(cảm nhận qua tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo)
Hình như đã lâu lắm, hoặc như chưa bao giờ tôi bắt gặp trên đời này một người
mà chỉ qua một buổi sơ ngộ tôi đã thấy quý và yêu… như anh ta
Vì một lẽ cũng đơn giản thôi, trong cái xóm văn ồn ào tấp nập, chín người
mười làng như Hội (và không hội) nhà văn của chúng mình đây, loại người như anh
ta kể cũng hiếm ở một ngành nghề có vẻ khá phong phú, hơi hơi đa dạng mà cũng
hơi hơi tạp phí lù này. Anh ta điên chăng?
có anh hề đã nói với tôi
đời thằng hề buồn lắm anh ơi
và tôi đã khóc
(Tin thì tin không tin thì thôi – ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN)
- Ừ, có lẽ hơi điên thật! Anh ta có lúc nào tỉnh không?
- Nhiều chứ, độ một vài phần trăm!
- Ồ, thế thì anh nào làm thơ hay cũng điên quá chín mươi phần trăm à?
- Tôi cho là thế. Vì đông tây kim cổ, những bậc thi hào thi bá trước cuộc đời đều
khiến người ta cứ phải nghĩ rằng các vị ấy giông giống như điên gần 100%.
- Anh ta say à?
- Ừ, say luôn
- Say liên miên hay sao?
- Có thể là như vậy
- Nghe nói anh ta buồn lắm chăng?
- Buồn nhiều đấy
- Thế không có tí vui nào à?
- Vui cũng có chứ. Nhưng chỉ thỉnh thoảng. Vui đấy buồn ngay đấy
- Anh ta phải lo nghĩ ưu tư nhiều lắm ư?
-Tất yếu là thế. Không lo nghĩ ưu tư thì giết ai ra thơ? Mà cũng không hoàn
toàn là như vậy
- Anh ta yêu nhiều đàn bà chứ?
- Ồ, cái đó đương nhiên rồi. Nhưng tưởng nhiều mà hóa ra ít
- Thế thì không đam mê hay sao?
- Chết chửa? Không đam mê sao lại thành thi sĩ. Nhưng cũng tùy cái đáng đam mê
- Hay thật! Vậy có đúng anh ta là Người Ham Chơi như có một ông đồ hơi hơi gàn
là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phân loại các đấng người không?
- Đúng một tẹo thôi, chứ phải nói cho đúng thật anh ta là người chơi (vì ham
thì ai mà chả ham, nhưng ham có “được” chơi không? Đằng này, người chơi (homos
ludus) là người được Thượng đế ban cho cái khả năng và cái phép chơi như anh ta
ấy. Chơi là bẩm sinh của những thi sĩ đồng thời sống phải có bản lĩnh mới chơi
được. Thiếu bản lĩnh mà học đòi chơi thì có khi té nhào, gãy cổ đấy)
- Ôi giào! Ông nói lan man vòng vèo sốt ruột quá. Thời buổi “hiện đại” này, ông
cứ nói toạc ra, nói ngắn và nói thẳng ra đi: anh ta, cái anh Nguyễn Trọng Tạo ấy
là loại người gì ở cõi nhân gian đã quá đông đúc, mà xô bồ lắm khi hỗn loạn,
cái chỗ ở đã chẳng rộng rãi gì mà còn nay khủng bố mai đảo chính chém giết,
luôn luôn đem võ khí với nhiều thứ lý thuyết rởm ra để dậm doạ nhau, che dấu tội
ác, tranh dành và cố bám lấy cái quyền lực bẩn thỉu và ích kỷ của từng phe
nhóm.
chuột quá nhiều chuột chẳng chịu giảm biên
- Thưa các bạn, thực ra tôi cũng khó trả lời cho vừa ý mọi người. Vì thơ hay giống
như một món ăn rất quý hiếm, nhưng mỗi người yêu thơ lại có sở thích riêng.
Cùng một bài thơ, có người yêu lại có người ghét, lại có người thờ ơ. Tốt nhất
xin các bạn cứ coi đây là ý kiến riêng của một người đọc bình thường.
