ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
VŨ THỊ LỆ DUYÊN
CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ DU TỬ LÊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
VŨ THỊ LỆ DUYÊN
CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ DU TỬ LÊ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 8220121
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM NGỌC HIỀN
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa công bố dưới bất kì hình thức nào trước đây. Trong khóa luận này, tôi đã sử dụng một số nhận xét, đánh giá của tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Tác giả
Vũ Thị Lệ Duyên
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể các thầy cô giảng dạy Văn học Việt Nam của trường Đại học Sài Gòn đã giảng dạy, và tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn và biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Ngọc Hiền, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi nghiên cứu khóa luận.
Cuối cùng, tôixin cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân đã luôn ở bên để động viên và là nguồn cổ vũ lớn lao, là động lực giúp em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành luận văn trong phạm vi và khả năng có thể. Tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy cô và bạn bè góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi kính chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp.
Tp. Hồ Chí Minh, Ngày 19 tháng 5 năm 2022
Tác giả
Vũ Thị Lệ Duyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.. 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 8
5. Phương pháp nghiên cứu. 8
6. Những đóng góp của luận văn. 10
7. Cấu trúc luận văn. 10
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ VĂN NGHIỆP DU TỬ LÊ 11
1.1. Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa hiện sinh. 11
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh. 11
1.1.2. Những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh. 14
1.1.3. Chủ nghĩa hiện sinh trong văn học. 17
1.2. Vài nét về khuynh hướng hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam 1954 – 1975 20
1.2.1. Bối cảnh du nhập và phát triển. 20
1.2.2. Dấu ấn hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam 1954-1975. 23
1.2.3. Những gương mặt tiêu biểu trong khuynh hướng hiện sinh. 27
1.3. Sự nghiệp sáng tác của Du Tử Lê. 31
1.3.1. Những chặng đường nghệ thuật 31
1.3.1.1. Giai đoạn 1954-1975. 32
1.3.1.2. Giai đoạn sau 1975. 34
1.3.2. Quan niệm sáng tác. 37
Tiểu kết chương 1. 42
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ DU TỬ LÊ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG 43
2.1. Cảm hứng hiện sinh trong cái nhìn về tha nhân. 43
2.1.1. Con người lo âu. 43
2.1.2. Con người dấn thân. 47
2.1.3. Con người ưu tư. 53
2.2. Cảm hứng hiện sinh trong thế giới quan. 57
2.2.1. Thế giới trống rỗng, vô nghĩa. 57
2.2.2. Thế giới của khát yêu và khát sống. 61
2.2.3. Thế giới hiện thực và tâm tưởng. 65
2.3. Cảm hứng hiện sinh trong cái tôi trữ tình. 69
2.3.1. Cái tôi cô đơn và buồn phiền. 70
2.3.2. Cái tôi bản năng và nhục cảm.. 75
2.3.3. Cái tôi bị ám ảnh và lựa chọn. 79
Tiểu kết chương 2. 84
CHƯƠNG 3: CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ DU TỬ LÊ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 86
3.1. Phương thức biểu tượng hóa. 86
3.1.1. Xây dựng biểu tượng bằng giấc mơ. 86
3.1.2. Xây dựng biểu tượng bằng luận lý. 92
3.2. Không gian và thời gian. 98
3.2.1. Không gian trải nghiệm hiện sinh. 98
3.2.2. Thời gian tâm thức hiện sinh. 102
3.3. Giọng điệu trữ tình trong thơ. 108
3.3.1. Giọng phản vấn và phản tư. 108
3.3.2. Giọng triết lý suy nghiệm.. 114
3.3.3. Giọng trầm mặc u buồn. 119
Tiểu kết chương 3. 123
KẾT LUẬN.. 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 129
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du nhập và ảnh hưởng vào không gian văn học đô thị miền Nam 1954-1975 từ nhiều ngã đường khác nhau (học đường, nghiên cứu, dịch thuật, …), chủ nghĩa hiện sinh đã là một trào lưu tư tưởng trong xã hội và trong văn học đô thị miền Nam. Dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam 1954-1975 là vấn đề đã được bàn đến rộng rãi.
Cùng với xu hướng nghiên cứu và đánh giá lại văn học đô thị miền Nam 1954-1975, nhiều nhà nghiên cứu đã tham gia nghiên cứu về những tác giả của giai đoạn văn học này. Trong số đó, có những nghiên cứu về Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyên Sa, … Du Tử Lê đã có chỗ đứng nhất định trên văn đàn. Nhưng việc nghiên cứu đặc trưng và đóng góp thơ ca của ông vẫn chưa được thực hiện đúng mức. Do đó, việc nghiên cứu một cách hệ thống và có khoa học thơ ca Du Tử Lê là việc làm cần thiết.
Cho tới hiện nay, mặc dù còn nhiều điều cần khai thác bàn luận về thơ Du Tử Lê, nhưng giới hâm mộ lẫn giới học giả vẫn chưa thực sự thâm nhập và nắm bắt được cõi thơ của Du Tử Lê. Từ trước 1975, thơ Du Tử Lê đã có chỗ đứng riêng, nhưng vì một số lý do, thơ Du Tử Lê vẫn chưa được giới trí thức tìm hiểu nghiên cứu. Có chăng chỉ một số bài viết riêng lẻ dừng lại ở mức giới thiệu. Và mãi cho tới lúc nhà thơ tạ thế, thơ ca của ông vẫn là thế giới gần gũi mà xa lạ. Gần vì được phổ nhạc, sống trong lòng công chúng mấy chục năm qua, xa bởi giá trị nghệ thuật trong thơ ông chưa được quan tâm, nghiên cứu nhiều và xác định đúng mức. Do đó, việc nghiên cứu thơ Du Tử Lê hiện nay ngày càng cấp thiết hơn bao giờ hết.
Và khi bước vào cõi thơ Du Tử Lê, chúng tôi đã bắt gặp một nguồn thơ dào dạt, một bút pháp riêng biệt tài hoa và lãng tử. Nổi bật trong thế giới thi ca của ông là hình ảnh một trí thức tài hoa, lãng tử mang thân phận kẻ lạc loài giữa cuộc hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh cho tới không khí hiện sinh trong văn chương đô thị miền Nam 1954-1975, ít nhiều để lại bóng dáng trong địa hạt thơ Du Tử Lê, nhất là trên phương diện cảm hứng nghệ thuật. Nét tài hoa của ông có lẽ toát ra từ chính những băn khoăn, ưu tư về thân phận con người, về hiện hữu và trong đó hẳn nhiên có ái tình. Hiện nay, việc xem xét, đánh giá đầy đủ giá trị thơ văn và vị trí của tác giả này trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung vẫn chưa nhiều so với tài sản thơ ca mà ông sáng tác. Với tất cả những lí do này, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê” để nghiên cứu trong luận văn.
2. Lịch sử vấn đề
Chủ nghĩa hiện sinh đã có thời là cái “mode” thời thượng, có người còn cho rằng “làn sóng’ phổ biến trong không gian văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975, đặc biệt lan truyền trong giới trí thức học đường ở các đô thị miền Nam Việt Nam trước đây như: Sài Gòn, Đà Lạt, Cần Thơ, Huế, Nha Trang, … Bởi lẽ chủ nghĩa hiện sinh đã được du nhập một cách có bài bản và được dịp hòa hợp với bối cảnh chiến tranh đang diễn ra ác liệt tại đất nước, càng khiến cho các chủ đề hiện sinh trực diện hơn gần gũi hơn, đặc biệt gần với tâm tư của giới trẻ trước thảm trạng quê hương. Có lẽ vậy mà những con người của thế hệ ấy của thời đại ấy giàu ưu tư, hay băn khoăn và cũng lắm sầu đời, thế hệ sống thiên về tư tưởng. Cũng có thể vì thực tiễn không thể chối chạy, và vấn đề sống như một bản án mà ai cũng phải đối diện, nên trong mỗi tâm hồn dường như đều ẩn chứa niềm day dứt về thân phận của bản thân và số phận của đất nước.
Phải nói, điều kiện xã hội cởi mở khiến cho nghiên cứu văn chương có được thuận tiện tiến xa hơn trong việc khai triển các lý thuyết nghiên cứu. Cũng bởi vậy, chủ nghĩa hiện sinh và việc ứng dụng nghiên cứu trong văn chọ cũng thành ra nở rộ và phát đạt hơn nữa. Đặc biết việc nghiên cứu chủ nhĩa hiện sinh trong văn học được mở ra ở cả hai phương diện, học tập và nghiên cứu. Đó là thực tiễn chủ nghĩa hiện sinh được đưa vào giảng dảy và học tập ở môi trường đại học. Bây giờ không chỉ có các nghiên cứu của các giáo sư và nhà nghiên cứu chuyên nghiệp mà các sinh viên còn đang trên ghế nhà trường cũng hăng say nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh.
Cụ thể, chúng ta có thể nhắc đến các công trình quý của những giáo sư học giả uy tín như:
Đỗ Đức Hiểu với công trình “Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa” (1978). Trần Trọng Đăng Đàn với tập sách “Văn hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954-1975 (1990) Nguyễn Tiến Dũng với công trình rất đáng chú ý “Chủ nghĩa hiện sinh - lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam” (2005). Có thể nói đây là công trình xem như giáo trình, sách gối đầu giường cho những ai nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam sau 1975. Có thể kể thêm: Trần Thiện Đạo với công trình “Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc” (2008); Trần Thanh Hà có bài viết “Từ hiện tượng học đến triết học hiện sinh” (2009), Trần Hoài Anh có bài “Khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo ở đô thị miền Nam 1954-1975” (2009); Thái Phan Vàng Anh có bài “Con người hiện sinh trong tiểu thuyết Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XX (2012); Nguyễn Tiến Dũng và Võ Anh Tuấn có bài “Một số vấn đề cần thống nhất khi nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh” (2015); … Tựu trung, ta có thể thấy, từ thời kỳ đổi mới đến nay, chủ nghĩa hiện sinh ngày càng dành được mối quan tâm của giới nghiên cứu, nhưng phải từ thập niên 1990 thì những công trình đáng kể mới bắt đầu xuất hiện. Và phải đến những năm đầu của thập niên 2000 thì mới trở thành trào lưu nghiên cứu rộng rãi. Đây cũng là tín hiệu đáng mừng cho nền nghiên cứu nước nhà. Một khi các nhà nghiên cứu hiệp lực tấn công thì lĩnh vực nghiên cứu được khai mở rộng rãi và sâu sắc hơn, có nhiều thành tựu đáng kể hơn, khiến cho việc nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam sau 1975 có nhiều thành tựu đáng kể hơn những gì đã làm được ở giai đoạn trước. Đây là bước tiến và thành tựu lớn mà lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam phải ghi nhận công lao của những nhà nghiên cứu uy tín sau 1975.
