “Mỗi người một vẻ, mỗi kẻ một đam mê, và mỗi nàng một cháy bỏng khác nhau. Tất cả những nhân vật
đó góp phần làm nên văn phong vui tươi, sinh động của KT trong vùng tình cảm đầy ướt át này. Tuy vậy, chỉ cần để ý một chút ta sẽ thấy ngay ông viết về những người đàn bà với một tấm lòng, một đam mê và đằng sau đó là chiêm ngưỡng, là trân quý.

-Xin ngắt lời anh ở đây, Ông Nhã Văn sẽ trả lời ra sao cho bà Nguyễn Trần Khuyên, người đã làm " pétition " xin chữ ký sau khi đọc bài viết bất hủ " Sục c. truớc bàn thờ " bà Khuyên kết án anh khinh
thường phụ nữ. Mà hai đứa chúng tôi lại nghỉ là trong bài nói trên anh muốn trả lời những bài viết về sex quá sức văn chương đẹp đẽ nhưng vô cảm và hết sức giả tạo hoặc coi vậy mà hổng phải vậy (phim
érotique thiếu budget và tài tử yêu ...sex thứ thiệt!) cũng như anh điểm mặt những tên đàn ông "voyeur" ( khoái dòm trộm ) khiêu khích đàn bà viết về tình dục cho họ được rửa mắt và thoả mãn lòng tò mò
bệnh hoạn Ông viết về họ là muốn cho họ sống lâu dài trong lòng độc giả bằng một sự trân trọng của mình. Ông minh định một điều : “Tôi không thể yêu một người đàn bà không có thân thể. Thứ đến, tôi không tách rời nhục cảm ra khỏi tình yêu chớ tôi không nhìn đàn bàvới con mắt thuần nhục cảm (EOBDT, tr, 70) ”. Sao ? Vừa lòng chưa cô Hai ?

Hỏi :
(Cười cười ) Dạ chưa. Ai đòi anh tách rời nhục cảm ra ? Dĩ nhiên, yêu ai cũng vậy, yêu tôi, tôi cám ơn vì tôi sẽ ...cất hết vô túi !! Ông nào cũng bảo vệ che chở thương yêu (!)phụ nữ ( đẹp ) và sanü
sàng đóng mộc cấp chứng chỉ cho ông kia xác nhận là phe ta thành thật yêu thương đàn bà nhiều lắm. Yêu kiểu đó thì ai lại không ham ! Nhiều ở đây là nhiều người (cùng một lúc – như hai bà ...đầm đụng
độ thời anh ở Canada !! Thiệt đúng là ...đào hoa nước Việt. Nói nôm na thì là ...anh chắc cầm tinh con...dê!.

KT
: Ạ ! ạ… Thì ra cô Hai vẫn chưa chịu tin mấy qua là người lớn tuổi. Nhưng hông tin lời đàn ông nói thì chẳng lẽ lại không tin lời đàn bà luôn sao ? (Lật lật Tuyển Tập). Thì đây nè, trang 491-492 đào Thụy
Khuê viết : “Tôi không chắc thứ tình Kiệt Tấn đối với đàn bà chỉ là tình yêu, mà còn đa mang, pha trộn giữa yêu thương, đam mê, ham muốn và che chở. Qua cái vỏ ngoài có vẻ sống sượng, trần truồng
của ngôn ngữ, bên trong ấp ủ một tình yêu dịu dàng, êm ái. Tiếng Pháp có chữ tendresse, tôi không tìm được chữ tương trong tiếng Việt, để chỉ cái tình yêu của Kiệt Tấn đối với đàn bà: Âu yếm đã đành, mà
thắm thiết cũng chưa gói tròn hết nghĩa. Kiệt hay Kiệt Tấn ngó đàn bà trong trạng thái nguyên thủy ( không quần áo), với con mắt một hoạ sĩ trước vệ nữ khoả thân : Ông trân trân nhìn cái đẹp. Sự thèm muốn trước cái đẹp thể xác là điều tất đến như đói thì ăn, khát thì uống, không có gì xấu xa, không có gì cần phải che đậy, thật thà và hiện hữu như những nhu cầu chính yếu của con người.” Qua lời phân tích của Thụy Khuê và Đoàn Nhã Văn, tôi cũng không dè tôi yêu, tôi mê, tôi ghiền đàn bà tới mức kỳ cục như vậy nữa. Giờ đây, sau phần trình bày, tôi để cho cô Hai tự nghiền ngẩm mà suy ra “cái nghĩ” của tôi về đàn bà. Thôi, tạm ngưng trình diễn cái tiết mục đàn bà ở đây. Đã câu giờ nhiều quá rồi. Cô Hai hỏi dùm cho câu khác. Hỏi : Dạ, thì đành phải hỏi câu khác tuy vẫn còn ấm ức. Và vì ấm
ức nên xin hỏi thêm : Đặc biệt đối với người đàn bà của Kiệt Tấn : Ánh, người yêu nữ sinh. Anh hãy nói đôi chút về người ấy. KT : Suỵt ! Suỵt !… Cô Hai hỏi chi mà kẹt tôi quá vậy ? Bộ tính làm
khó dễ đàn anh văn nghệ đó hả ? ( Xuống nhỏ giọng ). Mà tui có lỡ thành thật khai báo gì về nàng rồi thì cô Hai cũng đừng có méc lại với bã nghe. Cô Hai hứa với tui đi.

