NGUYỄN TRỌNG TẠO - Hiện Tượng Vè Hóa, Văn Xuôi Hóa Và Cũ Hóa Thơ Cần Báo Động

01 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 12468)
NGUYỄN TRỌNG TẠO - Hiện Tượng Vè Hóa, Văn Xuôi Hóa Và Cũ Hóa Thơ Cần Báo Động

nguyentrongtao-dtl-2011-content-content

 

Khi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho

rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián

tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ. Tức là thơ cao hơn ca dao bình

dân. Đó là một điểm rất đáng chú ý trong việc phân biệt thơ với các thể loại văn vần

hay văn xuôi, từ, phú mà dân gian vẫn thường sử dụng. Như ta đều biết, thơ được xây

dựng bằng một thứ “ngôn ngữ lạ hóa” mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc còn gọi là “ngôn

ngữ quái đản” đã phát triển ở giai đoạn cao, chứa đựng các đặc tính không thể thiếu, đó

là nhạc điệu, truyền cảm, hàm súc và giàu tính biểu tượng.

 

Nhưng thời đại thông tin công nghệ phát triển hiện nay, sự ngộ nhận về thơ xuất hiện

nhan nhản trên thế giới ảo (và cả trên những bản in giấy), không những ít được các nhà

phê bình chỉ ra bản chất thật giả của thơ mà còn được các cư dân mạng kém hiểu biết

về nghệ thuật này tung hứng chia sẻ không tiếc lời. Chính vì thế mà sự ngộ nhận về

thơ ngày càng gia tăng hơn bao giờ hết.

 

Một nguy cơ nữa là thị hiếu độc giả thơ ngày càng ngả dần về nhu cầu giải trí, ngại

đọc loại thơ cao siêu bác học mà ưa thích một tinh thần ngộ nghĩnh đùa tếu kiểu dân

gian, nên các loại thơ-vè phát triển rầm rộ như nấm sau mưa. Ta dễ dàng nhận thấy

nhiều bài thơ-vè được truyền tụng và được đón nhận vô cùng nồng nhiệt:

 

Xưa kia da sắt mình đồng

Nói năng hoa mỹ, như rồng phun mưa

Bây giờ như cải muối dưa

Bao nhiêu thần dược vẫn chưa ngóc đầu

Cuộc đời chìm nổi bể dâu

Từ “oanh” đến “liệt” gần nhau thôi mà

Nay mai về với ông bà

Ngồi sau nải chuối ngắm gà khỏa thân!

 

Hoặc:

 

Sáu mươi là tuổi dậy thì

Bảy mươi là tuổi bước đi vào đời

Tám mươi là tuổi ăn chơi

Chín mươi tuổi mới ngước trời xem sao

Một trăm tuổi vẫy tay chào

Các em ở lại, anh vào website…

 

Phải nói, những bài thơ-vè đùa tếu như thế là khá xuất sắc. Nhưng phải chăng đó là

thơ? Có lẽ những người làm thơ, hay người yêu thơ đích thực không ai nghĩ thơ là như

thế. Đó là một hiện tượng xâm thực thơ, đi ngược lại sợ phát triển của nghệ thuật thơ.

Dưới đây, tôi xin đơn cử một số hiện tượng xâm thực thơ cần báo động trong nền thơ

của chúng ta hiện nay.

 

 

 

1. HIỆN TƯỢNG “VÈ HÓA THƠ”


Có lẽ “trường phái thơ Bút Tre” đã tạo được hiệu quả mạnh mẽ vài ba chục năm nay.

Tôi còn nhớ năm 1984 đi cùng nhạc sĩ Văn Cao qua Vĩnh Phúc gặp nhà thơ Bút Tre,

Nguyễn Thụy Kha nói “trường phái Bút Tre địch được trường phái Bùi Giáng trong

nam”. Nay nhìn lại thì thấy trường phái Bút Tre không những “địch đươc” mà còn đang

thắng thế. Thật vậy, làng thơ hôm nay không chỉ có Bút Tre mà còn có cả Hậu Bút Tre:

Bút Tre Trẻ, Bút Tre Xanh, Bút Tre Non, Bút Nứa, Bút Sậy, Bút Luồng,v.v…Trường

phái này được nồng nhiệt đón nhận và ca ngợi không tiếc lời:

 

Tham quan, du lịch, nghỉ hè

Thơ văn trường phái Bút Tre đứng đầu.

 

Và khẳng đinh:

 

Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi

Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre…

 

Vẫn biết văn học dân gian vô cùng đa dạng và thông mình, hóm hỉnh, nhưng văn học

dân gian và văn học viết là hai phạm trù khác nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Dù có tạo ra

những ảnh hưởng không dễ phân biệt, nhưng không bao giờ chúng chồng khít lên nhau.

