Mỗi sáng sớm thức dậy tôi vẫn ra trước hiên, ngồi nhìn ra ngoài suối, chờ. “Hôm nay giọng con nào sẽ hót trước ?” Tôi và người hàng xóm duy nhất là nhà thơ Triệu Từ Truyền vẫn đố nhau như vậy.
Thường thì con chim khách đuôi dài xanh đen vẫn về chuyền lần lượt qua cả các cây của hai nhà, nhưng lại chọn một nơi để “hót” lên rằng: “khách… khách…”
Hai Nhà thơ Võ Chân Cửu và Nguyễn Lương Vỵ
Chim kêu để khẳng định chủ quyền và gọi bạn tình, nhưng chúng tôi sẽ vui mừng. Một nhà sẽ được ưu tiên sắp xếp để đón khách. Khi có tiếng loài chim này kêu thì mười bữa như chục không hề sai. Rằng sẽ “có khách…có khách !”. (Có những ngày chim khách không đến sớm, thay vào đó là dáng con bìm bịp. Nó về đậu, lặng im xòe cánh ra như điệu vũ. Và chúng chỉ kêu lên khi chiều xuống. Bìm bịp kêu nước lớn ai ơi !)
Hôm nay không phải chim khách kêu, nhưng tôi lại không buồn. Vì gần hết năm lại nhận được tin của một người bạn đang ở phương xa: Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ. Anh báo đang chuẩn bị xuất bản tập thơ thứ 8 vào tiết xuân 2014:“Những hòa âm, huyết âm, tinh âm, huyền âm đã bay về mở hội trong Năm Chữ Năm Câu”.
Chị chim bìm bịp hay chú chim khách đã giúp tôi hiểu thêm về loài chim cũng như con người, nhất là các nghệ sĩ. Vạn vật thường say mê, quyến rủ từ một trong 2 thứ, là màu sắc hoặc âm thanh. Nếu có được cả hai, thì đó là một tuyệt tác. Chỉ có ngôn ngữ của thi ca mới thể hiện được điều ấy!
Nguyễn Lương Vỵ in tập thơ đầu tiên có tựa đề “Âm Vang Và Sắc Màu” (NXB Trẻ -1991.) Khi đó anh đã 39 tuổi, một bước nữa là đến thời kỳ “nhi bất hoặc - hết nghi ngờ viễn mộng”. Thì ra ấy là sự lựa chọn. Nói đúng hơn là cái “vận” đã về, mãnh liệt hơn trước. Anh được công nhận là nhà thơ từ những tháng năm còn rất trẻ. Bài đầu tiên đăng trên Bán nguyệt san Văn năm 1969 đã rất nổi tiếng, đến nay nhiều người còn nhớ. Khi đó anh mới 17 tuổi, đang phải bỏ quê, vào sống ở Quy Nhơn.
Nửa Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng
Lung linh hồn quê cũ
Mây trắng phủ khắp
trời
Nhớ trăng khô hết
máu
Muôn trùng dặm núi
ơi!!!
Khi ấy bài thơ được nhiều người thuộc, là vì cả nước đang trong cuộc chiến. Trong văn đàn Miền Nam, sự va chạm giữa các luồng tư tưởng cũng như sự tìm kiếm của các trường phái thơ ca đang đến hồi cao độ. Các anh “hiện thực” luôn phê phán các cây bút “viễn mơ”. Những cây bút “cơ hội” vẫn thường quy chụp anh này anh nọ là “ăn tiền” từ văn hóa Mỹ hay “phát ngôn” cho “Mặt trận”.
Bài thơ Nguyễn Lương Vỵ thì không nhắm vào những điều ấy. Anh đang chịu nỗi đau phải xa nơi chôn nhau cắt rốn (Quán Rường, Tam Kỳ-Quảng Nam), nhưng lại nhớ đến cái vầng trăng đang “khô hết máu” ! Chỉ những nhà thi sĩ mới có thể liên tưởng đến nỗi đau của kiếp người, hóa thân nó vào một hình hài vũ trụ, lại kết thúc bằng tiếng than cho “muôn trùng dặm”. Tứ và thể loại của bài thơ không mới; có khi tác giả lại có xu hướng trở về cách diễn đạt và hình thức cổ điển, nhưng làm người đọc cảm được nỗi đau của thời thế lẫn số phận nhỏ bé của con người!