Hỏi : (Cười cười ) Thì hứa rồi đó. Yên bụng chưa ? Giờ thì anh khai thiệt hết đi. Mai mốt báo tới anh đem giấu chị ấy. Dễ ợt !

KT : ( Ngẫm nghĩ hồi lâu ). Ánh, bà xã tôi, là mối tình duy nhứt mà kết cuộc có hậu. Còn những mối tình kia, những Hoa những Tuyết những Diane những Louise, những Danyèle những Nguyên những
Hường… đều đi trớt quớt hết. Mà giả như những mối tình lăng nhăng này kết thúc bằng “hai mái đầu xanh chung một túp lều lý tưởng” thì có thể giờ này tôi đã trở thành ông chủ bến đò bụng phệ, hoặc đã
mở tiệm cà phê, mở quán bán hủ tiếu, bán bia ôm, bán nước dừa, mở tiệm cắt may hoặc trở thành mục sư, mở nhà chứa lén hay là cái chi chi nữa đó tôi cũng không rõ.

Hỏi : Không rõ vì rất có cơ may anh sẽ là tất cả các thanh tựu nói trên : chủ đò kiêm chủ quán bia ôm& cà phê kiêm chủ tiệm hủ tíu & tiệm may, chủ chứa vân vân. Vì sao đây là cuộc tình có hậu ? Chị Ánh
có những " đường nét ", cá tính nào đã khiến anh "dừng bước giang hồ " trái tim đa mê ?.

KT
: Ngoài những mối tình đầu với những bà-già-quê-hương, thiệt ra Ánh mới thực sự là mối tình đầu của tôi chớ không phải là Hoa. Tôi chíp Ánh từ thuở tôi còn học lớp đệ tứ, 15 tuổi. Còn tuổi của nàng
tôi nhớ chỉ mười ba… Sau khi đậu xong tú tài 2, lúc 18 tuổi tôi mới tỏ tình với Ánh và được nàng mở rộng vòng tay đón nhận … kẻ bạc tình. Tôi bạc tình Hoa. Lúc ấy Ánh có mái tóc đẹp và đôi mắt to đen,
nhưng gầy lắm. Tôi thường hát tán tỉnh “Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy…”. Có lẽ thời đó tôi còn thích gậm xương. Chớ nếu như thời đó mà tôi mê mấy cô vú bự như bây giờ thì chắc chắn là mộng sẽ
không thành.

Hỏi :
À, ra là vậy...Mối tình đầu cũng là tình cuối ( ?! . Dấu chấm hỏi này lơ lửng vì nghe đâu dạo này anh hay bay về VN, những Hoa, những Tuyết, Hương...bây giờ nhiều, trẻ đẹp, và nhiều cô cũng rất
cần được thương yêu, che chở !! ) Biết đâu anh sẽ có dịp ...tái bản những cuộc tình trong một hoàn cảnh hậu hiện đại, hậu chiến, hậu hoà bình...Thôi lạc đề rồi. Xin trở lại cuộc tình có hậu. Kể ra thì anh
đã thầm yêu trộm nhớ Ánh suốt ba năm liền. Nhưng sau khi kết tình với Ánh rồi thì thấy coi bộ anh ...tỉnh bơ như chưa bao giờ ...cưới vợ ? Ra đường anh hãy còn ngon, về nhà anh đã lội non bao lần