Bởi văn học dân gian sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ “thực dụng”, còn văn học viết sử

dụng ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện trong văn xuôi, hay ngôn ngữ “lạ hóa” trong thơ.

 

Điều dễ thấy hiện nay là ngôn ngữ thực dụng đang lấn át, xâm thực thơ không thương

tiếc, nó hăm hở biến thơ thành hò vè hay văn xuôi có vần.

 

Nhà chị công nhân

Nửa tôn nửa ngói

Nhà mẹ anh hùng

Nghĩa tình xây mới…

 

Những loại thơ như thế, nó kéo thơ xuống với ngôn ngữ quần chúng bình dân mà hơn

nửa thế kỷ trước các nhà thơ đã thi đua “lột mình” phục vụ đại chúng, để rồi sau đó

nhiều người thức tỉnh với nhóm “nhân văn giai phẩm” nhằm làm một cuộc cách mạng

thơ… bất thành vì những định kiến chính trị. Riêng điều này thì nhóm Sáng Tạo ở Sài

Gòn lại sớm nhận ra, và họ cũng đã có một số đóng góp nhất định để đẩy lùi dần ngôn

 

ngữ thơ thực dụng nhan nhản một thời. Đó là sự trả giá cho những non nớt trong quan

niệm nghệ thuật phục vụ chính trị theo hướng đại chúng.

 

Ngày nay, những người thơ đích thực không còn ấu trĩ như xưa, nhưng chính đời sống

dồn nén của kinh tế thị trường nửa mùa đã khiến đại bộ phận công chúng lơ là thơ phú,

và thị hiếu của họ bị bào mòn, chai cứng với thơ, nảy ra nhu cầu giải trí “mì ăn liền”,

khiến không ít nhà thơ hạ mình mua tiếng vỗ tay giá rẻ. Còn những “nhà thơ nghiệp

dư” viết thơ theo cảm tính thì ngộ nhận giữa thơ và vè, cũng góp một phần không nhỏ

vào công cuộc “vè hóa thơ” trên khắp thi đàn. Vì thế mà cánh đồng thơ cỏ nhiều hơn

lúa, cỏ lấn át lúa, cỏ đè bẹp lúa để mang về cho thơ một mùa thơ-vè cỏ dại… Tôi có

thể dẫn ra nhiều bài thơ-vè, nhiều tập thơ-vè… nhưng có thể không dẫn ra thì nhiều

người cũng đã biết. Vấn đề quan trọng là chúng ta, cả người làm thơ và người đọc thơ

phải ý thức sâu sắc rằng, nguy cơ “vè hóa thơ” đã và đang diễn ra với một cường độ

mạnh, cực mạnh rất đáng báo động.

 

 

 

2. HIỆN TƯỢNG “VĂN XUÔI HÓA THƠ”

 

Không kể thời tiền sử sáng tạo ra lối kể chuyện thơ, thì thơ văn xuôi đã xuất hiện từ

thế kỷ XIX ở phương Tây. Mãi đến cuối thế kỷ XX, câu chuyện thơ văn xuôi vẫn còn

được tranh cãi nảy lửa. Theo một ý kiến được ủng hộ của Jean Claude thì “Bài thơ

văn xuôi được cô đúc bởi đối tượng hỗn hợp và bất xác tín của ngôn ngữ thơ, trong

khi đó, văn xuôi biến đổi đối tượng tiềm tàng (cô đúc) của nó để đặt nó vào cái thực

tại hỗn hợp. Thơ xóa sạch mọi dấu vết hay dấu mốc nhận dạng, trong khi văn xuôi,

ngược lại, nhân chúng lên gấp bội, bắt ốc vít bù loong chúng vào nhau thật chắc”. Nghe

có vẻ phức tạp thế, nhưng cũng không khó hiểu, bởi thơ có đặc trưng của thơ và văn

xuôi có đặc trưng của văn xuôi. Phân biệt các lãnh địa này, nhà ngôn ngữ Nguyễn Phan

Cảnh cũng viết: "Tạo hình chủ yếu là vương quốc của văn xuôi nhưng có một khoảng

trời giành riêng cho sử thi và thơ ứng dụng, còn biểu hiện trước hết là lãnh địa của thơ

nhưng lại cắt một phần đất cho văn xuôi trữ tình".