Ngoài ra số lượng công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh và các vấn đề liên quan trong việc giáo dục đào tại tại nhà trường cũng ngày càng nhiều, chẳng hạn như:
Luận văn thạc sĩ Triết học của Trần Giải: “Con người hiện sinh và sự biểu hiện của nó trong văn học đô thị miền Nam trước 1975” (2004).
Luận văn thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Như Huế: “Quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh (2007).
Luận văn thạc sĩ Văn học của Lê Doãn Hệ: “Tâm thức hiện sinh trong tác phẩm của Franz Kafka” (2011).
Luận văn thạc sĩ Văn học của Lê Thị Hiền: “Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiếp (2011).
Điều này cũng là một thuận lợi cho chúng tôi trong việc nghiên cứu ở luận văn này; đồng thòi thực trạng nghiên cứu này cũng là thách thức để chúng tôi có thể mang lại đóng góp nào đó cho văn chương qua việc nghiên cứu cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê.
Du Tử Lê là một hiện tượng đặc biệt trong thơ ca Việt Nam. Cho đến nay thơ ông vẫn là một dấu chấm hỏi lớn cần được khám phá. Các bài phê bình về thơ Du Tử Lê đều là những ý kiến khoa học nghiêm túc, xác đáng, nhưng phần nhiều vẫn chỉ dừng lại ở các nhận diện lẻ tẻ, thiếu tính chất hệ thống.
Các nghiên cứu về cuộc đời và thơ ca Du Tử Lê trước 1975 chưa nhiều. Hầu như chưa thấy một chuyên khảo đặc biệt nào dành riêng cho thơ ca của ông. Đây cũng là điều đáng tiếc, bởi ông là nhà thơ tiếng tăm thời bấy giờ. Những bài viết giới thiệu thì nhiều nhưng công trình đáng kể dài hơi về thơ ông thì hầu như không thấy.
Sau 1975, thời gian đầu sống và làm việc ở Hải ngoại, Du Tử Lê vẫn tiếp tục sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. Trong thời gian này, thơ ông vẫn được quan tâm bàn luận và nghiên cứu. Ở trong nước, sau này có dịp trở về quê hương, chúng ta mới thấy nhiều người nhắc đến Du Tử Lê, thế nhưng công trình nghiên cứu về ông vẫn chưa nhiều. Nói vậy, để chúng ta thấy rằng sự cần thiết nghiên cứu chuyên sâu về thơ ông là điều gần như cấp bách.
“Cho tới hôm nay, ông là nhà thơ châu Á duy nhất được phỏng vấn và có thơ đăng trên hai nhật báo lớn của Hoa Kỳ: Los Angeles Times (1983) và New York Time (1996). Thơ ông cũng đã và đang được đưa vào giảng dạy, làm tài liệu nghiên cứu, đọc thêm tại một số trường đại học Hoa Kỳ và châu Âu. Năm 1998, nhà xuất bản W.W. Norton, New York đã chọn Du Tử Lê vào một trong năm tác giả Việt Nam để in vào phần “Thế kỉ 20: thi ca Việt Nam” khi tái bản tuyển tập World Poetry An Anthology of Verse From Antiquity to Our Present Time (Tuyển tập Thi ca thế giới từ xưa đến nay). Trong cuốn Understanding Vietnam, tác giả, giáo sư Neil L. Jamieson đã chọn dịch một bài thơ của Du Tử Lê viết từ năm 1964. Cuốn sách này sau trở thành tài liệu giáo khoa, dùng để giảng dạy tại các đại học Berkeley, UCLA, và Cambridge, London”[1].
Giới nghiên cứu tại hải ngoại đã có nhiều bài phê bình khá sắc sảo, cho thấy sự quan tâm đối với thơ Du Tử Lê, đáng chú ý có các bài viết:
- Đọc Thơ Du Tử Lê (Doãn Quốc Sỹ)[2];
- Du Tử Lê Nhà Thơ Của Khám Phá (Tạ Tỵ)[3];
- Cõi Thơ (Nguyên Sa)[4];
- Từ Chiều Dọc Thi Ca Việt Nam Tới Thơ Du Tử Lê (Nguyên Sa)[5];
- Du Tử Lê Và Triết Lý Đông Phương (Lm. Thạch Sơn/Nguyễn Huy Tưởng)[6];
- Thơ Du Tử Lê (Mai Thảo)[7];
- Du Tử Lê, màu-xanh-vàng-phai (Đặng Phú Phong)
- Du Tử Lê - Người tình thủy chung với văn chương (Thái Tú Hạp)
- Hứng nhạc trong thơ Du Tử Lê (Lê Văn)
- Một thoáng bâng khuâng với thơ Du Tử Lê (LM Trần Cao Tường)
- Phỏng vấn nhà thơ Du Tử Lê (Trường Đinh)
- Thơ Du Tử Lê: Hiện tượng và Thể loại (Nguyễn Vy Khanh)
- Tính vỡ vụn của thời đại trong lục bát Du Tử Lê (Vương Thành)
- Chấm Dứt Luân Hồi: Cơ Cấu Ẩn Dụ Và Hoán Dụ Trong Thơ Du Tử Lê (Lưu Nguyễn Đạt)[8];
- Du Tử Lê Đã Cho Đời Thêm Một Dấu Ấn Tuyệt Vời (Duy Thanh)[9];
- Phác Hoạ Du Tử Lê (Luân Hóa)[10];
- Ngôn Ngữ Và Không Gian Thơ Du Tử Lê (Cung Trầm Tưởng)[11];
- Kẻ Nhận Lãnh Sứ mạng Rao Giảng Phúc Âm Buồn: Du Tử Lê (Lê Huy Oanh)[12];
- Thơ Du Tử Lê Và Tôn Giáo (Rev. Nguyễn Huy Tưởng)[13];
- Triết Lý Và Những Dấu Chấm Phá Cố Tình Trong Thơ Du Tử Lê (Trần Văn Thế)[14];
- Du Tử Lê: Những Người Nữ Trong Thi Ca (Trang Ng.)[15];
- Bốn mươi năm thơ Việt Hải Ngoại - Du Tử Lê (Nguyễn Đức Tùng)[16];
- 'Mẹ về biển Đông' - một khát mong day dứt (Thanh Thảo)[17];
- Những cuộc trở về của thơ Việt hải ngoại - Kỳ 1: 'Nỗi sợ' của Du Tử Lê (Thanh Thảo)[18];
- Nhà thơ Du Tử Lê: Giấc mơ trong những câu chuyện… (Nguyễn Quang Thiều)[19];
Những bài viết này đã đưa ra những đánh giá khoa học về con người cũng như thơ ca Du Tử Lê. Thái Tú Hạp trong bài Người tình thủy chung với văn chương đã từng viết: “Với văn chương, Du Tử Lê chưa hẳn là nơi chốn giải sầu, tạm quên lãng những phù trầm nhân thế, những giải tỏa niềm đau khoảnh khắc, là cõi tịnh an sau những miệt mài xông xáo vào cuộc sống đầy khói xe và tiếng động. Văn chương Du Tử Lê hiện thực, đầy tim óc và tủy xương tận tình như một nghiệp dĩ. Bóng với hình đeo đuổi nhau đến suốt một đời. Không biết có phải đó là một ân huệ hạnh phúc, hay là những nỗi niềm chua cay của tâm trạng người vác thập tự giá băng ngang cuộc đời đầy khổ lụy” (Thái Tú Hạp, 1997).
Năm 2019 ông qua đời, cho đến lúc tạ thế dường như mới chỉ thấy một số ít luận văn thạc sĩ nghiên cứu về thơ ông. Cũng là điều đáng tiếc, và hậu thế dường như còn nợ ông “món nợ ân tình” trong thi ca và chữ nghĩa. Sau khi mất, hàng loạt bài viết tưởng nhớ ông. Tất nhiên, với tính chất tưởng nhớ, các bài viết xoay quanh chủ yếu nhắc lại các kỷ niệm sinh tiền với nhà thơ mà thôi, khó có điều kiện đi sâu mổ xẻ từng vấn đề trong nội dung và tinh thần thơ ca của Du Tử Lê.
Nguyễn Đức Tùng có bài “Du Tử Lê, Mẹ về biển đông” đăng trên Tạp chí Sông Hương (13/10/2019). Trong bài viết này chúng ta thấy Nguyễn Đức Tùng đã “thả cửa” cho cảm xúc dạt dào lai láng. Bởi ông tìm được mối giao cảm với Du Tử Lê trong cảm thể về mẹ và về quê hương. Bài viết của ông do đó thiên về ghi nhận cảm xúc, thể loại tản văn chân dung, hơn là bài nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, bài viết cũng mang lại một vài thông tin đáng quý cho luận văn của chúng tôi. Ông đã nhấn mạnh đến chỗ cách tân của thơ Du Tư Lê ở giai đoạn 1990 trở đi chính là ngôn ngữ, thể loại và phong cách tả thực. Rõ ràng, chúng ta thấy Nguyễn Đức Tùng dừng lại ở việc nắm bắt hình thức nghệ thuật hơn là khắc họa nội tâm của từng con chữ. Do đó, bài viết khó có thể thâm nhập vào tâm hồn của thi nhân.
Nguyễn Thụy Kha với bài “Du Tử Lê: Người dâng hiến trọn đời cho thi ca” (2019). Bài viết này chỉ dừng lại ở việc phác họa đời người và đời thơ với những cột mốc đáng nhơ, hầu như tác giả bài viết không nhắm đến mổ xẻ phân tích nội dung thơ. Do đó, bài viết này chỉ có thể xem như bài viết tưởng niệm hơn là bài nghiên cứu khoa học.
Trần Thị Kim Thanh trong bài viết: “Mấy suy nghĩ về thơ Du Tử Lê nhân đọc bài Ngọn nến/tôi/cháy hết vẫn ngậm ngùi” (2019), tác giả đã chú trọng những khám phá những phương diện mang lại nét độc đáo riêng cho thơ Du Tử Lê, ví dụ như ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Hình ảnh thiên nhiên được nhà thơ sử dụng hữu hiệu cùng với sự sắp xếp xây dựng nhạc điệu mới mẻ, làm thơ mỹ cảm cho những bài thơ tình của Du Tử Lê. Tất nhiên, trong phạm vi bài viết ngắn, khó có thể triển khai và làm rõ được điểm đắc đạo tạo nên khả năng truyền cảm của Du Tử Lê.