KT :
Thì tôi vẫn tiếp tục... bạc tình ( Dụi dụi mũi ) Cùng lúc bắt bồ với Ánh, tôi lại cặp với Tuyết bán quán. Tình với Ánh thuộc loại tình phẳng lì, platonique, ngược lại tình của tôi với Tuyết thuộc loại tình áp
rún đổ mồ hôi hột, tình lăn lộn trên bãi cỏ, tình ôm nhau ra rít trong nhà đêm đêm. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, có thể đó cũng là một điều may mắn cho Ánh. Sau này thỉnh thoảng tôi có nói với Ánh : “Em nên cám ơn cô Tuyết, vì Tuyết đã dang thân ra đỡ đạn dùm em, Tuyết đã chịu trận sự ham muốn tình dục của anh ở thời mới lớn. Nếu không có Tuyết, anh sẽ trút hết dục tình lên em thì chắc là em đã bỏ chạy có cờ”. Và Ánh đã gật đầu tán đồng.

Hỏi : Xin lỗi lại hỏi anh lần nữa chuyện đời tư :Khi anh cưới Ánh xong rồi thì đời sống lứa đôi ra làm sao ? Hình như chị không đọc truyện của anh hoặc chị không ghen với những gì có thể đem lại hứng cho anh tiếp tục viết?

KT : Ánh vốn thuộc nòi chung thủy, còn tôi thì vốn có máu không được chung tình gì cho lắm. Dĩ nhiên là làm khổ nàng ngất ngư. Chết đứng chết ngồi nhiều phen. Tình yêu của Ánh rất sâu đậm, âm thầm,
chịu đựng và bền bĩ, thương chàng phải lụy cùng chàng. Còn nhớ lúc tôi vào bệnh viện tâm thần lần thứ hai ngót ba tháng, trưa nào Ánh cũng tất bật phóng xe vèo vèo vào bệnh viện để được lên giường
nằm song song bên cạnh mà thoi thóp với tôi cho đủ cặp uyên ương. Các cô y tá thỉnh thoảng ghé mắt vào buồng không khỏi ngạc nhiên, không biết ai là người thăm nuôi, ai là con bịnh thiệt.
Hồi ở VN, khi ra đường Ánh thường vái trời cho ra đường đừng bắt gặp đấng lang quân chung tình của mình đang cặp kè với một yêu nữ, bởi lẽ thịt da ai cũng là người, lẽ nào hồng rụng thắm rời chẳng đau
? Bận nọ, một bà chị dâu điệp viên của tôi báo cáo với Ánh là tôi có bồ và rủ nàng đi bắt ghen. Ánh sợ xanh mặt, khoát tay lắc đầu lia lịa. Thà chết sướng hơn !

Hỏi : Rất nhiều người thắc mắc sao chị Ánh để yên cho anh viết những truyện tình nhăng nhện của anh. Viết thiệt kỹ, viết tận tường, ngực mông tứ chi gì đều đầy đủ hết, không thiếu một món nào.

KT :
Câu này có lẽ nên hỏi bà xã tôi thì hơn. Nhưng theo chỗ tôi nghĩ, những chuyện tình của tôi tôi đã kể cho Ánh nghe hết rồi, nàng đã biết hết từ khuya. Có khác chăng là giờ đây tôi viết ra trên giấy
trắng mực đen như một tờ tự thú. Mà tôi thì có tật không quen nói dóc, viết dóc. Vả lại cũng chớ nên lo lắng cho nàng lắm. Vì “ Bụt nhà thì không thiêng”, bởi lẽ đó nên ít khi nàng ghé mắt vào sách của tôi
mà khán binh thư.

Hỏi
: Quả đúng là chị đọc mà như không đọc truyện của anh : vì chuyện đã qua, ma nữ đã lặn hết, chỉ còn lại chàng Kiệt. Trở lại câu hỏi về bạn bè. Anh cho biết những người bạn nào khiến anh suy nghĩ
về cuộc đời, về văn chương nghệ thuật hay vấn đề gì khác ?