Tôi chỉ biết gọi Nguyễn Trọng Tạo đúng là một thi sĩ, thi sĩ từ khi Thượng đế
gieo mầm thơ cho một loại động vật siêu đẳng mà ta gọi là con Người (Người viết
hoa, Người ở đẳng cấp cao nhất, vì Người cũng chia ra năm bảy đấng cơ đấy). Đọc
thơ Nguyễn Trọng Tạo, lắm lúc tôi như nhìn thấy rõ cái uyển chuyển màu nhiệm
trong tâm tư và trong thơ anh. Có khi nó vút lên rất cao đến mức không ai nhìn
thấy anh ta đâu nữa:
tung tăng thanh xuân trôi ngược chiều
phút chốc mộng du lên phiêu diêu
Lại có lúc thơ chìm rất sâu khiến đôi ba bạn thân thiết nhất phát sợ, chẳng biết
anh ta mất tăm vào cõi nào đây
tôi trở lại dòng sông bờ cỏ thi xanh mướt
xưa em đánh mất trâm giờ lặng lẽ tôi tìm
Nhiều phen anh đứng sững giữa cái nhân gian vừa giả dối vừa lố lăng vừa ngốc
nghếch:
có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
(Xin phép mở dấu ngọăc. Riêng câu vừa rồi, anh ta có bị mềm lòng nên đã gượng
dùng từ mềm mỏng có vẻ “lịch sự” là “qua đời”, chứ tôi biết ý anh định nói khối
người đang sống mà như chết rồi, nhưng hình như anh kém bạo dạn, như né tránh nể
nang gì đó bèn làm một câu thơ đáng lẽ ra là phải thẳng thắn, lại làm nhẹ đi
cho đỡ chối tai một số người đang còn sống đấy mà như đã chết).
Tuy vậy, ở nhiều chỗ, anh đã phải nói thẳng tuột, cũng chẳng cần che đậy gì nữa:
trộm cắp đâm nhau dưới đèn mờ
xích lô máu me cấp cứu
tham nhũng nâng ly mừng thắng lớn
ú ớ nói mê người đói không nhà
Còn nhớ về thời chinh chiến, anh ta cũng chẳng dấu diếm sự khủng khiếp của chiến
tranh:
người thủng tim, người thủng đầu
người cụt chân, người cụt tay
người bên ta người bên địch
Đặc biệt bài thơ BÓNG thì đọc rồi, tôi cứ gai gai rờn rợn khắp người
hắn là hắn, hắn chính là chiếc bóng
không thanh âm, không màu sắc, không buồn vui
thế mà hắn suốt đời sát kề tôi
không xóa được, tôi đành chào thua hắn.
nhất là câu kết thật đáng đau buồn cho một cộng đồng người:
tôi đã chào thua khối người như chiếc bóng
Thế nghĩa là nhân loại này còn sinh ra rất nhiều rôbốt bằng xương bằng thịt y
như con người. Nhưng anh Trọng Tạo lại rất thanh thản, như một nhà hiền
triết đã thấu hiểu đến tận cùng cái sợi dây vô hình ràng buộc chặt chẽ thiên
nhiên với số phận người, hơn nữa là số kiếp thi sĩ.
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
Được cái thanh thản trong như pha lê ấy là do Nguyễn Trọng Tạo luôn yêu cuộc sống,
ham sống, và khát khao tình người vô hạn độ, anh luôn tiếc cho những ngày tháng
trôi nhanh trên mọi kiếp người:
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi
Rất nhiều điều anh nói thật, có người tưởng anh mỉa mai hay chế riễu. Chính ra
là anh chỉ nói thật. Thi sĩ chỉ đáng giá khi nói thật bằng những hình tượng chắt
lọc từ sự thật (Boileau).
Ví dụ cái chuyện ăn uống thô thiển này:
tôi đã tới hang động yến sào đã thèm ăn yến
vậy mà chưa được nếm bao giờ
hàng quốc cấm
Nói đến một thi sĩ, trước hết phải xem cái tình của anh ta nó thường hiện lên bằng
hình ảnh, bằng nhịp điệu, bằng ngôn từ, nghĩa là xem những nỗi niềm rung động của
thi sĩ ấy từ da thịt bên ngoài vào tít bên trong đến những tế bào tận cùng của
người thơ. Tình của chính mình trước đã, rồi đến bố mẹ, vợ con, người yêu, bạn
hữu, người láng giềng, người đồng bào, đồng loại… nói chung với những ai được gọi
là Người, kể từ người bé mọn bình thường nhất trên trái đất này. Thế thì ở Trọng
Tạo, tôi lại thấy anh thật đắm đuối với cuộc sống con Người mà do đó cũng được
nếm nhiều vị đắng cay, chua chát, gây thương tích cho mình và cho những người
thân yêu của mình. Thôi thì “rầu lòng vậy, cầm lòng vậy”. Nhưng cũng lại vì quá
yêu rồi nên bất chợt thốt ra những lời khiến người đọc dễ cảm như tôi cũng phải
đau lòng theo anh.