Với thực trạng như vậy, việc chúng ta nghiên cứu Du Tử Lê vừa có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Điều đáng nói hơn cả chính là chưa có công trình nào làm rõ cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê, trong khi ý hướng hiện sinh là một phần không thể thiếu trong môi trường tư tưởng trước 1975 ở văn học đô thị miền Nam. Do đó, nếu chúng ta đi vào nghiên cứu khía cạnh này có thể góp phần làm sáng tỏ và đánh giá đúng đắn hơn thành tựu thơ ca mà Du Tử Lê đã để lại cho đời.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn này, dựa trên cái nhìn hệ thống, chúng tôi xác định những mục đích chính sau đây:
Mục đích thứ nhất đó là làm rõ các cảm hứng hiện sinh trong nội dung thơ Du Tư Lê. Mục đích này bao gồm ba phương diện, mà chúng tôi xác định cần làm rõ. Cụ thể là: cảm hứng hiện sinh trong cái tôi trữ tình, cảm hứng hiện sinh trong cái nhìn về tha nhân; cảm hứng hiện sinh trong thế giới quan.
Mục đích thứ hai, chúng tôi đi vào phương diện nghệ thuật để làm rõ đặc sắc của thơ Du Tử Lê. Mục đích này nói cụ thể hơn, chính là xác định chất tài hoa trong thế giới thi ca của Du Tử Lê. Nhờ vậy, chúng tôi có thể xác lập vị trí của ông trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến những nhiệm vụ chính làm rõ cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê từ phương diện nội dung và nghệ thuật để khẳng định đóng góp của nhà thơ trong văn học đô thị miền Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi xác định rõ ràng đối tượng nghiên cứu là Cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này xoay quanh các tập thơ sau:
Du Tử Lê , Trên ngọn tình sầu, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội (2018).
Du Tử Lê , Khúc thụy du, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội (2019).
Du Tử Lê , Chúng ta, những con đường, Nhà xuất bản Đà Nẵng (2019).
Ngoài ra, để làm rõ thêm tư tưởng và quan niệm nghệ thuật của Du Tử Lê, chúng tôi còn tham khảo thêm những bài viết, chia sẻ, phỏng vấn, liên quan đến ông.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống-cấu trúc
Đây là phương pháp quan trọng nhằm xác lập tính chỉnh thể trong hệ thống cấu trúc. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đặt vấn đề cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê và sáng tác của ông trong hệ thống văn học đô thị miền Nam 1954-1975. Như vậy, việc sử dụng phương pháp hệ thống cấu trúc sẽ giúp cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn chặt chẽ và logic hơn.
5.2. Phương pháp phê bình tiểu sử học
Phương pháp phê bình tiểu sử này, chúng tôi sử dụng trong việc làm rõ đời sống văn chương của nhà thơ Du Tử Lê. Dựa trên việc tìm hiểu, lựa chọn và liên kết các thông tin về tiểu sử (đời người, đời thơ) của tác giả Du Tử Lê để rút kết các vấn đề khả dĩ hữu ích cho việc lý giải vận động thơ ca của ông.
5.3. Phương pháp văn hóa- lịch sử
Như đã nói, việc trình bày chủ nghĩa hiện sinh, trước hết chúng tôi xem xét dưới góc độ lịch sử. Do đó, phương pháp văn hóa lịch sử được sử dụng trong mục này để cho thấy quá trình vận động, hình thành, phát triển của Chủ nghĩa hiện sinh, đã xuất phát từ bối cảnh xã hội như thế nào. Rõ ràng, việc sử dụng phương pháp này hầu như bắt buộc để chúng ta thấy được vì sao chủ nghĩa hiện sinh đã du nhập vào miền Nam Việt Nam và có được sức ảnh hưởng sâu rộng như vậy.
5.4. Thao tác phân tích tổng hợp
Thao tác phân tích tổng hợp cũng có thể xem như thao tác tư duy, thao tác lập luận rất phổ biến và cần thiết. Phương pháp này giúp chúng tôi hệ thống các dữ kiện thu thập được, từ đó vấn đề mổ xẻ vấn đề thành nhiều khía cạnh, sao cho vừa đi sâu vào vấn đề vừa cho thấy tính liên hệ giữa các vấn đề đó. Việc tổng hợp giúp chúng tôi đưa ra những kết luận đánh giá về thế giới thơ ca Du Tử Lê.
5.5. Thao tác so sánh - đối chiếu
Thao tác so sánh - đối chiếu: để xác định vị trí, chỗ đứng và sức ảnh hưởng của Du Tử Lê trong đời sống sinh hoạt văn chương, phương pháp so sánh đối chiếu hầu như vô cùng cần thiết. Bởi khi đặt Du Tử Lê trong chính bối cảnh thời đại và những người đương thời ta mới thấy được nét riêng, thấy được vẻ hào hoa và sự độc đáo trong từng con chữ mà ông đã dệt thành khúc hát phi thường trong thi giới. Không chỉ so sánh Du Tử Lê với những người đương thời, ta còn phải so sánh và đối chiếu ông với các đối tượng thơ ca khác, để cho thấy ông trên dòng chảy lịch đại của thi ca Việt Nam hiện đại.
6. Những đóng góp của luận văn
Đóng góp trước hết mà chúng tôi nhận thấy qua việc nghiên cứu đề tài này, chính là chúng ta có thể góp phần hiểu rõ hơn vài tài năng thơ ca, nét riêng độc đáo của thơ Du Tử Lê. Đồng thời, chúng ta có thể làm rõ và ghi nhận một cách thích đáng đóng góp thơ ca của Du Tử Lê đối với thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông đã tạ thế, kết thúc chặng đường nghệ thuật vẻ vang, song hành cùng vận mệnh của đất nước và quê hương. Ta cần thiết xây dựng và chứng minh Du Tử Lê là một tượng đài lớn của thơ ca Việt Nam.
Thứ hai, luận văn này sau khi hoàn thành có thể đóng góp thêm vào việc nghiên cứu văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975. Nghiên cứu thơ ca Du Tử Lê, chúng ta có thêm góc nhìn cho những ai quan tâm và tìm hiểu thơ ca miền Nam trong giai đoạn này. Bởi vì rõ ràng, thơ Du Tử Lê là một trong số những tiếng thơ nổi bật khác của thơ ca giai đoạn này.
Thứ ba, luận văn này sau khi hoàn tất có thể làm tài liệu nghiên cứu học tập cho các bạn sinh viên, lưu lại hậu thế, để thế hệ trẻ hiểu biết nhiều hơn về giai đoạn văn học đô thị còn chưa được giới thiệu và biết đến nhiều. Do đó, việc này rất có ý nghĩa đối với việc giảng dạy học tập hiện nay. Đặc biệt là các học phần lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn của chúng tôi được cấu trúc thành ba phần, bên cạnh phần mở đâu, kết luận và tài liệu tham khảo. Cụ thể ba chương:
Chương 1: Khái quát về chủ nghĩa hiện sinh và văn nghiệp Du Tử Lê
Chương 2: Cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê nhìn từ phương diện nghệ thuật.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
VÀ VĂN NGHIỆP DU TỬ LÊ
1.1. Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa hiện sinh
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh
Cho đến nay, chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một trào lưu triết học được định vị và đóng góp nhiều cho lịch sử tư tưởng thế giới. Những vấn đề chủ nghĩa hiện sinh không còn là những việc thời thường được mang ra bàn luận sôi nổi tại các quán cà phê thời sự nữa. Có chăng, chủ nghĩa hiện sinh bây giờ như cái gì đó khả dĩ bền vững để thuận tiện cho giới nghiên cứu nói tới, vì đã quá rõ mười mươi mà thôi. Cho nên, những ai tìm đến chủ thuyết hiện sinh hầu như là những nhà khoa học lười, quen theo lối mòn và thích an ổn trong vòng vây an toàn của những gì người ta đã làm.
Chúng tôi trở lại với thuyết hiện sinh, có lẽ cũng nằm trong cái tâm thế an toàn đó. Bởi cũng như nhiều nơi thế giới, chủ nghĩa hiện sinh đã được định vị, được xác lập giá trị và được nghiên cứu một cách rộng rãi phổ quát. Thành ra, việc nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh cũng gặp được thuận lợi bởi tài liệu khá phong phú. Nhưng đây cũng là trở ngại cho người làm luận văn bởi vì quá nhiều người đã bàn đã luận đã giải đã diễn khắp trong cõi gầm trời này. Nhưng quan điểm của người hướng dẫn làm chúng tôi thấy an tâm. Bởi vì việc nhại đi nhại lại những gì người trước đã làm khiến cho luận văn “an toàn”, tiện lợi hơn, dễ dàng hơn. Âu cũng là cái khó ló cái dễ vậy!
Vậy nên chúng tôi lại an tâm mà trình bày theo lệ thông thường của rất nhiều luận văn này nọ liên quan đến chủ nghĩa hiện sinh. Nghĩa là cũng quay đi trở lại với các vấn đề về lịch sử và nội dung của thuyết này. Về mặt lịch sử, có thể xem chủ nghĩa hiện sinh như là kết quả của tiếng súng và máu tươi. Bởi các ý niệm các vấn đề hiện sinh đã bang bạc khắp nơi trong tư tưởng con người. Hễ bất cứ một nhà tư tưởng nào bàn về nghĩa lý cuộc hiện diện của con người trên mặt đất trần gian thì cũng có nghĩa là bàn đến các vấn đề hiện sinh. Nhưng chỉ đến khi hai cuộc thế chiến nổ ra, trần gian lan tràn máu và nước mắt, ngập ngụa trong khói súng và tiếng kêu thương, bấy giờ loài người mới đối diện một cách thống thiết với vấn đề con người – vấn đề hiện hữu người.