 

Tôi đồ rằng nhiều nhà thơ “hiện đại” của ta chưa hiểu thấu điều đó, nhưng đã vội vàng

nhảy vào thơ văn xuôi với những trường phái tân hình thức, hậu hiện đại của Tây của

Mỹ nên đã mang đến một hậu họa cho thơ mà lại ngộ nhận rằng, mình đang song hành

cùng thơ đỉnh cao thế giới. Tôi đã đọc nhiều thơ văn xuôi của các nhà thơ ta cả trẻ lẫn

già, và tôi thử nối lại các xuống dòng, thì thấy hầu hết đều là văn xuôi chứ không phải

thơ, thậm chí lại còn lủng củng hơn cả văn xuôi. Ví dụ một đoạn thơ, tình cờ tôi mở ra

trên bàn viết: “Anh bế em lên như bế cả con sông Hồng phù sa trần truồng tràn ra biển

lớn một mùa màng phì nhiêu còng bóng mẹ gieo gặt. Những vì sao thiên hà rơi đầy mắt

em mắt anh ướt lòe ánh sáng xua bóng đêm đè xuống vai ta rần rần châu thổ. Anh đi đây

những thiên hà đang vẫy gọi anh…”.

 

Với lối nói ngoa ngôn mê sảng như vậy, nhà thơ có thể giết chết cả ngàn trang giấy mà

chả biết để làm gì. Nhiều nhà thơ trẻ, nhà thơ già cũng đã được phủ dụ, ru ngủ bằng

những trang văn xuôi như vậy mà tưởng mình là tiên phong thi sĩ . Ở đây phải tỉnh táo

mà nhận ra rằng, văn xuôi đang xâm thực thơ vô tội vạ. Đó chính là hành động “văn

xuôi hóa thơ” hiệu quả nhất.

 

Không ai bắt mọi nhà thơ Việt đều phải viết thơ lục bát, dù lục bát là một thể thơ đã

thấm vào hồn cốt dân tộc Việt. Nhưng làm được một câu thơ lục bát cho đúng vần đúng

điệu đối với một số nhà thơ là không phải dễ, chứ chưa nói đến việc làm một câu lục

bát hay để đời. Ngược lại, không phải nhà thơ nào cũng làm được thơ văn xuôi hiện

đại, hậu hiện đại ngoa ngôn mê sảng như không ít người thiêu thân vào loại thơ này

trên thi đàn nhân danh cách tân đổi mới. Nói vậy, tôi không nhằm phán xét những bài

thơ văn xuôi hay hay dở, mà muốn cùng các nhà thơ nhận chân bản chất của thơ dù nó

thuộc trường phái nào, cổ điển hay hậu cổ điển, hiện đại hay hậu hiện đại; đồng thời

cũng báo động cho những ai đang đeo đuổi loại hình thơ văn xuôi hãy cảnh giác với sự

dễ dãi, phô trương hình thức. Thực ra các thể loại, các trường phái không có tội, mà tội

lớn là sự thiếu hiểu biết, sự ngộ nhận non nớt của nhà thơ trước ma trận của cái mới

luôn mai phục ở phía trước.

 

 

 

3. HIỆN TƯỢNG “CŨ HÓA THƠ”

 

Năm 1990, trong một cuộc trò chuyện tâm đắc với nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến

về thơ, anh có một nhận định vô cùng bất ngờ thú vị đối với tôi: "Thơ trước hết phải

mang tới một cái gì khác cổ điển (trước nó), nhưng chỉ có khác thì khó đọc, mà chỉ có

cổ điển thì đọc thấy nó tẻ. Thơ nào đọc thấy khang khác mà vẫn phảng phất cổ điển thì

đấy là thơ đích thực mang tới giá trị mới. Nhưng cái khác ở thơ thật khó giải thích rõ

ràng, có khi người ta chỉ cảm được nó mà thôi”.

 

Tôi nghĩ, nhận định của anh Hoàng Ngọc Hiến là rất thận trọng và mới mẻ. Giới ghiên

cứu, phê bình chưa thấy ai nói thế. Người làm thơ chắc cũng ý thức mơ hồ về điều đó,

nhưng đến khi nghe anh Hiến nói thì mới ngẫm lại mình, và thấy đó là một nhận định

thật sáng giá.

 

Có một thực tế là những nhà thơ cách tân thường chạy theo cái mới, cái lạ, cái độc đáo

chưa từng có, như muốn cắt đứt với quá khứ. Nhưng nghệ thuật lại có ký ức của nó.

Ngay cả khi anh muốn làm một cuộc bạo động chữ thì cũng không thể cắt đứt với ký

ức ngôn ngữ của chính nó. Còn khi anh đã cắt đứt hoàn toàn với ký ức nghệ thuật thì

chính anh sẽ rơi vào khoảng chân không, xa rời ký ức của con người, và như vậy thì chỉ

tạo ra những tác phẩm hoàn toàn xa lạ với cuộc sống. Đó chính là sự thất bại mà nhiều

nhà cách tân cực đoan đã mắc phải.

