dutule.com (ngày 3 tháng 1 – 2013): Cơ sở xuất bản Q&P ở California, một lần nữa, lại gửi tới những người yêu thơ, thi phẩm “Năm Chữ Năm Câu” của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ. Như hồi chuông thi ca gióng giả chào đón tân niên 2014. Nếu không kể những tác phẩm đã được xuất bản tại VN thì, chỉ trong vòng 7 năm (từ 2007 tới 2014), họ Nguyễn đã mang đến cho những người yêu thơ ông, 6 thi phẩm. Sự kiện này cho thấy, nội lực sáng tạo cực kỳ sung mãn nơi ông. Một hiện tượng rất hiếm thấy nơi những tác giả đã bước qua tuổi “tri thiên mệnh”.
Mỗi thi phẩm của họ Nguyễn, theo tôi, tựa một tiếng thét hay tiếng gầm, hống thống thiết của một hành giả cô đơn, đau đáu niềm thương đời, thương người khởi tự niềm quá đỗi thương thân…
Mỗi thi phẩm của họ Nguyễn, theo tôi, không chỉ là một nỗ lực đẩy chữ, nghĩa tới những chân trời mới, lạ mà, chúng còn là những nỗ lực xô rộng cánh cửa tâm thức, thậm chí, cánh cửa vô thức. Để mặt bí nhiệm, bên kia đời sống, hiển lộ như những tia chớp giao thoa giữa đôi bờ sinh / tử.
Chữ và nghĩa của họ Nguyễn trong thi phẩm mới nhất này, vẫn theo tôi, cũng là những giao thoa cay nghiệt giữa chân / giả; mất / còn; ly / hợp … Giữa vực sâu và đỉnh cao. . Giữa huyền hoặc và hiện thực. Giữa trăm năm và khoảnh khắc…
Thêm nữa, cũng ở thi phẩm “Năm câu năm chữ” mới nhất này của họ Nguyễn, nơi phần bạt, cuối sách, người đọc còn được thưởng lãm hai bài viết như hai tiểu luận công phuvề cõi giới thi ca Nguyễn Lương Vỵ từ góc nhìn đồng cảm, tri âm. Đó là nhận định của Tô Đăng Khoa và nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. (Nhà thơ nữ, gần đây, có nhiều bài thơ được giới thưởng ngoạn yêu thích).
Sau đây, chúng tôi trân trọng kính mời bạn đọc, thân hữu bước vào thi phẩm “Năm chữ năm câu” qua lăng kính của tác giả Tô Đăng Khoa. Một người trẻ, nhưng đã sớm có những lao tác kỳ khu, đào, xới cõi u minh, để kiếm tìm “bản lai diện mục”, như họ Nguyễn…
(Riêng bài viết công phu của Nguyễn Thị Khánh Minh, chúng tôi trộm nghĩ, xin dành cho những người có trong tay “Năm chữ năm câu” của Nguyễn Lượng Vỵ, như một quà tặng tinh thần riêng, gửi độc giả).
*
“Tô Đăng Khoa
‘Nguyễn Lương Vỵ Thơ Năm Chữ Năm Câu và Cú Nhảy Sau Cùng Vàng Câm Trên Bến Lạ.
“Khi nói một bài thơ hay và đẹp, không thể chỉ dựa trên cảm tính suông của người đọc, bài thơ đó phải được biểu lộ qua văn tự, chữ nghĩa, và cấu trúc của chính nó. Đến lượt văn tự chữ nghĩa và cấu trúc của bài thơ lại đuợc phơi bày qua tâm ý, và kinh nghiệm sống của người sáng tạo. Và tâm, kinh nghiệm sống đó lại được làm cho hiển lộ qua phẩm cách, lối sống hàng ngày của chính tác giả. Đó chính là nền tảng của một bài thơ hay và đẹp, tức là chính đời sống hàng ngày của người sáng tạo. Nói cách khác, trên đỉnh cao nghệ thuật, nơi mà tính sáng tạo thăng hoa, tác giả và tác phẩm hài hòa đồng nhất. Chính Bùi Giáng cũng có nói đến mối liên hệ này trong hai câu thơ bâng quơ sau:
“Không tự
mình bước tới bờ hương chín
Thì cõi mật
không tụ về trong trái”
“Nếu tác giả không trải qua tiến trình nhiều năm tu Tâm tu Chữ, không ‘tự mình bước tới bờ hương chín,’ thì sẽ không thể có được cái nội lực cần thiết để điều khiển văn tự chữ nghĩa, hay những con Âm, cơn dâng trào ý tứ, mà phơi bày chúng trong các tác phẩm của mình.
“Nói cách khác, tác giả nếu không thể chạm tới được cái ‘cõi mật’ thì làm sao có thể đưa cái tinh thần sáng tạo vô ngôn ấy vào tác phẩm một cách tự nhiên được.