Khi con người còn đang lủ khủ bù đầu bì chiến sự và những chết chóc bao vây mịt mù, thì con người lại phải tiếp tục đối diện với sự đổ vỡ của khoa học. Khi mà thuyết tương đối của ông Einstein giáng thêm một đòn chí tử vào chủ nghĩa duy lý Tây phương, khiến cho niềm tin vào khoa học minh xác của con người bị lung lay tận gốc rễ. Chưa kể, khi mà Freud đưa ra học thuyết tâm lý của mình, con người lại bật ngửa thêm lần nữa, bởi vương quốc tinh thần của nhân loại hóa ra chỉ là thế giới tầm thường và đầy rẫy thương tật tâm lý, rồi Jung tiếp bước đẩy con người đến thời đại tổn thưởng của những dị dạng tâm hồn. “Nói chung cơ cấu xã hội bị lung lay đến tận gốc rễ. Luật pháp, chính trị, chỉ là những trò múa rối, lừa đảo. Thậm chí luân lý, tôn giáo cơ hồ như không còn được kiêng nể. Xã hội bày ra quá nhiều thảm cảnh bi thương. Người ta mất hết tin tưởng. Như chiếc thuyền không lái, xã hội phó mặc cho những áp lực vô danh đưa đẩy, không định hướng. Người ta nghi ngờ hết mọi giá trị. Cuộc đời vì thế là một chán nản, buồn nôn, phi lý. Sau thế chiến, thanh niên không còn muốn nghĩ đến những gì nghiêm chỉnh, và đa số tìm thú vui buông trôi trụy lạc, bù lại những kìm hãm khe khắt, bó buộc vô nghĩa của những tháng ngày loạn ly”(Lê Thành Trị, 1974). Theo Chu Văn Sơn, vấn đề hiện sinh xuất hiện “khi con người nhận thức được giá trị của cuộc sống bản thân biết dấn thân vượt thoát khỏi cuộc đời tù túng và vô nghĩa bằng sự nỗ lực tự thân”[20]. Nhận thức hiện sinh gắn liền bối cảnh hiện sinh, bị thúc đẩy bởi hoàn cảnh hiện sinh. Việc này cũng lý giải vì sao không gian văn học đô thị miền Nam 1954-1975 có những điều kiện thuận lợi cho sự du nhập của thuyêt hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh đã ra trước những biến cố như vậy, nó đã rời trong bối cảnh tang thương sụp đổ như vậy. Thời đại bão táp của bất tin luận. Người ta hoặc là trông vọng một đức tin hoặc phủ chối toàn bộ đức tin. Hai nhánh hiện sinh hình thành. Hiện sinh hữu thần và vô thần. nguồn gốc vốn dĩ đã có từ trước, mà rõ nét đáng kể có lẽ phải nhắc từ triết học Tây phương thế kỷ XIX. Có thể nói trong khi Hegel còn đang mải mê với chủ nghĩa duy tâm, còn đang là cái tên thịnh hành đương thời thì nhiều triết gia đã nhận ra sự lố bịch, buồn cười và rẻ rách của triết học Hegel. Họ nhận ra rằng vấn đề con người mới là vấn đề thực sự đáng quan tâm. Vấn đề tồn hữu người mới là vấn đề đáng bàn cãi. Các triết gia như S. Kierkegaard (1813-1855), A. Schopehauer (1788-1860), F. Nietzsche (1844-1900), M. Heidegger (1889-1976), K. Jasper (1883-1969), G. Marcel (1889-1973), J. P. Sartre (1905-1980), Maurice Merleau Ponty (1908-1961), Albert Camus (1913-1960), … Phong trào cứ vậy mà mở rộng, từ Đức sang Pháp và các nước Tây phương khác, cứ vậy mở rộng từ lĩnh vực triết học sang các lĩnh vực nghệ thuật và khoa học xã hội nhân văn khác. Hiện sinh trở thành một thứ đại dịch, lan rộng cho đến các nước thế giới thứ ba (trong đó có Việt Nam). Một thời vì cách nhìn ý thức hệ, một số nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa đã xem triết học hiện sinh là biểu hiện của sự suy đồi Tây phương và chủ nghĩa tư bản, nên việc học tập nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh bị cấm đối kịch liệt, bị bài trừ lên ác thủ tiêu không thương tiếc, bị gán cho là biểu hiện suy đồi làm có để đấu tố và triệt hạ lẫn nhau, lấy đó làm cớ để vu khống và hãm hại lẫn nhau.
Ban đầu chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học, thuần túy là một vấn đề tư tưởng. Nhưng sau đó cùng với sự lan rộng đến Pháp thì chủ nghĩa hiện sinh trở thành một vấn đề phương pháp luận, bằng cách tiếp thu quan điểm hiện tượng học, biến chủ nghĩa hiện sinh trở thành phương pháp quy giản hiện tượng học, phương pháp phân tích hiện sinh. Chính vì sự biến đổi từ vấn đề nhân sinh quan thành vấn đề phương pháp luận mà chủ nghĩa hiện sinh trở thành một phương pháp hữu dụng cho việc phản ánh hiện sinh trong văn học. Rồi cũng từ đó, chủ nghĩa hiện sinh trở thành một trào lưu rộng khắp trong cách lĩnh vực nghệ thuật (văn học, kịch nghệ, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, …)
Sở dĩ chủ nghĩa hiện sinh hình thành và phát triển rộng rãi như vậy bởi vì trọng tâm mà nó bàn đến là vấn đề con người. Con người như Heidegger có bàn đến, đã bị bỏ rơi suốt mấy ngàn năm trong các vấn đề triết học Tây phương. Đó là nền triết lý không có con người. Bây giờ hiện sinh thuyết xuất hiện đã kéo triết học trở lại với vấn đề con người. Hay như Jean Paul Sartre cho rằng căn bản thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản. Cho nên nói, thực chất của thuyết hiện sinh chỉ là sự quay lại với con người của nền triết học Tây phương.
1.1.2. Những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh
Hư vô: “Phủ nhận thực tại khách vật và Hữu đưa Nietzsche đến việc chối bỏ giá trị tuyệt đối của khoa học và Thượng đế. Một khi giác quan được nhìn nhận là kiến thức độc nhất, còn thì tất cả chỉ là ảo tưởng, thì Thượng Đế được triết học cổ điển hay tín ngưỡng cho là Siêu nhiên – không còn cái gì có thực nữa” (Lê Thành Trị, 1974). Đó là cách thế phủ nhận hiện hữu chưa phải là hiện hữu đích thực, đồng thời biểu hiện nhu cầu vươn đến hiện hữu đích thực. Thái độ hư vô này không đồng nghĩa vì phủ nhận, đạp đổ toàn bộ nghĩa lý của hiện hữu. Ngược lại, Hư vô này biểu hiện sự khởi đầu vươn đến hiện hữu đích thực. Theo cách đó, hư vô hóa cũng chính là vươn đến tự do. “Về mặt tích cực, hư vô biến con người thành hiện sinh trung thực. Nó len lỏi vào con người như một giấc mơ, sống tràn đầy ước mơ mở ra cho con người những chân trời rực sáng, đem lại cho con người những khả năng siêu việt, từ bỏ cái phi lý, cái tầm thường, cái hằng ngày tẻ ngắt để vươn tới cái cho ta. Như vậy hư vô hóa chính là giành lấy tự do”[21].
Buồn nôn: J. P. Sartre: “có những nét đặc biệt: hùng hổ, mãnh liệt, sa đọa, sống hết mình, đã gây bao nhiêu xì căng đan lạ lùng, bỡ ngỡ nhưng cũng không thiếu những vẻ chán chường, phi lý, buồn nôn...”(J. Sartre, 1965). Sartre miêu tả tỉ mỉ và gớm ghiếc hơn cả cái trạng thái buồn nôn của kiếp người. dưới sự phân tích sắc sảo sắc bén sắc lẻm của ông, con người hiện ra như một “hiện thể” nhầy nhụa, bẩn thỉu, vô tri, ngờ nghệch, bệnh hoạn, kéo lê đời mình một cách trống rỗng hoang đường, vô nghĩa lý. Đến mức, cuộc đời con người là một vô nghĩa toàn diện, con người bị vứt ra đấy giữa đời sống mà không hề mảy may về sự có mặt của nó, chẳng cầu cạnh tìm kiếm một cứu cánh hoặc ưu về một cứu cánh nào. Thật trống rỗng và đớn đau cho lũ người “hiện thể”, có mặt nhưng không hiện hữu, chường ra đó nhưng không tồn tại.
Phi lý: “Nhận thức của Sartre về ý nghĩa sự sống là một thứ nhận thức hoàn toàn phi lý. Tất cả mọi hiện tượng đều bắt nguồn từ phi lý và trở thành phi lý. Nghĩa là chẳng bắt nguồn từ đâu và chẳng đi tới đâu cả…”(Thích Đức Nhuận, 1965). Từ chỗ buồn nôn, trống rỗng, cuộc đời con người hẳn nhiên phải đến chỗ phi lý. Phi lý trở thành câu cửa miệng sang mồm của nhiều nhà nghiên cứu. Nhiều bậc thức giả vẫn ra rả nói về văn học phi lý, vẫn thường xuyên nhắc đến Albert Camus cho sang mồm và để chưng diện cho dáng vẻ tao nhân mặc khách, để lên mặt với một số người về hiểu biết sâu sắc lẽ đời và sự người. Phí lý, hiện sinh rốt cuộc trở thành một thứ mỹ hiệu sa-lon để bọn trí thức học hàm học vị ca cẩm và vác lên người làm một lô một lốc giả danh chưng diện diêm dúa.
Cô độc: “Con người cô độc hoàn toàn, con người tự do và chỉ con người gánh chịu trách nhiệm về mình. Con người thoát khỏi những giam cầm, những tù ngục, những tư tưởng của một thứ triết lý kiểu mẫu và khắc khổ. Con người thoát khỏi những ý thích lịch sử và không tin tưởng vào bất cứ hệ thống luân lý nào đã ràng buộc họ như những kẻ lưu đày. Con người bắt đầu trên con đường xao xuyến và hoang mang”(J. Sartre, 1965). Con người là một cô độc toàn diện. Bởi mỗi người với trải nghiệm hiện sinh khác nhau, với bối cảnh cuộc đời và những kinh nghiệm tiếp xúc khác nhau, hẳn nhiên là một tinh cầu độc dị hoàn toàn không thể tiếp thông với tha nhân. Con người bị bao vây bởi tính chất kinh nghiệm của vĩ ngã. Bởi vậy, đòi hỏi sự tiếp thông, giao lưu thương mến giữa người với người là bất khả. Dẫu con người có xao xuyến xuyến xao hay hoang mang hoang dại hoang dã gì đi nữa thì con người chẳng thể nào mà san sẻ san sớt cho đặng nỗi lòng của mình cho người khác. Bởi vậy, sống là một cuộc lưu đày mãi mãi. Đường đời kỳ thực là một cuộc lưu đày về cõi hư vô, mãi mãi gánh cái bản ác cô độc lê bước trên sa mạc.
Tự do: “Tự do không phải là lựa chọn. Nói khác đi, lựa chọn chỉ là một thái độ nhờ đó hướng đến chân lý. Tự do chỉ có thể có trong tương quan với chân lý cần đạt tới. Người tự do là người có can đảm hướng về chân lý, hiến thân phục vụ chân lý. Can đảm ấy không giả tạo, mà tự nó đã có như một khuynh hướn, ta chỉ cần hồi đáp và tăng cường”(Lê Thành Trị, 1974). Nếu đời là cô độc thì đó là biểu hiện của tự do. Cô độc là một trong số biểu hiện của tự do. Bởi cô độc cũng tức là một không thể kết nối với tha nhân, cũng là không hề dính mắc vào bất cứ ràng buộc nào của đời sống. Tự do chính là ở chỗ đó. Nhưng Tự do như vậy thậm chí còn đáng sợ hơn một bản án chung cuộc. Chung quy, cô độc, tự do, lưu đày hóa ra chỉ là bản án mà con người phải chống chịu.