KT : Như đã nói, tôi vốn không có bạn văn nghệ văn gừng. Cũng không thích bàn chuyện văn chương. Hồi ở VN trước 75, tôi cũng chẳng viết lách được bao nhiêu, phần lớn là lách nhiều hơn là viết. Đi nhậu
nhẹt và trai gái vui hơn. Cái gì khiến tôi suy nghĩ về cuộc đời ? Thì cái đó chính là cuộc đời chớ chẳng có cái gì khác hơn ! Với tôi, người ta sinh ra ở đời là để sống, mọi thứ khác chỉ là bày đặt. Còn văn
chương hay nghệ thuật ? Tôi chẳng dành cho nó một vị trí đặc biệt nào cao hơn hoặc thấp hơn trong đời sống. Nó chỉ là một sinh hoạt cũng như mọi sinh hoạt khác của con người, vậy thôi. Với tôi, đời sống bao trùm văn chương nghệ thuật chớ không phải văn chương nghệ thuật bao trùm đời sống. Bởi vậy khi nghe ai đó đánh trống dọng chuông ì xèo quanh văn chương nghệ thuật và đặt nó lên bàn thờ mà quỳ mọp, tôi rất lấy làm khó chịu. Vừa phải thôi chớ ! Nhờ anh tí ! Việc gì mà phải nghiêm trang và long trọng đến thế ? Hỏi : Thú thật anh nói có hơi khó hiểu. Vậy chớ theo anh, cái gì quan
trọng trong đời sống ?

KT : Từ lâu, tôi đã đi tới ý nghĩ sau đây : “Trong đời sống cái gì cũng quan trọng. Nhưng nghĩ cho cùng, cũng chẳng có cái gì quan trọng”. Tôi xin nói rõ, ý nghĩ của tôi có hai mệnh đề chớ không phải chỉ
vỏn vẹn có một mệnh đề là “trong đời sống chẳng có cái gì quan trọng”. Có bí hiểm lắm không ?

Hỏi : Trong thời chiến tranh Quốc-Cộng, anh viết Điệp Khúc Tình Yêu Và Trái Phá với tâm trạng như thế nào ?

KT : Trong thời chiến tranh Mỹ-Quốc-Cộng ( 1954-1975), ngay tại Sài Gòn, đảo chánh chỉnh lý liên miên, xuống đường và hít lựu đạn cay như ăn cơm bữa, chính khách xôi thịt thì trơ mặt mo ra mà giành ăn. Tôi viết Điệp Khúc Tình Yêu Và Trái Phá trong tâm trạng phẫn nộ. Phẫn nộ ! Phải, phẫn nộ.

Hỏi : Bây giờ nhìn lại Điệp Khúc Tình Yêu Và Trái Phá, anh nghĩ gì ? Hình ảnh Kiệt Tấn ngày đó khác với bây giờ như thế nào, ở chỗ nào ?

KT : ĐKTYTP xuất hiện vào thời điểm chiến tranh khốc liệt, trong môi trường lửa đạn dai dẳng ở VN. Thời đó đã qua, tôi không muốn khơi lại nữa. Về hình ảnh tác giả khác nhau như thế nào à ? Dễ ợt ! Điểm nổi bật nhứt : Kiệt Tấn bây giờ già hơn khi xưa rất nhiều, đó là cái chắc ! Còn nghĩ gì ? Tôi cố gắng không nghĩ tới, hay đúng hơn là không muốn để ý tới chiến tranh. Như vậy tốt hơn. Tốt cho sức khoẻ, đỡ nhức đầu mà cũng chẳng làm được gì hết ráo. Còn chiến tranh à ? Thì từ thuở còn lông lá sù sụ ở trong hang động có đốt lửa ấm cho tới thế kỷ 21 ngày hôm nay rụng gần hết
lông và ở trong nhà có gắn máy lạnh này, con người có ngớt đánh nhau bao giờ đâu ? Chỉ có vũ khí thì càng lúc càng tinh vi, chớ còn lòng người thì trước sau vẫn vậy, vẫn tham lam, vẫn gây hấn, vẫn xuẩn
ngốc. Trên mặt đất này chưa thấy có loài nào tìm cách giết và tiêu diệt đồng loại kỹ như con người. Vậy mà là “đỉnh cao trí tuệ” đấy ! Đừng có giỡn mặt tử thần ! Mẹ rượt ! Bởi lẽ đó, lúc cuộc chiến VN
sắp kết thúc, trong vài năm cuối cùng còn lại, tôi đã lấy một quyết định sáng suốt : bỏ làm thơ Tình Yêu Và Trái Phá, quay sang làm thơ bia ôm và trái cóc. Vui hơn là cái chắc !

Hỏi : Bây giờ nhìn lại, anh nhớ tiếc điều gì của thời đó ? Cái đau khổ rất « Romantique » (Anh trai thời loạn) ? Tuổi thanh niên ?