cầm lòng sao cứ vân vi
mây thì nặng trĩu, núi thì nhẹ tênh
Chỉ vì một lẽ, Trọng Tạo làm thơ như bó buộc từ đáy tâm linh. Bao nhiêu nỗi niềm
buộc anh phải viết ra nếu không thì sức nén, sức dồn ép của nó sẽ khiến anh ngạt
thở hoặc ứa máu khắp các lỗ khiếu: mắt, tai, mồm, mũi. Cũng vì sự chân thực
ấy mà trong cả tập ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN, không một bài nào giả tạo vay mượn
hoặc điệu bộ, làm duyên, làm dáng. Mỗi câu, mỗi bài đều có sức đi vào chiều sâu
của ý thức và tâm thức, đôi khi bật ra từ vô thức, như một khám phá bất ngờ.
sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì
….
em lộng lẫy mộng mơ giờ nhàu nát bên đường
anh là kẻ vớt trăng bao lần trăng vỡ nát
Thơ anh lại có lúc như tiếng nói của định mệnh hoặc một thoáng rùng mình của số
phận
ôi sự sống nơi đỉnh trời chân cỏ
thoáng heo may. Nghe mình chợt sang chiều
Và chỉ bốn câu sau đây mà sao tôi thấy hết cả một vũ trụ hoang lạnh, một nỗi cô
đơn mênh mông buồn tưởng chừng cả thế giới này tan đi đâu hết:
… rồi xa lắc. Bỏ một trời nhung nhớ
ơi mùa thu áo ấm đã mặc chung
rồi biền biệt. Hoa vàng như hơi thở
mimôza. Giọt nắng… Có theo cùng
Những xúc cảm tinh vi tế nhị đến thế, chỉ những thi sĩ biết nắm giữ lại được từng
phút giây sâu thẳm nhất trong tâm tư mới diễn tả được trọn vẹn những điều mong
manh khó biểu hiện nhất bằng bất cứ loại hình nghệ thuật nào.
Quả vậy thơ cứ như bốn câu ấy thôi là tình người đã hiện ra thành người thật, đứng
ngồi ngay trước mặt ta, để ta có thể ôm vào lòng như ôm toàn thân người yêu mà
nâng niu, trìu mến.
Rõ ràng thơ Nguyễn Trọng Tạo đi thẳng ngay vào cái đang thực có để rồi phiêu diêu,
tan man trong hư vô, để lại cho tôi cái cảm giác của gió lạnh đầu mùa mơn man
da thịt hòa vào một nỗi nhớ tiếc xót xa ảo diệu về một vài điều gì quá đẹp đã
trôi qua, đã đi xa và xa xa mãi, không tài nào cầm lại được, mà éo le thay, nó
vẫn cứ đôi khi hiện hình rõ mồn một trước mắt mình.
Thơ Nguyễn Trọng Tạo không mấy khi đi một chiều. Mà phong cách quán xuyến toàn
tập lại rất hấp dẫn, đáng yêu, không ai chỉ đọc một lần. Không hiểu sao, mỗi lần
đọc lại ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN, tự nhiên tôi liên tưởng ngay đến dáng dấp một
nhân vật của Nguyễn Du tạo ra cho cuộc đời này:
… một tiểu Kiều
có chiều phong vận… có chiều thanh tân
sương in mặt tuyết pha thân
sen vàng lãng đãng
(Nguyễn Du)
Ngôn từ và nhịp điệu thơ Trọng Tạo cứ tâng tâng, tưng tửng thường khi lênh tênh
tưởng như nhẹ nhõm lắm, cũng có lúc hì hục tưởng như nặng nhọc lắm. Mà như chẳng
định nói gì quan trọng lại hóa ra toàn những cái đau khổ, cái vui cái buồn nhân
thế vào cuối một thế kỷ quá nhiều bi kịch, (tuy cũng lắm hí kịch), máu và nước
mắt, ai oán thương tâm quá nhiều, yên vui quá ít, đi theo nhiều khát vọng ấm
no, xum vầy, hạnh phúc. Chỉ một bài Mùa Thu áo ấm đủ cho tôi thấy nỗi lạnh lẽo
thăm thẳm đến gai gai tê tê khắp người.