“Nhưng mà ‘bờ hương chín” là gì? Vì sao phải “tự mình bước tới’? Nghe người khác mô tả về nó, nhưng không ‘tự mình bước tới’ thì có ích gì chăng? ‘Cõi mật’ là cõi nào? Đã đến rồi có gì còn mật nữa chăng? ‘Cõi mật’ ấy tụ về trong trái, tiến trình ấy là tự nhiên hay cưỡng cầu? Đâu là thái độ đúng đắn đối với văn học nghệ thuật? Xin thả lửng những câu trả lời vào cõi chiêm niệm riêng tây, chỉ biết rằng trong tập thơ mới nhất của Nguyễn Lương Vỵ (NLV) - Thơ Năm Chữ Năm Câu, ông đã có mùa thu hoạch lớn: Vì trái ở đây rất mật và rất lạ.
“Đối với tôi, là độc giả lâu năm của thi sĩ NLV, ông là người sống rất khép kín, gần như độc cư. Ông sống rất nặng tình với Thơ, với từng con Âm, con Chữ. Hầu như trong tất cả các tập thơ trước của NLV, chúng ta đều thấy có chữ ‘Âm’ trong đó. Sau một thời gian dài độc cư tu Tâm, tu Âm và tu Chữ, trong tập thơ mới này, với cấu trúc 100 bài năm câu năm chữ, NLV đã thâu hết nội lực, thực hiện ‘bước nhảy sau cùng’ ở câu số năm để tự mình bước tới ‘bờ hương chín.’ Nơi đó, những bài thơ của ông hóa thân thành búp hoàng lan ‘vàng câm trên bến lạ’ khiêm cung bên ghềnh đá ven đường. Thân mang kiếp mỏng manh vô thường, nhưng hát bài ca thiên thu vô ngôn. Những con âm kiên khổ chấp nhận sự ngộ nhận nhất thời vẫn ‘gói ghém gửi sơ đầu’ để mà ‘hy vọng còn gặp nhau’ nơi bờ hương chín!
“Kết quả tức khắc của việc ‘tự mình bước tới bờ hương chín’ là nhãn quan sẽ thay đổi, cái thấy và cái nghe sẽ không còn như trước đây nữa. Lưới nghi ngờ rách tung trong cái nhận thức trọn vẹn về “có-không thiệt rốt ráo”:
nhìn trong
thơ thấy đạo
nhìn trong đạo
thấy thơ
nhìn trong
thơ thấy gạo
nhìn trong gạo
thấy mình
có-không thiệt
rốt ráo…
(Bài số 1.)
“Trong cái nhãn lực ‘có-không thiệt rốt ráo’ tức là ‘tri bất hoặc’ đó, tác giả đồng thời ‘tri thiên mệnh’ và nhận ra căn bệnh trầm kha của con người, đó chính là lời nói, ngôn ngữ, và văn tự:
nhìn trong em
thấy mệnh
nhìn trong mệnh
thấy đời
nhìn trong đời
thấy bệnh
nhìn trong bệnh
thấy lời
lời lôi âm rù
quếnh…
(Bài số 2.)
Ôi lời lôi âm
rù quếnh! Bản chất đích thực của ngươi là gì?
Là rù rù, ru
con người ngủ trong giấc ngủ si mê?
Là keo quyếnh,
siết chặt con người trong tham ái?
Là lôi âm,
dìm con người trong thịnh nộ của cơn sân hận?
“Nếu chưa tới ‘bờ hương chín,’ thì con Âm con Chữ chính là hiện thân của tham sân si, là hàng rào cản ta tiếp xúc với cái thực tại nhiệm mầu với trí tuệ ‘có-không thiệt rốt ráo.’ Nếu đã tự mình bước tới bờ hương chín, thì ngôn ngữ văn tự cũng chính là dòng chảy tuôn tràn của tuệ giác và tính sáng tạo.
“Ngôn ngữ bản tính là nhị nguyên vì nó mang ý nghĩa quy ước và chế định. Con người cần nhị nguyên, quy ước và sự chế định để thông tin với nhau một vài điều cần thiết một cách rõ ràng minh bạch. Tuy nhiên, ngôn ngữ có giới hạn của chính nó. Vì có rất nhiều điều không thể diễn tả được bằng lời. Đây là giới hạn tất yếu của nhị nguyên. Vượt qua giới hạn này là cõi tịnh lự vô ngôn, đòi hỏi tác giả và độc giả phải thực hiện ‘một cú nhẩy sau cùng,’ bỏ lại sau lưng tất cả khái niệm.
“Nhưng làm sao có thể mô tả lại cái gì xảy ra sau ‘cú nhảy sau cùng vàng câm nơi bến lạ’?