Hữu tại thế: “Thế giới đó là thế giới được định giá bởi Dasein người: “thế giới bản thể luận không phải là ý nghĩa của hiện hữu, vì thực chất của nó không phải là Dasein, mà là một đặc tính của chính Dasein. Mà Dasein được định nghĩa là một hữu tại thế”(Lê Thành Trị, 1974). Đặc tính hữu chỉ có thể có khi hiện diện như là tại thế thể. Một hiện thể vươn đến hữu thể khi và chỉ khi có đó trong thực tại như là đặc hữu sống động tức thì. Hữu tại thế bao gồm hai phương diện tại thế và tri nhận sự tại thế. Bởi giờ hiện thể thực sự có đấy như là hữu thể.
1.1.3. Chủ nghĩa hiện sinh trong văn học
Chủ nghĩa hiện sinh trong vị thế khuynh hướng triết học đã ảnh hưởng đến nhiều phương diện khác của đời sống, đặc biệt ảnh hưởng vào các hình thái ý thức xã hội trong đó có văn học nghệ thuật. Văn học hiện sinh trở thành trào lưu rộng rãi, lan tỏa đến nhiều nước Âu Mỹ từ sau thế chiến I đến thế chiến II, sau nữa mở rộng đến các nước khác trên phạm vi quốc tế. Kỳ thực, ý hướng hiện sinh đã hình thành từ thế kỷ XIX, tuy nhiên để nói đến hiện sinh trong văn học thì cần phải đến đầu thế kỷ XX và đặc biệt là từ sau thế chiến II thì chủ nghĩa hiện sinh trong văn học mới thực sự nở rộ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Văn học hiện sinh thời kỳ này hiện diện ở Đức, Pháp, Nga, Anh,… Trong đó, đáng kể chúng ta có thể thấy là Đức và Pháp với các nhà hiện sinh nổi danh như: Nietzsche, Heidegger, Sartre, Camus, Beauvoir, … Dầu rất khó thống nhất các tác giả hiện sinh thành những “chi phái” một cách rõ rệt. Bởi lẽ, có bấy nhiêu triết gia hiện sinh thì có bấy nhiêu lập trường và phong thái hiện sinh. Tuy nhiên, có thể chia khuynh hướng hiện sinh chủ nghĩa trong văn học thành hai dòng chính: hữu thần và vô thần.
Về khuynh hướng hiện sinh vô thần trong văn học, chúng ta phải nhắc đến Jean-Paul Sartre, Albert Camus và Simone de Beauvoir trước tiên. Đây là những triết gia, đồng thời là những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt văn học Pháp một thời, và vượt ngoài phạm vi nước Pháp. Từ cuộc khủng hoảng do thế chiến mang lại, các văn sĩ ưu tư nhiều hơn đến sự hiện diện của con người trong xã hội và trong chính bản diện của con người. Chưa bao giờ vấn đề hiện hữu người được đặt ra một cách trực diện và cấp bách như vậy. Rõ ràng không thể phủ nhận vai trò của điều kiện chiến tranh tang tóc đã ảnh hưởng đến khuynh hướng hiện sinh vô thần trong văn học. Sartre với Bức tường, Buồn nôn, … xác lập một cách thế người trong xã hội, mổ xẻ khía cạnh hiện hữu của “hiện thể” người. Sartre nổi tiếng với sự phân tích hiện sinh trong nhiều tác phẩm của ông. Điều này cũng minh chứng sự ảnh hưởng từ hiện tượng học Husserl đến phong thái hiện sinh của Sartre. Sự phân tích có tính cách như triết lý trong văn chương của chủ nghĩa hiện sinh thực sự phù hợp cho triết thuyết này đi vào sáng tác văn học. Việc mổ xẻ có tính cách “hiện tượng học” dựa trên phương pháp của Husserl thuận tiện cho tác giả văn học phân tích làm rõ đời sống hiện hữu về tinh thần lẫn thể xác của con người trong tác phẩm văn học.
Về khuynh hướng hiện sinh hữu thần trong văn học ta có thể kể đến một tác giả đáng chú ý như: Kierkegaard, Gabriel Marcel, Jacques Maritini, Paul Tillich, Nicholas Berdyaev, Martin Buber, … Kierkegaard nói nhiều đến sự thống khổ của sinh mạng người. Con người một khi hiện diện trên cuộc đời là phải gánh lấy nỗi khổ não của đời sống. Trong đó, con người phải gánh chịu những quy định về luận lý, các quy phạm vô hình trong xã hội. Dường như bao quanh con người là đầy rẫy những ràng buộc vô hình, đến nỗi con người không thể tự do sống như con người. Abraham của Kierkegaard trong Kính sợ và run rẩy (Soren Kierkegaard, 2019) là biểu tượng sống động nhất của bi kịch chọn lựa. Đời sống không ngừng đẩy con người vào chỗ phải đưa ra lựa chọn và quyết định. Ngay cả sự chọn lựa đã là bi kịch, và khi đã chọn và quyết định thì lại tiếp tục một bi kịch khác. Niềm thống khổ của con người trên đời sống cứ liên tu bất tận. Có lẽ vậy, khuynh hướng hiện sinh hữu thần của Kierkegaard đã ảnh hưởng lâu dài đến các tác giả về sau. Kính sợ và run rẩy của ông có thể xem như sự dung hợp của thần học, triết học và văn chương.
Tuy nhiên, không chỉ xuất hiện ở thế kỷ XX mà trước đó ở nửa cuối thế kỷ XIX, khuynh hướng hiện sinh thực sự xuất hiện trong văn học qua các sáng tác của Tolstoi, Nietzsche, Dostoievsky,… đến đầu thế kỷ XX thì có Kafka, Samuel Beckett,… Có lẽ phải xác định sự hiện diện của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học cả ở những tác giả này. Chính Sartre cũng đã nhắc đến Anh em nhà Karamazov của Dostoievsky trong Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản (Existentialism is a Humanism), xem như dấu hiện của ưu tư hiện sinh đích thực. Ngoài ra Bút ký dưới hầm, Tội ác và trừng phạt của Dostoievsky cũng đặt ra những mô-típ hay tình thế hiện sinh điển hình mà con người thường bắt gặp trong đời sống. Ngoài Nietzsche và Kierkegaard có lẽ Sartre là người chia sẻ nỗi cảm hoài về phận người của Dostoievsky.
Từ Âu châu, chủ nghĩa hiện sinh mở rộng toàn bộ các nước Âu Mỹ, trở thành một đặc trưng trong lịch trình phát triển của văn học Âu Mỹ hiện đại. Phải thừa nhận, những tác giả như T. Eliot, J. Dos Passos, E. Hemingway, W. Faulkner, S. Anderson đều ít nhiều chịu ảnh hưởng khuynh hướng hiện sinh chủ nghĩa bao trùm Âu châu. Đặc biệt các tác giả Mỹ chịu ảnh hưởng khuynh hướng hiện sinh vô thần của Nietzsche trong các vấn đề mâu thuẫn và hư vô của nghĩa lý cuộc sống. Cụ thể, đó là “sự xung đột” gay gắt trong cuộc hiện hữu giữa bản thân con người với chính thượng đế, với xã hội, với tự nhiên, với tha nhân và xung đột ngay cả với chính minh. Màu sắc hư vô do đó xuất hiện ít nhiều trong sáng tác, có khi hiển lộ có lúc ẩn tàng. Faulkner đã nhắc đến cuộc thảm chiến trong tâm hồn con người với chính nó qua diễn từ Nobel: “Thảm kịch của chúng ta hôm nay là sự sợ hãi vật chất chung và phổ quát đến nay đã được chịu đựng quá lâu đến nỗi chúng ta vẫn còn có thể chịu đựng nổi. Không còn có những vấn đề tinh thần nữa. Chỉ còn có một vấn đề duy nhất: Chừng nào thì tôi sẽ bị nổ tung đây? Bởi lẽ đó, người thanh niên hay phụ nữ viết lách hôm nay đã quên mất những vấn đề của tâm hồn con người giao chiến với chính nó, điều duy nhất tạo nên tác phẩm hay bởi vì duy điều đó đáng viết, đáng khắc khoải và lao tâm khổ trí”(Nguyễn Hữu Hiệu, 1973). Cuộc đụng độ trong tâm hồn con người đến nay không thể né tranh và phủ nhận. Chủ nghĩa hiện sinh vô thần có thể xem như sự đối mặt trực diện của con người với “hư vô” trong chính tâm hồn mình.
1.2. Vài nét về khuynh hướng hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam 1954 – 1975
1.2.1. Bối cảnh du nhập và phát triển
Phải nói rằng, đời sống chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam tỏ ra muộn mằn hơn ở Tây phương tầm hai thập kỷ. Thế nhưng điều này không cản trở chủ nghĩa hiện sinh trở thành một trào lưu rộng khắp tại Sài Gòn. Từ cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, chủ nghĩa hiện sinh đã được đưa vào môi trường đô thị miền Nam Việt Nam, qua nhiều ngã đường khác nhau, mà một trong số đó đáng kể nhất là môi trường trường ốc, báo chí, …
Trong giai đoạn đầu, tức là thời kỳ 1954 đến đầu những năm 1960 thì chủ nghĩa hiện sinh hiện diện như một môn học trong nhà trường. Chủ nghĩa hiện sinh trở thành một môn học có tính cách giáo khoa được giảng dạy phổ biến ở bậc đại học. Việc giảng dạy chủ nghĩa hiện sinh ở bậc đại học cũng kéo theo mối quan tâm ngày càng lớn đối với chủ nghĩa hiện sinh. Bởi không chỉ người đọc bình dân mà đặc biệt là sinh viên đại học phải ra sức tìm hiểu triết học này để đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu trên giảng đường.
Chủ nghĩa hiện sinh là học thuyết mới, được dư luận quan tâm nên sinh hoạt tư tưởng ở đô thị miền Nam 1954-1975 cũng quan tâm theo, là lẽ dĩ nhiên, cũng là điều dễ hiểu thôi. Huống hồ chủ nghĩa hiện sinh là chủ thuyết cổ xúy, kêu gọi và bênh vực cho quyền sống của con người, giúp con người mổ xẻ và thấu hiểu cuộc hiện hữu của bản thân mỗi con người, nhất là mỗi người trẻ tuổi. Bởi vậy, nói sao mà những người trẻ tuổi lại quan tâm nhiều đến chủ nghĩa hiện sinh như vậy.