Nói gọn, đó là một bài thơ hay. Và mặc dù khá thân với tác giả, nhưng phải đến khoảng 40 năm sau, qua một tiết lộ trong bài viết của nhà thơ Du Tử Lê, tôi mới hiểu được vì sao Vỵ luôn ám ảnh hình tượng của máu khô, huyết khô. Sống bên nhau, làm thơ cùng thời, nhưng Nguyễn Lương Vỵ luôn cố tình giấu nỗi đau của mình. Cha anh là một trí thức yêu nước bị bức tử man rợ khiến người vợ (là mẹ anh) đã đau đớn tột cùng, nhưng vẫn nhẫn nhục thờ chồng, nuôi 5 người con ăn học thành tài. Nỗi đau ấy về sau không bị anh quy chụp vào một thế lực chính trị nào, mà lại biết nhìn rộng hơn, xa hơn, nhân bản hơn…
Năm 2000, Nguyễn Lương Vỵ cho in tập thơ thứ 2 tên “Phương Ý” (NXB Thanh Niên, Hà Nội) trước khi rời hẳn quê nhà để sang sống nơi xứ người. Tập thơ ghép 2 tên rất thân yêu của Vỵ là tên con gái út và người cha ruột, có nhiều chỗ vẫn đầy ám ảnh hình tượng máu khi anh biết sắp sửa đi xa, như bài:
Xa Xôi
Thơ khắc trên ngực
đá
ghe máu bầm trên
cao
Xa xôi hay máu đã
Đất với trời
thâm giao…
Nhận ra “đất với trời thâm giao”, để rồi sau tập thơ đầu tiên in ở Mỹ năm 2007 có tên “Hòa Âm Âm Âm Âm…” (NXB Thư Ấn Quán – USA,) năm 2008 anh cho ra đời thi tập thứ 4, mang tên “Huyết Âm”, gồm 81 bài thơ không đề.
Bài thứ 29:
Những dấu huyết
từ rất lâu trong đá
Cuồng âm mưa
Điên sắc nắng
Không lời
Không tiếng nói
Đá rền câm gót
ngựa
Bờm hư không
Gió huyễn ảo
Sóng đôi…
Trong tác phẩm thứ 4 là tập thơ “Huyết Âm”, Nguyễn Lương Vỵ đã ngẫu nhiên nhắc các nhà thơ “thời thượng” ở Việt Nam và ở Mỹ cần biết về diễn tiến của dòng thi ca Miền Nam. Lúc đó họ đang xưng là những nhà thơ “đương đại”. Thực ra những bài thơ có câu chữ kết cấu theo kiểu tự xưng là “tân hình thức” đã được anh và nhiều nhà thơ trong nhóm “Tập san Văn Chương” sử dụng ở Sài Gòn khoảng 1972-1975. Nếu quá thiên lệch vào tìm kiếm chữ nghĩa hoặc âm điệu, nhà thơ dễ sa lầy vào chủ nghĩa hình thức. Ở Mỹ, nhiều năm Nguyễn Lương Vỵ “vật vã” với “âm… âm…”. Nhưng anh đã cố tình hóa giải nó qua hình thức thể hiện. Bằng cách sử dụng các thể thơ mang hơi hướm cổ phong của tâm hồn “Việt Thi”.
Nếu chịu khó đọc các tác phẩm văn học chữ Nôm từ thời Hàn Thuyên mở cửa, người đọc sẽ nhận ra và yêu quý những trăn trở của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ. Ngôn ngữ Việt Nam thuộc hệ tiếng đơn âm nhưng rất giàu nhạc điệu vì rất nhiều chữ điệp âm, có rất nhiều chữ vừa là trạng từ, vừa là tĩnh từ, lại vừa làm một tán thán từ!
Cách dùng từ của Nguyễn Lương Vỵ:
Em ơi trăng dịu
dịu
Ảo ảo
ngợp hồn ta…
(bài Nguyệt III, trang 180 thi tập Tinh Âm, 2010)
Hoặc như bài:
Muối Hát
Đồng không
thì mông quạnh
Em không thì quá
lạnh
Muối hát trong lòng
tay
Kết tinh lời mây
bay…
(Thi tập Tinh Âm, trang 144)
Tôi không có ý định bình giảng về thi pháp hay thi điệu, chỉ muốn bày tỏ nỗi lo nếu một thi sĩ quá sa lầy vào việc tìm chữ, chơi chữ. Bỡi lẽ khi đó, hồn thơ dễ bị“để sang một bên”. Người ta dễ cho là Nguyễn Lương Vỵ khá chấp vào hình thức. Vì sau “Tinh Âm” anh liên tiếp xuất bản các thi tập “Bốn câu Thất Huyền Âm” - 2011; “Tám Câu lục Huyền Âm” - 2013; và giờ đây, sắp sửa ra mắt “Năm Chữ Năm Câu”…Nhưng hình như không phải vậy. Chấp nhận sự ràng buộc của niêm luật để tự thoát ra khỏi nó một cách điệu nghệ bằng sự giàu có của nhịp điệu ngôn ngữ thơ mà mình sở hữu. Đó không phải là điều mà ai cũng có thể làm được!