“Vì bất cứ sự mô tả nào khi đó đều đòi hỏi sự trở lui lại thế giới khái niệm của ngôn ngữ! Đó chính là tính sáng tạo của NLV bàng bạc trong rất nhiều bài thơ trong tập thơ này. Ông dùng tuyệt chiêu và nội lực thâm hậu tu Chữ, tu Tâm rất lâu năm của ông để chứng minh sự bất lực của ngôn ngữ, dầu là ngôn ngữ rất thâm hậu của NLV. Phủ định bất cứ nỗ lực dẫu phi phàm đến đâu để thoát ra khỏi nhị nguyên bằng ngôn ngữ, chính là xác định giới hạn của chính nó, tức là cũng qua đó gián tiếp khai mở cho sự chiêm nghiệm trong tịnh lặng về cái không thể diễn tả được bằng lời. Qua bút pháp lô hỏa thuần thanh của mình, NLV đã làm điều đó thật tài tình qua những bài năm chữ năm câu, vừa trong sáng tự nhiên, vừa đạt tới đỉnh cao nghệ thuật:
mười ba năm
xa xứ
cuộc lữ cũng
vui thôi
xúc tuyết
nghe tuyết hỏi
chưa kịp đáp
tuyết rơi
lấp trắng hết
tiếng nói…
(Bài số 47.)
“Tuyết rơi lấp trắng hết tiếng nói, xóa sạch mọi vết tích của khái niệm, cho nên cuộc lữ không vui cũng không buồn (dầu phải làm nghề xúc tuyết rất cực nhọc để độ thân,) mà cuộc lữ thì ‘cũng vui thôi.’ Một thái độ rất bình thản của ‘người thõng tay vào chợ’ từ miền hương chín.
nghe âm Ư rên
khẽ
hạt bụi bay
khóc ré
hạt nắng bay
hát vang
thơ mần ta nữa
nhé
kẻo mai kia lạnh
tràn…
(Bài số 18.)
“Âm Ư rên khẽ,” khóc cho thân phận cát bụi của con người. Trong không gian, hạt bụi thì khóc ré, sợ phải khổ lụy vì mai đây sẽ mang hình dáng con người? Trong khi hạt nắng, tượng trưng cho sự soi sáng của trí tuệ vẫn đang hát vang. Tác giả cảm nhận được tất cả điều đó một cách tự nhiên, nên thầm cảm ơn nàng Thơ đã cho mình cái Thấy đó, bèn thủ thỉ ‘thơ mần ta nữa nhé / kẻo mai kia lạnh tràn…’
“ ‘Thơ mần ta nữa nhé’ mang tính chất hoàn toàn tự nhiên thụ động ghi nhận lại những gì đang-là chung quanh tác giả. Đây là tiến trình ‘cõi mật về tụ lại trong trái,’ nên hoàn toàn tự nhiên, không thể cưỡng cầu. Cái thấy cái nghe từ miền hương chín ùa về tâm tư tác giả, chính vì ông đã biết buông bỏ tất cả:
thơ rụng đầy
một guồng
biết nắm mới
biết buông…
(Bài số 94.)
“NLV buông được vì ông đã nắm rất vững, và rất sâu trong chữ nghĩa. Biết nắm mới biết buông… là thế. NLV đã sống cả đời với chữ nghĩa, chúng đã ngấm cả vào trong máu huyết của ông. Nhưng ông đã thả chúng đi rất tự nhiên, chúng lòn đi trong mưa lụi trong nắng tàn.
“Đôi khi, những con chữ cũ kỹ còn nặng tình với ông, chúng trở về thăm ông trong nắng tàn trong mưa lụi, NLV lượm chúng lên, phủi, và lẳng lặng đưa thẳng vào thơ:
thấy và nghe
huyết tan
từ rất lâu
trong chữ
chữ lòn trong
nắng tàn
ta lòn trong
mưa lụi
lượm lên phủi
hú vang…
(Bài số 23.)
“Ông mừng rỡ, hú vang, nâng niu từng con chữ, gá ý vào nghĩa rồi thả chúng trở lại cho từng câu thơ. Ôi! Những câu thơ kiên khổ:
câu thơ nay
kiên khổ
lì đòn chờ âm
rung
chờ nát tan
tri ngộ
chờ ngất gió
loạn bùng
một cú nhảy
sau cùng…
(Bài số 38.)
“ ‘Một cú nhảy sau cùng’ đó, NLV đã cẩn thận ‘gói ghém gửi sơ đầu’ để mà ‘hy vọng còn gặp nhau’ với tất cả độc giả hữu duyên gần xa. Xin cảm ơn thi sĩ NLV và hẹn tái ngộ nơi bờ hương chín.
“Wesminster, Nov. 26.2013
“Chú thích: Tô Đăng Khoa, sinh năm 1976. Quê quán: Biên Hòa - Việt Nam. Định cư tại Hoa Kỳ năm 1994. Chemical engineer, UC Berkeley. Hiện cư ngụ tại Wesminster và làm việc tại Irvine - California.”
(Trích “Năm Chữ Năm Câu” thơ Nguyễn Lương Vỵ. Tr. 175_ 180).