Với cái “tạng” yếu ớt, dễ xúc động như riêng tôi, thì tập thơ này của Nguyễn Trọng
Tạo là một trong vài ba tập đứng hàng đầu trong một tâm tưởng thơ chân thực, gợi
ra cái ĐẸP, ĐIỀU LÀNH và SỰ THẬT cứ coi như cho riêng mình thôi kể từ ngày non
sông thu về một mối. Cũng là đã 25 năm mà qua tập thơ này, tôi thấy tâm tư tình
cảm và khát vọng ước mơ của con người Việt Nam hiện lên rất rõ nét sau bấy
nhiêu tang tóc, chia lìa, sau những thủy chung và phản bội, thành tâm và dối
trá, yêu thương và thù hận. Số bài thơ xấp xỉ số triệu dân của đất nước này, cầm
tay thì nhẹ nhõm tưởng như chỉ là một cơn gió cuối thu, mà thật ra nặng bằng trọng
lượng nước của dòng sông quê anh Trọng Tạo. Cái sức nặng ngôn ngữ và âm thanh Đồng
dao khiến tôi nhiều đêm trằn trọc, phải tung chăn ngồi dậy, tìm đúng bài Đ bài
C bài M mà đọc lại để được an ủi, được sẻ chia những khía cạnh thương cảm và cô
đơn, nỗi sầu riêng và lòng trắc ẩn. Tính từ 1975, ít có tập thơ nào xâm chiếm
lòng tôi lâu và sâu như ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN. Đồng dao ư? Đúng vậy. Trọng Tạo
như chú bé nhà quê đi kiếm củi, trơ vơ và lủi thủi trên cánh đồng chiều, vừa
vác bó củi khá nặng về nhà vừa hát rất vô tư về những chuyện đời, những niềm
riêng, nỗi chung của rất nhiều người Tạo phải gọi bằng anh chị hay cô dì chú
bác thường ngày vẫn dạy em dạy cháu về những điều sơ đẳng của lẽ sống con người.
Bởi vì cậu ta cứ nâng trên tay những âm thanh nhịp điệu kết thành những con chữ
luôn luôn ngọ nguậy, chấp chới vỗ cánh chỉ dình bay lên, mà bay xa, khoan thai
chững chạc, như chẳng có gì vội vã. Anh đã đi những bước chân vững chắc và đĩnh
đạc của số mệnh lúc chậm lúc nhanh, lúc nhẹ nhàng, lúc nặng trĩu lướt trên số
phận cuộc sống mỗi con người, tựu trung là những bước đi định sẵn rất ráo riết
và quyết liệt. Riêng Trọng Tạo, anh chủ định đi theo nhịp bước nghìn năm của
dân tộc, nhịp song hành là chính, nhịp chẵn, hai bốn, sáu tám, cả chín mười, rất
nhiều câu thơ dẫu số chữ lẻ vẫn luôn theo nhịp chẵn như vợ chồng như âm dương
như đôi chim liền cánh, hễ nghe kỹ từ phía bên trong hay phía ngoài của ngôn từ,
nhất là ở những dấu lặng và khoảng cách giữa hai câu (entreligne), tôi vẫn thấy
cái ung dung thư thái của nhịp chẵn, nhịp sáu tám. Tôi nghĩ hình như anh cố
tránh sự trúc trắc, sự sai nhịp trong cùng một câu, cái gồ ghề và cái gấp gáp của
cuộc sống túi bụi thị trường mà tôi thường gặp ở một số tác giả mới cứ tự cho
mình là “hiện đại” lắm bất chấp một nguyên tắc lớn của thơ phương đông là nhạc
điệu trong thơ. Nhạc điệu trong thơ chính là cái ta thường gọi là hồn thơ,
không có nó, bài thơ chỉ còn là một đống xác chữ.