Qua một thời gian, coi như chủ nghĩa hiện sinh ngày càng bám rễ vào đời sống con người đô thị miền Nam. Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện dày đặc hơn, nhất là sau khi chế độ gia đình trị của họ Ngô sụp đổ, bước sang thời kỳ đệ nhị cộng hòa, thay vì nói tới chủ nghĩa duy linh nhân vị thì người ta nói thẳng đến vấn đề chủ nghĩa hiện sinh, trực diện và có trọng tâm hơn. Giai đoạn từ thập niên 1960 trở đi, chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện một cách có hệ thống hơn trên các cơ quan ngôn luận. Từ các nhật báo, tuần báo, nguyệt san, v.v… giới thiệu các tác giả thời danh của chủ nghĩa hiện sinh một cách lớp lang, lại có thêm phần nghiên cứu của các giáo sư đầu ngành triết học, khiến cho chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện một cách đường hoàng và chiều sâu hơn. Không còn đơn thuần chỉ là một trào lưu, một hiện tượng dư luận gây xôn xao mà trở thành một vấn đề chính thống hệ trọng, rất đáng để bàn luận, chia sẻ. Việc nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh được mở rộng, có bề dày hơn. Cụ thể là những so sánh đối chiếu giữa chủ nghĩa hiện sinh và những luồng tư tưởng khác, khiến cho chủ nghĩa hiện sinh hiện ra với nhiều dáng vẻ, ngóc ngách, biểu hiện, đồng thời khai mở thêm nhiều suy tư băn khoăn về nền triết học này.
Một số người có công giới thiệu và đưa chủ nghĩa hiện sinh vào không gian văn học đô thị miền Nam 1954-1975 như: Trần Thái Đỉnh. Lúc đầu Trần Thái Đỉnh chỉ dự định viết một số bài giới thiệu các triết gia hiện sinh mà thôi. Ông đăng dần trên tạp chí Bách Khoa khoảng thời gian 1961-1962, về sau thấy công chúng quan tâm, ông cho in thành sách. Quyển Triết học hiện sinh ra đời, đây là sách gối đầu giường của sinh viên lẫn người đọc phổ thông, những ai có lòng quan tâm đến chủ nghĩa hiện sinh nói chung. Đây là quyển sách dễ đọc dễ hiểu, có lẽ bởi cách trình bày của Trần Thái Định có lớp lan, trật tự, trình bày các khái niệm khúc chiết mạch lạc, rõ ràng, trình bày các nhân vật của triết học hiện sinh theo dòng thời gian dễ nắm bắt. Cho nên, thời đó, quyển sách này thành best seller, được công chúng hàn lâm lẫn công chúng bình dân đón nhận nhiệt tình. Nhắc chuyện này, để biết rằng chủ nghĩa hiện sinh đi vào không gian văn học đô thị miền Nam trước hết bởi sự giới thiệu của các giáo sư đại học. Bởi lẽ họ có điều kiện đi du học ở Tây phương, trực tiếp tiếp thu nền học vấn ở bản quốc, trực tiếp nghiên cứu và học tập về triết học hiện sinh. Sau khi về nước, họ cũng mang theo những kiến thức này về nước. Do đó, sau khi đã về nước, họ ra sức truyền bá và du nhập chủ thuyết này vào đời sống học thuật. vậy rồi, từ đời sống học thuật mở rộng sang đời sống giáo dục, rồi mở rộng sang đời sống sáng tác. Mới đầu là những bài giới thiệu, dịch thuật, khảo cứu. nhưng sau vì mối quan tâm ngày càng lớn của công chúng và độc giả mọi tầng lớp ngày càng nhiều công trình chuyên khảo và nghiên cứu chuyên sâu về chủ nghĩa hiện sinh ra đời, đáp ứng nhu cầu càng ngày càng nhu cầu của bạn đọc.
Bên cạnh Trần Thái Đỉnh, còn có những giáo sư đại học khác cũng có công truyền bá, du nhập chủ nghĩa hiện sinh vào miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 như: Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị, Nguyễn Văn Trung, Ngô Trọng Anh, … Một số công trình của giáo sư Lê Tôn Nghiêm như: Những vấn đề triết học hiện đại , Socrate - tiêu biểu cho triết học hiện sinh hay triết học theo chân lý…?, Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây Phương, Đâu là căn nguyên tư tưởng? Hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger, … Có thể nói, các vị thầy này rất đáng kính và công lao thì rất lớn. Bởi họ đã đào tạo và hướng dẫn cho rất nhiều thế hệ sinh viên đóng vai trò như người đọc chuyên môn. Chưa kể, trên phương diện học thuật, ngôn luận, họ cũng có nhiều bài viết sâu sắc, giúp cho công chúng hiểu nhiều hơn về chủ nghĩa hiện sinh.
Trên phương diện báo chí, sự du nhập và ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh biểu hiện ở nhiều cơ quan báo chí khác nhau. Trong số này ta có thể kể mốt số cơ quan báo chí như: Hiện đại, Trình bày, Vấn đề, Nghệ thuật, Bách Khoa, Sáng Tạo, Tư tưởng, … Phải nói là báo chí hoạt động năng nỗ, giới thiệu được nhiều vấn đề của chủ nghĩa hiện sinh. Mỗi người một ý mỗi người một bài, làm cho cách hiểu của độc giả về chủ nghĩa hiện sinh thêm sâu sắc, toàn diện. Mỗi kiến giải của các vị giáo sư có sức nặng hơn người, có hiểu biết sâu sắc mà cho đến nay khó có thể vượt qua, các luận giải này đến nay vẫn còn nguyên giá trị như thuở ban đầu.
Từ phê bình, giới văn sĩ trí thức ít nhiều đều tiếp thu một số luận đề hiện sinh. Rồi họ ưu tư, băn khoăn, sầu đời, cám cảnh trước hiện tình đất nước. Rồi trong sáng tác văn xuôi hay thơ ca, bạn đọc thấy có nhiều triết lý, vài vấn đề hiện sinh. Thuyết hiện sinh đi vào trang viết, ẩn hiện trong từng con chữ, cùng ngụp lặn với con người Nam Việt thời bấy giờ. Nhưng để nói tới văn học hiện sinh của thời đại bấy giờ, nói tới một dòng chảy văn học hiện sinh đúng nghĩa trong không gian văn học đó, liệu chúng ta có đủ can đảm mà xác quyết hay không?
1.2.2. Dấu ấn hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam 1954-1975
Ngày càng nhiều công trình nghiên cứu về văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975. Dường như chúng ta nhận thấy có xu hướng trở lại tìm hiểu và ghi nhận thành tựu văn học giai đoạn này. Điều này thực sự cần thiết để bức tranh văn học hiện đại Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn. Trong đó, một trong những đóng góp lớn và nổi bật nhất là dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác văn học.
Giáo sư Lê Đình Kỵ có nhận xét rằng: “Không phải ngẫu nhiên mà triết lý hiện sinh đã tìm thấy một miếng đất tốt ở xã hội Mỹ ngụy. Không phải đa số những người cầm bút có được nhận thức đúng đắn và sâu sắc về triết thuyết hiện sinh cũng như về văn học hiện sinh của phương Tây. Mặc kệ, người ta cứ viết bừa về chủ nghĩa hiện sinh vì đánh hơi thấy trong đó có những cái phù hợp với thời thượng, với tâm lý hoài nghi, phá phách, buông trôi, hưởng lạc trong xã hội Mỹ ngụy”(Lê Đình Kị, 1987). Như vậy chúng ta phải nhìn nhân sự hiện diện của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam một cách tỉnh táo. Bởi không phải tác giả nào có một vài nét “hoài nghi” đều là “hiện sinh. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng không gian xã hội đô thị miền Nam trong giai đoạn này có những điều kiện phù hợp cho hiện sinh chủ nghĩa nảy nở phát triển. Nhất là tình thế chiến tranh tương đồng, từ thế chiến thứ II ở Âu châu cho tới cuộc kháng chiến chống Mỹ trên quê hương Việt Nam trong giai đoạn này càng khiến cho con người ưu tư không ngừng về thân phận của mình. Như vậy, chủ nghĩa hiện sinh đã ảnh hưởng và để lại dấu ấn như thế nào trong văn học đô thị miền Nam 1954-1975?
Từ việc giảng dạy và nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh trong văn học, thì chủ nghĩa này dần phổ biến trong đời sống xã hội. Vấn đề hiện sinh trở thành vấn đề thời thượng được nhiều người quan tâm bàn luận. Đối tượng độc giả của sáng tác hiện sinh càng ngày càng được mở rộng. Điều này càng thúc đẩy người viết tham gia vào “cơn sốt” chủ nghĩa hiện sinh.
Thơ ca có thể nói là địa hạt trước tiên chịu ảnh hưởng hiện sinh chủ nghĩa. Từ sự ảnh hưởng này, dấu ấn để lại trong thi ca chính là một nỗi buồn căn bản. Thơ ca thể hiện bằng ngôn từ và mỗi ngôn từ như một tế bào buồn bã. Bởi nhận diện sự bất lực và thân phận mà con người phải gánh chịu không thể tránh né, thơ ca bộc lộ cảm thức sâu sắc về hiện hữu. Ta có thể nhắc tới một số cây bút tiêu biểu như: Thanh Tâm Tuyền (Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ/ Thanh Tâm Tuyền), Nhã Ca (Thôi trả cho dòng sông tối đen/ Trả cho người đó nỗi ưu phiền), Nguyễn Đức Sơn (Còn một mình hỏi một mình/ Có chăng hồn với dáng hình là hai), Bùi Giáng (Hỡi Thượng đế! Cúi đầu con thưa lại/ Ở trần gian ai cũng khổ liên miên), Nguyên Sa (Đôi mắt ấy đột nhiên buồn không nói/ Đột nhiên buồn chạy đến đứng trên mi), và Du Tử Lê (Anh ôm cả biển vào lòng/ Cả mênh mông nữa cả tròng mắt sâu),… Phải chăng vì vậy mà Nguyễn Thị Việt Nga đã nhận định về thơ ca thời kỳ này như sau: “Những dằn vặt, suy tư, đau khổ ấy chịu ảnh hưởng rõ rệt của tư tưởng triết học hiện sinh: dằn vặt suy tư về cái chết, về thân phận bé nhỏ của con người, về sự hư vô của cuộc sống, về nỗi tàn phai, sự cô đơn… Nỗi buồn đau “sống trong nỗi chết” được nhắc lại nhiều lần. Kiếp người chỉ là “chân bé nhỏ đi trong sầu bão lớn”. Thơ ca đô thị miền Nam 1954 – 1975 nhiều chết chóc, thương đau, chia lìa, tăm tối, nước mắt và địa ngục”.