Thể thơ 6 chữ là một sáng tạo của thi ca chữ Nôm, khởi đầu từ thi hào Nguyễn Trãi (1380-1442). Có người nói rằng đó là tổng hòa giữa các bài “thất ngôn bát cú” theo luật Đường Thi và thể thơ Lục Bát của Việt Nam. Đáng lưu ý là ngôn từ trong các bài thơ 6 chữ xưa nay đều rất trong sáng, dễ hiểu. Cuối 2012, tôi có 2 tháng sang Mỹ sống với Nguyễn Lương Vỵ. Khi về lại quê hương, tôi xúc động nhận được bài thơ anh gửi tặng:
một mình
1.
mở mắt lại thấy
chiêm bao
thấy đêm xanh thẳm
rì rào
khuya hoan hỉ nên
khuya thức
bóng hàm ơn nên
bóng chao
chuyện vãn một
mình lúp xúp
tâm tình muôn nẻo
lao xao
còn may lắm đêm
xanh nhỉ
một vuông trời một
chấm sao…
2.
một chớp nháy một
niềm trời
hạt bụi bay lang
thang chơi
vết hằn xoáy theo
trốt gió
niềm thương tít
tắp trùng khơi
rạch một âm sâu
nhớ bạn
gõ vài phách lạnh
đau đời
năm với tháng chìm
trong ngực
mở lời thưa một
tiếng thôi…
3.
rằng niềm trời
thức đã lâu
rằng chiêm bao tự
sơ đầu
giọng nói truông
ngàn vọng mãi
tiếng tru rừng rú
mong nhau
xa xa ngái tình hôm
trước
trầm trầm hoài
nghĩa bữa sau
gom hết bóng đời
trọn gói
tặng đêm xanh mượt
vút mau…
Con chim khách kêu rằng Nguyễn Lương Vỵ đang sắp sửa in tập “Năm Chữ Năm Câu”. Liệu đây có phải cách chơi chữ của nhà thơ này? Thơ Việt Nam “ngũ ngôn tứ tuyệt” nằm trong thể Đường Luật xưa nay đã có nhiều bài hay và nổi tiếng, trong đó có Nửa Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng” đã trích dẫn ở đầu bài. Nay ông làm thêm câu thứ 5 để kết thúc bài. Liệu đó có phải là kiểu kết thúc như những bài thơ 3 câu của thế Haiku Nhật Bản? Tôi chưa dám kết luận vì hồn thơ Haiku rất không giống với hồn thơ Việt Nam. Chỉ xin mạn phép đưa ra một bài không đề trong tập sách anh sắp xuất bản để các bạn thơ cùng thưởng lãm:
đếm ngàn sông trên
lá
lá ngu ngơ thở dài
thời gian phai nhanh
quá
lá chỉ nhớ một
vài
giọt sương tan ban mai…
Tôi cố tình tự ý cách đoạn câu thứ 5 thay cho kiểu viết liền của tác giả, để nhấn mạnh đến nghệ thuật kết thúc bài thơ. Tôi nghe đâu đó, có bạn viết rằng câu thơ thứ 5 là “một cú nhảy sau cùng” của Nguyễn Lương Vỵ. sự ví von ấy dễ gây ra hiểu lầm, rằng anh đã cố tình “dụng công” để tạo ra những bài thơ “ngũ tuyệt” Việt Nam! Chắc không phải như vậy đâu. Vì nếu quá dụng công thì chẳng nên thơ. Mà bài thơ “ngũ tuyệt” được trích dẫn trên đây lại rất đầy thi vị.
Sáng nay trên ngọn cây bên dòng suối trước nhà, hình như chúng tôi nghe con chim khách kêu lên trước tiên…
Bảo Lộc, 12.2013
-----------
* Một chương trong tập tạp bút “Mặt Tiền Nghệ Thuật” sắp xuất bản.