Có thể anh “phớt” hẳn cái nhịp cuống cuồng, sô bồ, nhốn nháo, lạo xạo của lối sống
hôm nay, kiểu kinh tế thị trường chen lấn, bừa bãi, đua nhau làm giàu, nhiều
nơi tích lũy tư bản dã man, bất chấp cả lương tâm. Đồng đô-la Mỹ đang muốn chỉ
huy cái loại “nhịp điệu” phi dân tộc đó trên phạm vi toàn thế giới.
Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo lúc nào cũng như muốn đi đến đáy của nhiều tâm trạng
và suy tư thời đại. Anh nói chắc nịch như thân cây lim cây táu về tình người, cả
về những diễn biến tâm tư trong một xã hội lẽo đẽo theo sau những bước dài bước
ngắn rất chớp nhoáng của thời đại mà kỹ thuật khoa học càng lên cao càng đi sát
sạt ngay bên cạnh cái nguy cơ hủy diệt toàn cầu. Anh như ngậm đau mà nói ra bằng
những con chữ khá sắc cạnh những nỗi thống khổ và lòng tin yêu trong cuộc sống
hôm nay, tưởng như anh thây kệ mọi điều thị phi, bỏ ngoài tai những lời khen
chê vô bổ. Một ví dụ của tính u trầm thảnh thơi, tính kiêu kỳ không lộ liễu mà
rất có duyên của lòng tin yêu đích thực thi sĩ ấy:
… nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm
mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua
hoặc:
… con sông mình hạc xương mai
vàng son in bóng đền đài hoa khôi
đến đây tôi gửi bóng tôi
vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên
để rồi anh cứ phải nói đi nói lại mãi như thách thức, như hờn dỗi mà lại như một
lời âu yếm rất vợ chồng, cái điệp khúc rất trẻ con, rất hiền triết, rất đáng
yêu: tin thì tin không tin thì thôi.
Và riêng tôi, thú thật, tôi cũng muốn mượn nguyên văn câu thơ trên của Trọng Tạo
làm chủ ý cho bài viết sơ sài này. Tin thì tin không tin thì thôi!
MẤY LỜI NÓI THÊM NHÂN BÀI GIỚI THIỆU THƠ
NGUYỄN TRỌNG TẠO:
Quả thế, xưa nay thường có nhiều ý tứ sâu xa của thi sĩ mà cứ phải chờ hàng chục,
hàng trăm năm sau khi thi sĩ về trời rồi, thiên hạ mới khám phá ra những góc cạnh
quí báu của tấm lòng thi sĩ thường bị bóng tối ngu si của thời gian vùi lấp. Ít
lâu nay, ta thường nghe hai cụm từ quen thuộc đến nhàm chán: TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN
ĐẠI. Hình như Hồ Xuân Hương đã thành cổ lỗ huống chi còn Nguyễn Du, Cao Bá
Quát, Tản Đà, Tú Xương v.v…! Ai biết quý trọng vốn quý thì còn xếp các vị tiền
bối ấy vào loại cổ điển còn những kẻ vong bản, vong ân thì vơ đũa cả nắm là “cũ
kỹ, cũ mèm” tuốt! Tưởng cổ điển thì từ cấp 2, cấp 3 học xong rồi thì xếp vào
ngăn tủ, tìm hiểu lại làm gì. Còn có những thái độ hỗn xược với người xưa nữa,
có anh giở tờ Văn Nghệ thấy tên bài viết có ý nói về một vài câu nào đó trong
truyện Kiều hoặc Chinh Phụ Ngâm thì quẳng ngay tờ báo xuống chiếu, nhại ngay
câu bất hủ của cụ Cố Hồng (Vũ Trọng Phụng) mà rằng: “Biết rồi! Khổ lắm! Nói
mãi!…” Ấy là chưa kể rất nhiều bài nghiên cứu thơ đăng báo, in ra thành sách rồi,
mà còn trích sai, sai đến thảm hại, chứng tỏ người viết không hiểu gì văn học,
nghệ thuật. Tình trạng này hầu như gần đây khá phổ biến khiến những độc giả
chân chính nghĩ mà lo cho nền văn học dân tộc sao lại có nhiều người vô trách
nhiệm quá. Nghiên cứu chỉ là sao chép lại của người khác để “cứu” cái túi tiền
của mình đang có nguy cơ đói đô- la thành ra nghiên cứu văng- tê, phê bình
văng- tê, trích dịch văng- tê, để rồi tiêu tiền của công quỹ cũng văng- tê.