Cũng như thơ ca, văn xuôi (nhất là tiểu thuyết) cũng góp phần bộc lộ nỗi bi đát trong cuộc sống con người trên cõi đời. Các nhà văn có khuynh hướng đi sâu mổ xẻ các khúc mắc tâm lý trong việc đối diện cuộc sống hằng ngày. Có nhiều tác phẩm văn xuôi, chung ta nhìn thấy tác giả diễn đạt hàng trang liền những băn khoăn liên hồi trong tâm lý nhân vật. Đáng kể có sự xuất hiện của các nhà văn nữ, mà đối với tâm hồn nữ, dường như ưu tư hiện sinh là biểu hiện nổi bật. Chẳng hạn các sáng tác của Nguyễn Thị Hoàng (Ngày qua bóng tối, Tình yêu địa ngục, Buồn như đời người, Một ngày rồi thôi, …) đầy rẫy ưu tư. Nhận vật không ngừng tự vấn về chính diễn biến trong tâm trạng. Từ tình yêu, cuộc sống, chiến tranh, ly tán, tội lỗi, … rất nhiều vấn đề góp phần phơi bày cuộc hiện sinh con người trong bối cảnh đầy biến động.
Bên cạnh ưu tư, văn xuôi đô thị miền Nam còn cho thấy cuộc lưu đày tâm tưởng qua nỗi trống trải bất tận khiến con người vùng vẫy trong bóng tối hư vô đó. Con người nổi loạn, phi luân, phủ nhận, cô độc bất tận (Nguyễn Thị Việt Nga, 2012). Sự phủ nhận này bản chất là sự phản kháng có phần nào giống với việc đánh đổ hệ giá trị của Nietzsche (Nguyễn Văn Trung, 1964). Phải chăng đây là nhu cầu thiết yếu của con người thời đại – con người khao khát thiết lập một hệ giá trị sống mới. Đòi hỏi đó khiến con người không ngừng quẫy đập, tương tác với đời sống. Chính vậy khiến không ít người lầm tưởng cho rằng văn học hiện sinh biểu hiện tính chất suy đồi sa đọa của thời đại, gắn văn học hiện sinh với những trào lưu hippie của giới trẻ (Hà Mậu Nhai, 1966). Trái lại, văn học hiện sinh nằm ở đòi hỏi rất căn bản. Đòi hỏi về giá trị sống của con người. Sự nổi loạn, phi luân ấy, chúng ta có thể nhìn thấy qua một số sáng tác của Mai Thảo (Đêm lạc đường, Khi mùa thu tới, Sau khi bão tới, Cũng đủ lãng quên đời, Sau giờ giới nghiêm, Mang xuống tuyền đài,…), Dương Nghiễm Mậu (Gia tài người mẹ, Đêm tóc rối, Tuổi nước độc, Gào thét, …), Nguyễn Thị Thụy Vũ (Mèo đêm, Lao vào lửa, Thú hoang, Như thiên đường lạnh, ho trận gió kinh thiên, …), Nguyễn Thị Hoàng (Cuộc tình trong ngục thất, Trên thiên đường ký ức, Mảnh trời cuối cùng, Về trong sương mù, Vực nước mắt,…), Túy Hồng (Thở Dài, Vết Thương Dậy Thì, Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Những Sợi Sắc Không, Biển điên, …), Nguyễn Đức Sơn (Cái chuồng khỉ, Xóm chuồng ngựa, …).
Từ việc giới thiệu Samuel Beckett, Eugene Ionesco của Sơ Dạ Hương trên tuần báo nghệ thuật chúng ta thấy xuất hiện trong kịch trường đô thị miền Nam những sáng tác có khuynh kịch phi lý như vậy. Ví dụ như vở kịch Biển tối của Lữ Hồ. Cách bài trí, bố cục sân khấu giữa khung cảnh đen tối, bóng dáng người nhập nhòe, cho thấy quan niệm về sự hiện hữu người trong cuộc sống. Rõ ràng, Lữ Hồ thể hiện sự quay lưng của con người với những mực thước lý tưởng xã hội. Cuộc tranh luận giữa nhân vật A với các chủ thể mang tính đại diện như nhà truyền giáo, nhà cách mạng, nhà giáo, tức các đại diện của tôn giáo, chính trị và luân lý. Các nhân vật lại ngồi trung lu, nhô đầu ra đối thoại, chẳng phải là cách ẩn dụ cho sự trói buộc cuộc sống của con người hay sao. Dù ở cương vị, tư cách nào, con người vẫn không ngừng bị trói buộc, hạn chế. Tình trạng tù đày bao trùm cuộc sống con người.
Có thể nói, chủ nghĩa hiện sinh đã ảnh hưởng hầu như mọi phương diện của đời sống văn học đô thị miền Nam. Sự ảnh hưởng này để lại nhiều dấu ấn đáng kể trên phương diện thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, … Tuy nhiên, trong đó chúng ta cần có cái nhìn khoa học để đánh giá dấu ấn hiện sinh trong sáng tác văn học.
1.2.3. Những gương mặt tiêu biểu trong khuynh hướng hiện sinh
Văn xuôi đô thị miền Nam 1954-1975 là vườn hoa nghệ thuật đầy hương sắc với số lượng tác giả tác phẩm phong phú. Mà nhờ tác phẩm lên án chỉ trích thậm tệ của Trần Trọng Đăng Đàn mà chúng ta biết được những tên tuổi rơi vào nạn đốt sách năm nào. Cũng may có bộ sách ấy mà nhiều tài liệu trước đây còn lưu lại được vài chữ. Nghĩ phải mang ơn công mạt sát của Trần Trọng Đăng Đàn năm nào. Trong những tên tuổi thời danh bấy giờ, ta có thể nhắc tới một số cây bút như: Mai Thảo, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, … Các cây bút nữ như Nhã Ca, Trùng Dương, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Trần Thị Ngh, …
Như đã nói, chủ nghĩa hiện sinh bấy giờ như đại dịch tại các đô thị miền Nam. Hễ đụng tới đâu người ta cũng có thể mổ xẻ lôi ra vài ý hiện sinh, vài nét hiện hữu, hoặc khép vào những luận đề kiểu như băn khoăn, u hoài, sầu tư hiện hữu và thân phận, v.v… Nhưng người thực sự hiểu và viết dưới ảnh hưởng của thuyết hiện sinh thường không nhận mình, hoặc không dại gì tự khép mình vào chủ thuyết nào. Trong số những cây viết ấy, nổi lên ở cả mảng thơ và truyện là Thanh Tâm Tuyền.
Trong địa hạt văn xuôi, dường như hình ảnh con người hiện sinh được các văn sĩ chú ý khai thác. Vấn đề chủ nghĩa hiện sinh thực chất là vấn đề con người. Do đó, chúng ta thấy xuất hiện dày đặc trong các tác phẩm truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết là vấn đề hiện hữu người, vấn đề thân phận con người. Mà phổ biến và dễ thấy hơn cả là những con người cô độc lạc lỏng giữa đời sống. Đó là Bếp Lửa, Mù Khơi, Tiếng Động, Một chủ nhật khác của Thanh Tâm Tuyền. Cụ thể: “Cô độc không đơn thuần là bị bỏ rơi, hoặc biệt lập với phần còn lại – phi ngã; cô độc vì bị biệt lập và xa lạ với cuộc đời của chính mình. Sự cô độc bản chất, đến mức ngay cả sự biệt lập với cái phi ngã cũng không còn. Sự hiện hữu cũng không còn hiện hữu nữa. Sự hiện hữu đến mức không còn hiện hữu nữa đến lượt nó lại là sự hiện hữu ở một dạng khác. Hiện hữu tồn hoạt với trạng thái nín lặng tuyệt đối. Biểu hiện của điều đó là sự phủ nhận toàn thảy. Các nhân vật chối bỏ, phủ nhận lời của nhau. Phúc/Trường với Hồng, Phúc/Trường với Châu, Phúc/Trường với Khả. Các nhân vật là những tinh cầu cô độc không tìm thấy liên kết. Ngay cả Phúc/Trường với Hồng – người đàn bà bị đồn đoán có một cuộc tình vĩ đại với ông Nguyễn, hai con người thậm chí đã bị lùa về phía nhau đến mức chung chạ xác thịt nhưng rồi cuối cùng vẫn tuyệt đối cô độc. Có chăng là vài phút yếu lòng, tựa nương vào nhau tìm chút hơi ấm sẻ chia gắn bó lúc tấm lòng đã vụn vỡ tan hoang. Kì cùng, sau những tan nát ấy, giữa các nhân vật vẫn không hề có sự kết nối nào. Yếu tính của nhân vật ở đây, ngoài cô độc ra, chắc chỉ còn hư vô. Đó là những bóng hình đi lang thang, chịu đọa đày trong chính những bế tắc của việc sống mà mỗi người họ chỉ có thể tra hỏi mà không sao trả lời. Sống là kéo lê đời để hỏi mà chẳng thể trả lời cho một câu hỏi mãi mãi bắt đầu mà không bao giờ hoàn thành”(Võ Quốc Việt, 2020). Trong văn xuôi, con người cô độc hồ như là một đặc sản của chủ nghĩa hiện sinh. Cùng với Thanh Tâm Tuyền còn có Hoàng Hải Thủy, Mặc Đỗ, Trùng Dương, Mai Thảo, Nguyễn Đức Sơn, v.v… cũng nói nhiều về con người cô độc trong địa hạt chữ nghĩa. Nguyễn Đức Sơn mặc dù cũng nổi tiếng với thơ nhưng ông có hai quyển sách văn xuôi khá nổi tiếng. Ẩn chứa trong đó cũng có nhiều tính ý hiện sinh, rất đáng để quan tâm. Đó là hai tác phẩm: Xóm chuồng ngựa, Cái chuồng khỉ. Có lẽ hai tác phẩm này với phần tiêu đề khá ấn tượng cũng khiến độc giả liên tưởng phần nào hoàn cảnh đời người bức bối mà nhân vật phải trải qua. Đó là biểu tượng cho đời sống con người trong hoàn cảnh ngột ngạt. Con người sống chẳng khác gì bọn ngựa, bọn khỉ, sống trông chuồng, bị nuôi nhốt. Cuộc đời là những lồng củi khổng lồ, đời sống là tù ngục căn bản, là bản án lưu đày biệt dạng biệt hình trong tù ngục của tâm hồn và thân phận. Làm người nghĩa là làm người tù.