KT : Nhìn lại, tôi chẳng thấy tiếc nuối một điều gì hết, ngay cả tuổi trẻ của mình. Thời buổi gì mà bầm vập như vậy, nhưng đó là lẽ trời, biết làm sao mà cãi bây giờ ? Chẳng lẽ hát tuồng “con kiến mà kiện
củ khoai” ? Còn nhớ những gì ? Cái đó còn tùy. Nhưng nói ra sợ vợ nhà cho ăn đòn. Đối với tôi chẳng có anh hùng và chẳng bao giờ tôi chiêm ngưỡng anh hùng hết ráo. Toàn là phỉnh gạt và ba xạo. Cái ba
xạo chết người. Hỏi tôi về đau khổ ? Cái đau khổ nào cũng đều đau ( đau lắm !) và cũng đều khổ ( khổ lắm !) “Anh, trai thời loạn (hề !)” ; Héros romantique ! Người hùng lãng mạn ! Mấy em gái hậu phương nghe tới tên người ắt phải rụng rún. Đã làm anh hùng mà còn đèo thêm lãng mạn nữa thì chỉ có nước chầu Diêm Vương sớm !

Hỏi : Anh theo dõi và biết rất rõ về tình hình chính trị thế giới và cả VN, anh vẫn nói tình dục là « hơi thở của đời sống » nhưng còn chính trị ? Chính trị có là hơi thở của đời sống ?

KT :
Nói rằng tui « biết rất rõ về tình hình chính trị thế giới và cả VN » thì tội nghiệp tui lắm cô Hai. Vô tình cô đã xô tui vào « vũng lầy của chúng ta », tui sẽ phản đối trước Liên Hiệp Quốc tới cùng.
« Tình dục là hơi thở của đời sống ». Ờ ! Gì chớ cái đó thì quả nhiên tôi có nói. Một điều rất rõ rệt, sờ sờ trước mắt : Tình dục ban cho ta hơi thở đầu tiên và tình dục cũng cho phép ta ban hơi thở kế tiếp,
và vân vân, vân vân, cứ thế mà làm. Sự tiến hoá đã xui khiến đất trời bày ra âm dương, đực cái, nam nữ, đàn ông đàn bà, lấy tình dục làm phương thức sinh sản. Nếu bây giờ đột nhiên tình dục biến mất
trên mặt đất này thì sẽ có rất nhiều loài tắt thở, trong đó có phe ta : Loài người. Còn chính trị ? Theo tôi nghĩ, chính trị phát xuất từ nhu cầu sống xúm xít của con người. Xúm xít rồi thì chia phe, chia nhóm, chia bè, chia đảng : Chính trị phát sinh. Có tình dục thì đời sống có cơ tiếp tục. Có chính trị thì đời sống có cơ tiêu diệt. Bằng cớ : Thế chiến thứ nhứt, thế chiến thứ hai. Chưa hết. Năm 1962, Nga Mỹ kình chống, Kennedy và Kroutchev chơi trò chính trị thượng tầng và dùng vũ khí nguyên tử để thấu cáy nhau, thiếu chút nữa đã đẩy loài người vào con đường hủy diệt tập thể, đưa tới cơ hoạ tuyệt chủng, và muôn loài khác cũng bị vạ lây. Vì vậy, nói rằng « Chính trị là hơi thở của đời sống » tôi nghi ngờ lắm, và quyết cự nự cho tới cùng. Chính trị từ xưa tới nay, theo tôi, là một tai hoạ chẳng đặng đừng đặc thù của loài người.

Hỏi : Chính trị còn là cách thức tổ chức cho đời sống sung sướng và hài hoà, toàn diện nữa chứ anh, nhưng không lẽ chúng ta lại đi định nghĩa chính trị ở đây. Làm sao sống đời thi sĩ trọn vẹn trong một hoàn
cảnh chính trị đảo điên, ngoài tác phẩm (Tình Yêu và Trái Phá) một công dân thi sĩ ( đã ) có thể làm gì khác ?