Từ mười năm nay, tôi cứ ao ước và cũng có lần xin phép Hội Nhà Văn cho xuất bản
một tờ báo thơ. Để ít ra thì cũng có nơi đãi cát lấy vàng. Kể thì nhiều báo lắm.
Báo về thương mại, về tài chính cũng đăng thơ. Còn chính thức, RA MỘT TỜ BÁO
THƠ thì không có mặt. Đó là điều cũng gọi là khá kỳ quặc trong khi dân tộc ta
là một dân tộc yêu thơ. Đến cả người mới biết đọc biết viết cũng có thể làm ra
một vài câu lục bát. Một tập thơ hay như ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN này phát hành
đã sáu năm rồi mà cũng ít người nhắc đến, hoặc chỉ giới thiệu như một lời quảng
cáo sơ sài. Có thể trong hàng mấy trăm tập thơ in ra mỗi năm, có nhiều bài hay,
nhiều câu thơ hay mà rất ít người biết đến. Nếu có một tờ báo thơ, hẳn nhiều
người làm thơ hoan nghênh vì đa số các bạn in thơ đều là những người nhiều cảm
xúc mang nhiều suy tư trước thời đại đang biến chuyển vùn vụt, ai cũng mong
giãi bày lòng mình muốn nói điều gì đó với thời đại. Tuy cũng có đôi ba anh “tập
sự thơ” cố chạy được món tiền nhỏ in thơ ra để khoe mã, để “ra đều” ta cũng là
“nhà thơ” cho sang trọng với phố với làng, thì vẫn là số rất ít, ta cũng nên chỉ
gật đầu khích lệ thôi, vì điều đó chẳng hại ai. Nhưng gần 15 năm đổi mới mọi mặt
của đất nước mà tôi cứ gào, cứ gọi, cứ ao ước mãi chẳng ai hồi âm, điều đó mới
thật có hại cho nền văn học dân tộc của chúng ta. Tôi xin phép làm vui một chút
viết mấy câu bằng lối chơi chữ (chẳng qua cũng chỉ là đôi lời than thở)
Này báo thơ ơi, liệu có nhầm
Ngủ đâu ngủ mãi chẳng tri âm
Nàng Thơ tài sắc không ra thớ
Dân tộc đầy thơ, thơ cứ câm
Muốn hỏi vào Thơ không thở được
Dẫu đăng nhan nhản cũng như thừa
Hay vì nặng nợ đi làm thợ
Huyền hoặc thờ ai? Ới hỡi Thơ
Anh Trọng Tạo và các bạn đã làm thơ, đã có thơ in sách, đăng báo ơi! Không có
báo thơ, phải chăng vì đất nước chúng ta nhiều nghịch lý? Đầu làng hạn hán, cuối
làng úng thủy. Trong nhiều ngành công tác, người ngay thẳng thường bị mất việc
hoặc bị dìm dập, kẻ lươn lẹo giả trá, cái lưỡi quá mềm, càng lắt léo thì cột
xương sống càng cong xuống lại lên xe xuống ngựa, nhà cao cửa rộng, đô- la ních
chật tủ. Tài nguyên thì giời ban quá rộng, rừng vàng biển bạc đấy, vẫn nhiều
nơi túng thiếu, chỉ no lưng lửng. Tài nguyên đã rồi rào mà tài năng càng không
thiếu. Học sinh thông minh hiếu học, hàng năm tốt nghiệp các trường đại học phải
kể hàng nghìn chàng trai cô gái ngoan cường nết na, sao dân tộc nói chung còn
nghèo, hàng triệu thanh niên không việc làm ổn định? Do đó tệ nạn sinh ra, sinh
theo nhiều tội ác. Tài năng thì nhiều, dân cần cù lao động tốt sao công nghiệp
ì ạch mãi? Các cậu cử, cô tú cô nghè, ông tiến sĩ thật khối ra đấy mà nay đang
làm gì? Chúng mình cứ thành thực thống kê đi, nghịch lý đến mức nào! Tôi nhớ có
một vị lãnh đạo chính trị cao cấp của ta, có lần đã phải thốt ra bằng cách chơi
chữ về một trong nhiều điều nghịch lý của đất nước:
Thẳng thắn thật thà thường thua thiệt
Lỗi lầm lươn lẹo lại lên lương
(ý muốn phê phán một số cán bộ lãnh đạo chính quyền và kinh tế sợ và ghét bỏ những