 

Ngược lại, nhiều nhà thơ lại chỉ viết theo bản năng mà ít chú trọng đến sự nghiền

ngẫm về văn hóa thơ quá khứ và hiện tại của nhân loại, nên cái anh tưởng là mới lạ

lại hóa ra thành cũ kỹ đến sáo mòn. Đó là căn bệnh phổ biến của thơ ta gần đây. Nhan

nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải thưởng, trên quầy sách,

trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân. Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt

thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi thải của quên lãng. Có người biết

điều đó, và họ khẳng định họ không làm thơ mà chỉ ghi lại những cảm xúc cá nhân, in

ra làm kỷ niệm. Nhưng cũng không ít người say mê với nó và tưởng mình không thua gì

Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số độc giả khen vuốt ve trên mạng ảo…Đối

tượng này nhiều vô kể, thậm chí có thể che lấp cả những giá trị thơ đích thực không

phải lúc nào cũng có. Đây cũng là nguyên nhân xói mòn giá trị của thơ, khi nó trở thành

hiện tượng “cũ hóa thơ”.

 

Tóm lại, những hiện tượng xâm thực thơ như đã kể trên là hoàn toàn có thật, nó đang

diễn ra hàng ngày chung quanh ta. Đó là những hiện tượng ăn lấn, xói mòn và hủy

hoại sự phát triển của thơ trong một thời đại mà “người người làm thơ, nhà nhà làm

thơ” rầm rộ khắp hang cùng ngõ hẻm. Để thay cho lời kết, tôi xin dẫn hai câu lục bát

của “Hậu Bút Tre” Bảo Sinh, cũng là tâm trạng của tôi khi viết bài này:

 

Đêm nằm nghĩ mãi không ra

Tại sao thằng ấy lại là nhà thơ?

 

Hà Nội, 9.2011

 

Nguyễn Trọng Tạo

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Mười Hai 201312:00 SA(Xem: 7694)
Tính tôi rất tò mò, mỗi khi nghe tên ai dính đến Hàn Mặc Tử, tôi muốn tỏ tường về những người đàn bà của nhà thơ giàu ngôn ngữ tình yêu nhưng nghèo sức sống này lắm
02 Tháng Mười Hai 201312:00 SA(Xem: 6665)
Cả một dân tộc, một đất nước đã từng là nô lệ. Bị nhốt chung trong cái cũi khổng lồ ấy nào là những nông nô, công nô, binh nô, trí nô và vân vân nô
25 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 8188)
... sự ra đời của Lửa Thiêng đã khẳng định một ngôi vương của ông trên thi đàn, bởi xét về tính hoàn chỉnh thì đây là tập “chín” nhất thời đại .
15 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 9053)
Năm 1991, sau khi công bố phát hiện Vương Bột tử nạn nơi nào !? ở báo Văn Nghệ, nhà thơ Hữu Thỉnh lúc đó là Tổng biên tập của báo đến nhà chúng tôi ở Sài Gòn chơi
12 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 9937)
Khi tôi sinh ra, đất nước đã chia đôi. Lớn lên, tôi yêu mến miền Nam nhưng cũng nhớ thương miền Bắc. Lạ. Người ta có thể nào nhớ một điều mà mình không biết?
04 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 7282)
Tôi viết bài tham luận nhỏ này trong tâm thế người trong cuộc. Vì thế, nếu có chút ít phê phán đối tượng văn học trẻ, thì đấy cũng là chính tôi đang tự phê phán chính mình
25 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 8185)
Nam Cao rất có tài, rất có tâm, song chưa thể là nhà văn tầm cỡ. Riêng điều ấy đã là một nỗi buồn lớn!
23 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 23934)
Ngay từ khi xuất hiện trên Thi đàn, và lúc trở thành một trong Bát Tú (của Tự Lực Văn Đoàn) - người yêu thơ Xuân Diệu cứ vương vấn câu hỏi
18 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 8851)
Đã 45 năm nhưng có những kỷ niệm vẫn như in trong đầu, tưởng chừng như vừa mới xảy ra…
30 Tháng Chín 201312:00 SA(Xem: 5805)
Tôi cũng như nhiều đứa trẻ lớn lên ở vùng quê hẻo lánh nghèo nàn thời chiến tranh chưa từng được cầm lồng đèn tung tăng rước qua đường phố những đêm trăng rằm Trung Thu
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17053)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12263)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18994)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9176)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8348)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 610)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 983)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1173)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22470)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14005)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19182)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7900)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8817)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8502)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11067)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30718)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20818)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25516)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22912)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21735)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19791)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18058)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19257)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16925)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16116)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24508)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31959)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34936)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,