KT
: Tôi không biết thế nào là một công dân thi sĩ. Theo tôi, công dân và thi sĩ là hai ý niệm tách biệt nhau. Đã là công dân thì phải thi hành bổn phận công dân. Tới tuổi quân dịch thì đi lính đánh giặc.
Dĩ nhiên cũng có thể trốn quân dịch hoặc đào ngũ, nhưng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn sự chọn lựa của mình. Còn thi sĩ ? Muốn đáng được gọi là thi sĩ thì phải làm thơ cho ra hồn.
Thi sĩ chẳng có đặc ân hay đặc quyền gì trong chiến tranh hết ráo. A lê hấp ! Cũng nón sắt, ba lô, giày đinh và ắc ê như mọi người. Lạng quạng là hít đất, là phạt dã chiến. Tuy nhiên, cũng có thể vừa đánh
giặc vừa làm thơ, có sao đâu. Nhưng coi chừng, nếu rủi ro trúng nhằm số con rận hay lơ mơ không biết ẩn núp là sẽ bị bể gáo như chơi. Nếu may mắn còn sống sót thì lấy bút lấy giấy ra mà mần thơ tiếp tục. Như Quang Dũng thời kháng chiến Pháp-Việt chẳng hạn : Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến, Quạnh vắng chiều sông lạnh bến Tề (… ) Aùo bào thay chiếu anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành (…) Hoặc gần đây hơn, , Tô Thùy Yên trong cuộc chiến Mỹ-Việt : Di tản khó- sâu dòi lúc nhúc, Trong vết thương người bạn nín rên. Người chết mấy ngày chưa lấy xác, Thây sình mặt nát lạch mương tanh… Hoặc một Lâm Hảo Dũng giận điên người Mai ôm đầu mộ dăm thằng chết, Hát lại bài ca hận chiến trường. Lúc điên muốn bắn dăm ba phát, Cho đã tay cò lãng việc quân. Muốn làm thơ chiến tranh thì phải có kinh nghiệm chiến trường, như vậy thơ mới đạt. Lỡ có gục ngã ngoài trận mạc thì đành thôi chứ biết làm sao bây giờ ? Chết bỏ ! Trời kêu ai nấy dạ. Chết bỏ ! Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ Nghĩa là một con người là con người sống trong xã hội, làm công dân vừa làm thi sĩ, hay bác sĩ kiêm nhạc sĩ, chẳng có gì tách rời hay loại trừ !

Cám ơn anh Kiệt Tấn

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Sáu 20226:34 CH(Xem: 2272)
Ông Tăng Duyệt say mê âm nhạc, tính tình hào hoa phong nhã, và thích giao du với giới ca sĩ, nhạc sĩ thời ấy.
04 Tháng Sáu 20222:37 CH(Xem: 2646)
Cõi nhạc của Cung Tiến đã là một cõi riêng. Kiếp sau của Cung Tiến vẫn còn là một bí ẩn. Nhưng chắc chắn, ông đã có một nơi chốn vĩnh cữu trong trái tim của những người yêu nhạc Cung Tiến
24 Tháng Năm 20223:56 CH(Xem: 2702)
Ông sống với anh em bằng cả tấm lòng, không hề phân biệt lớn nhỏ, đã thành danh hay chưa.
18 Tháng Năm 20223:18 CH(Xem: 2337)
Tuy làm thơ từ năm 1947, nhưng phải đến thập niên 50, khi sống và học tập ở Paris thi ca Cung Trầm Tưởng mới hình thành đường nét với cá tính riêng biệt.
12 Tháng Năm 20223:47 CH(Xem: 2551)
Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may.
11 Tháng Năm 202210:40 SA(Xem: 2376)
Vấn đề mà bài viết này đặt ra không nhằm khuyến khích sự khó hiểu hay không thể hiểu
30 Tháng Tư 202210:56 SA(Xem: 2495)
Mỗi cuốn sách một số phận, trôi nổi qua biết bao biến cố, bỗng một hôm trở về với người sưu tầm, người đọc như những báu vật của thời gian…
27 Tháng Tư 202210:57 SA(Xem: 3204)
Lần đầu tiên tôi gặp anh Quang Dũng là tại nhà anh Nguyễn Bính, cũng là trụ sở Báo Trăm Hoa. Năm ấy, tôi đang là cậu học trò từ tỉnh nhỏ ra Hà Nội, đang học lớp đệ nhị
21 Tháng Tư 20225:04 CH(Xem: 2148)
Không biết báo gì mà khiến người ta phải chen như thế, điều chưa từng có! Tôi cũng len vào, mua thử một tờ xem sao. Đó là tờ báo Nhân Văn số 1.
02 Tháng Hai 20229:46 SA(Xem: 3091)
Ngày 14-6-1975, tôi trình diện với tư cách sĩ quan biệt phái tại trường Tabert, sau khi đóng 10 ngày tiền ăn. Bây giờ nghĩ lại thấy cũng tức cười.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17070)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12277)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19002)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9185)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8361)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 623)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 995)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1186)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22481)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14021)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19191)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7906)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8823)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8504)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11073)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30724)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20821)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25519)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22916)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21740)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19799)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18061)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19261)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16927)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16119)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24515)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31963)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34938)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,