người hay nói thẳng mà chỉ ưa những kẻ nịnh hót. Đó chính là điều nguy hại đến
uy tín và sự lãnh đạo của Đảng). Cũng như nhiều bài thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng mỗi
dòng một nghịch lý trong tâm tư và ngoài xã hội:
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
Sống trong những nghịch lý ngoài đời và trong tâm tình, thơ anh vẫn tràn trề
sinh lực, vẫn theo đúng luật trời luật người có lương tâm, thơ anh vẫn đầy nắng
ấm:
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
…
nhưng tôi người cầm bút than ôi
không thể không tin gì mà viết
Tôi được cái may là người bạn quên tuổi của anh từ ngày tôi trở lại Hội Nhà Văn
1988. Tuy trước đấy có biết qua loa về anh do bài hát Làng quan họ quê tôi khá
xúc động. Quê tôi chính gốc là môt làng quan họ Bắc Ninh. Thấy anh gốc ở Nghệ
An lại vì nghệ thuật mà nhận vơ Kinh Bắc làm quê mình, tôi rất vui thích. Các
em ngày xưa hát đùa nhau: Nhận vơ là vợ (thằng) nhân.
Dẫu Trọng Tạo có “nhận vơ” khi đặt tên cho một bài hát đẫm tình yêu quê hương
Kinh Bắc của tôi, thì tôi càng thấy rõ tâm tư anh đúng thật là tâm tư người
Kinh Bắc.
Tên anh là Nhân ư? Bình luận rộng ra một chút, xin phép các bạn, anh đúng là
người quê tôi, chỉ bằng vào giai điệu và lời bài ca nổi tiếng, bài ca được dân
vùng quê tôi đã hát say sưa và còn hát mãi. Là vì nghe quan họ, đọc dân ca, xem
tranh dân gian, nghe truyện cổ tích Việt Nam, những cốt chuyện xuất xứ từ đất
Kinh Bắc xa xưa ta đều thấy tố chất NHÂN – yêu thương con người, yêu thương xứ
sở, một chữ NHÂN lồng lộng sáng, bao phủ cả bầu trời Kinh Bắc hàng bao nhiêu thế
kỷ và lan tỏa ra các bầu trời của toàn cõi Việt Nam, một tố chất duy nhất làm
nên các tác phẩm nghệ thuật của dân tộc. Từ cổ tích nhuốm màu huyền thoại như:
Tấm Cám, Thạch Sanh, Trương Chi, Thánh Gióng, đến các nhân vật huyền thoại có
thật trong lịch sử như Tiên Dung Công Chúa, Mỵ Nương, Mỵ Châu, Như Vương phi Ỷ
Lan, Lý Chiêu Hoàng, Huyền Trân Công Chúa,, Ngọc Hân Công chúa. Sau đến các thi
sĩ lớn Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tôn, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều,
Phạm Thái, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ… toàn là người Kinh Bắc.
Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo rất xứng đáng đứng vào hàng ngũ những người thơ Kinh
Bắc hôm nay. Tôi một đứa con trai Kinh Bắc đến 80 tuổi tự rót chén rượu mừng
cho quê mình có thêm đứa con Nguyễn Trọng Tạo, sau rót chén thứ hai mừng anh Trọng
Tạo kết nghĩa anh em với chúng tôi, những người được đất quê vun trồng, chăm
bón cho thành được một thi sĩ của quê hương nhà Lý khoan hòa nhân ái suốt hai
thế kỷ, mà hương ngát của lòng bác ái, đức nhà Phật còn tỏa dài sắp tới kỷ niệm
1. 000 năm Lý Công Uẩn lên ngôi rồi rời đô ra Thăng Long, đem lại gốc nhân, cây
nghĩa bền chặt và lung linh sáng đẹp đến muôn đời sau.
Để kết thúc đoạn viết hơi xa đề cũng là kết thúc cả hai phần của bài viết về
thơ Nguyễn Trọng Tạo này, tôi lại xin phép tác giả, xin phép các bạn “nhại” câu
thơ trên kia
Thi sĩ đã tin thì không ai không tin
Tháng 7 năm 2.000
H.C