Chỉ giới thiệu sơ qua vài tác giả vậy thôi, thực ra vẫn còn nhiều nhà văn thời danh với nhiều tác phẩm đáng kể. Chẳng hạn như Nhóm Đêm Trắng với các nhà văn như Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Xuân Hoàng, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật, v.v… Ngoài ra còn nhiều cây viết kỳ cựu trên Tuần báo Nghệ thuật, Sáng tạo, Bách Khoa, Trình Bày, Vấn Đề, … khiến cho sinh hoạt văn chương bấy giờ rất là sôi nổi và sôi động náo nhiệt. Chưa kể còn nhiều nhà văn nữ đóng góp đáng kể cho văn chương đô thị miền Nam mà tác phẩm của các bà xuất hiện dày đặc trên văn đàn, lắm khi khiến cho các ông choáng ngợp bởi sức viết liên tục và ra sách đều đặn liên tục không ngừng nghỉ, thậm chí có xu hướng tăng lên theo mỗi năm. Đó là các tên tuổi lừng lẫy, những con ngựa cái của văn chương đô thị miền Nam: Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Túy Hồng, Nhã Ca, … “Thế giới trong tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng rất riêng, xa lạ, như ở một cõi khác. Con người sống mà như đang mộng du. Họ đều không có gia đình, không người thân thích. Họ có tình yêu thì tình yêu luôn tuột khỏi tay. Thủy Túy (tiểu thuyết Vực nước mắt) cũng được miêu tả là một cô gái không có gia đình. Người thân yêu duy nhất và cũng là người yêu của cô là Trung úy Bảo. Nhưng Bảo tử trận. Thủy Túy đơn độc trong hành trình đi tìm người yêu. Đi mãi, đi mãi, lăn lóc hết nơi này đến nơi kia, cạn nước mắt mà chưa biết sự thật rằn người mình yêu đã chết” (Nguyễn Thị Việt Nga, 2012). Nỗi ám ảnh cô đơn và cái chết bủa vây. Tác phẩm là chuỗi dài dằng dặc những hành trình đi tìm đi kiếm đi lang thang vô định vô bờ bến, nhân vật đa phần như kiểu người lạc lỏng, mộng du, đó là hành trình tìm kiếm mà cũng là hành trình truy vấn trong tâm tưởng tự thân.
Với thơ, ta phải nhắc đến những người cách tân và đem lại diện mạo mới cho thơ ca thời kỳ này: ví dụ như Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Hoàng Trúc Ly, Du Tử Lê, … Trong đó, Bùi Giáng là một tiếng thơ kỳ lạ và xưa nay hiếm. Ông là nhà thơ có nhiều giai thoại, truyện kể xoay quanh cuộc đời sống xã hội và cuộc đời sống thơ ca. Đời ông và đời thơ có những nhập nhằng khó hiểu, khúc mắc và bí ẩn mà hậu thế đến nay vẫn không sao hiểu nổi và hiểu cho kỳ hết.
Thơ Bùi Giáng là thơ tinh thể, là thơ hiện sinh, là thơ tiên thơ Phật – chung quy là nguồn thơ kỳ lạ, hiếm thấy. Từ những dịch phẩm về Nietzsche, Heidegger cho tới Sartre, Camus, … Bùi Giáng tỏ ra gần gũi với nhiều yếu nhân của chủ nghĩa hiện sinh. Trong đó, ông tỏ ra gần gũi và yêu thích nhiều hơn cả, hay nói tới Heidegger nhiều hơn cả. Từ chỗ đó, thơ ca của ông dường như cũng chịu ảnh hưởng bởi lối thơ ca Đức giàu tính triết lý. Có những câu thơ xuất thần, xuất hồn, mà vẻ đẹp của nó cũng như vẻ đẹp của những kết tinh ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ của Bùi Giáng là sự kết tinh của tư tưởng hiện sinh vậy.
Thơ của Thanh Tâm Tuyền thì quả thực là một vũ trụ hiện sinh nặng nề đau buồn. Ông là nhà thơ có nhiều cách tân táo bạo, đóng góp nhiều cho thơ ca đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975. Ông là tiếng nói mạnh mẽ hơn tron nhóm Sáng tạo, Ông cổ súy thơ tự do, dứt khoát dân thân vào thơ Tự do. Với hai tập thơ: Tôi không còn cô độc và Liên. Đêm. Mặt trời tìm thấy, Thanh Tâm Tuyền đã đóng móc mình vào dòng chảy thơ ca hiện đại Việt Nam. Có nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và rất nổi tiếng, ở đó người đọc thấy được những ưu tư hiện sinh nặng nề, đằng đằng, mênh mông, điều này cho thấy ông rất ưu tư về hiện sinh, rất băn khoăn về thân phận con người, rất quan tâm lo lắng số phận hiện hữu của con người trong cuộc đời này. Đó là bài thơ rất nổi tiếng của ông, bài Lệ đá xanh. Thơ của Thanh Tâm Tuyền là một hình thức diễn ngôn mới, rất tân thời, mà qua đó, chúng ta thấy được những băn khoăn hiện hữu cũng rất mới và rất tân thờ. Ở đó, chúng ta còn nhìn thấy thủ pháp tân hình thức (Võ Quốc Việt, 2013), thấy được những cách tân táo bạo tron tư tưởng nghệ thuật, cảm hứng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật của ông rất độc đáo, riêng biệt. Sở dĩ nhắc tới Thanh Tâm Tuyền ở đây là bởi vì trong bối cảnh thơ ca tự do lúc bấy giờ trong không gian văn học đô thị miền Nam thì Du Tử Lê có thể xem là thế hệ sau Thanh Tâm Tuyền và ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi các anh đi trước, chịu ảnh hưởng lối thơ tư do của Thanh Tâm Tuyền. Bởi vậy, dưới đường hướng và sự ảnh hưởng này mà Du Tử Lê cũng hướng đến và khao khát cách tân thơ, nhất là thể thơ lục bát. Du Tử Lê chịu khó tìm tòi và đổi mới, khiến ông chịu những phản ứng nhất thời mà về sau gặt hái được thành công, như Nguyễn Hưng Quốc sau này đã ghi nhận thành tựu đóng góp cách tân đổi mới của ông trong thơ qua lối chấm câu và viết hoa viết thường không giống ai của ông. Đó là sự ghi nhận cho nỗ lực cách tân thơ, làm mới thơ ca đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 của Du Tử Lê vậy.
1.3. Sự nghiệp sáng tác của Du Tử Lê
1.3.1. Những chặng đường nghệ thuật
Năm 1942, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, trong hoàn cảnh sục sôi của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy cam go, Lê Cự Phách ra đời. Du Tử Lê là bút hiệu của ông sau này. Du Tử Lê là con út của ông Lê Đình Vỹ, một thầy khóa nổi tiếng đẹp trai và có giọng bình văn lôi cuốn, ông mở lớp dạy học tại gia. Mẹ Du Tử Lê là bà Hoàng Thị Lan, người tỉnh Hà Đông.
Về gia đình, Du Tử Lê có lần tự kể về gia cảnh của mình như sau: “Tôi được sinh ra trong một gia đình, với người cha là một thầy đồ, theo Nho giáo và, mẹ là một tín đồ Phật giáo. Thuở ấu thơ, tôi có nhiều dịp theo mẹ tôi tới chùa, nhưng không hề có một chút ý thức nào về đạo Phật, hay giáo lý nhà Phật”.
Du Tử Lê tên thật Lê Cự Phách là nhà thơ di cư từ miền Bắc vào Nam từ biến cố 1954, chia đôi đất nước. Ông sống và làm việc như phóng viên chiến trường trong thời kỳ hai miền nội chiến giai đoạn 1954-1975. Ông làm thơ từ sớm, từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường, ở ngoài Bắc.
Về học tập, Du Tử Lê đã từng học ở Trung học Chu Văn An, sau học ở Đại học Văn Khoa. Sau nữa, ông làm việc như phóng viên chiến trường, rồi trở thành Thư ký tòa soạn. Tựu trung, ông hoạt động nhiều về mảng báo chí và sáng tác văn học. Đây là “căn cước” đời văn chương của ông.
Về hành trình nghệ thuật của Du Tử Lê chúng ta có thể tạm chia ra các thời kỳ như sau:
- Thời 1954-1975: di cư vào Nam, sống, học tập, sáng tác.
- Thời 1975 – 2019: thời kỳ sống lưu vong và tiếp tục sáng tác ở hải ngoại.
Dựa trên những cột móc quan trọng của lịch sử xã hội và khúc quanh trong đời thơ Du Tử Lê, chúng tôi thiết nghĩ việc phân chia thời kỳ như này, dường như vẫn chưa thật thỏa đáng. Tuy nhiên, đó là những chặng đường chính, còn trên mỗi giai đoạn thời gian lại có thêm những bước ngoặt tư tưởng khác nữa thì trong luận văn chúng tôi sẽ tiếp tục làm rõ thêm sau đó.
1.3.1.1. Giai đoạn 1954-1975
Bút danh Du Tử Lê xuất hiện từ 1958, trên tạp chí Mai. Du Tử Lê có nhắc lại, với lần xuất hiện này trên tạp chí Mai, Du Tử Lê gắn liền với đời thơ đời văn nghệ của ông. Lúc ấy, cái tên Du Tử Lê vừa xa lạ vừa gần gũi, gây tò mò cho độc giả. Thực sự, lúc đó ông vẫn chưa có nhiều danh tiếng như các tên tuổi đàn anh đã thành danh trên văn đàn như Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền. Cái tên Du Tử Lê hồi những năm 1958 vẫn còn nhỏ bé và tương đối xa lạ với độc giả. Thế nhưng, nhà thơ kể lại rằng, kể từ lúc đó, ấn tượng về cái tên Du Tử Lê đã bắt đầu đi vào công chúng, gây được chút ít chú ý nơi độc giả đương thời.
Trong giai đoạn 1954-1975, Du Tử Lê đóng góp vào sinh hoạt thơ ca, và thơ ông được ghi nhận qua Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967–1972 được trao cho ông vào năm 1973. Đây là dấu ấn quan trọng trong đời thơ của ông. Việc này cũng chứng minh rằng, tiếng thơ của ông đã có chỗ đứng vững chắc trong lòng độc giả đô thị miền Nam, cũng như lịch sử thơ ca hiện đại. Giải thưởng này cũng xem như ghi nhận đóng góp và lao động nghệ thuật miệt mài của Du Tử Lê ngay từ trước 1975.
Ở chặng đường nghệ thuật này, chúng tôi muốn giới thiệu qua một số tập thơ tiêu biểu của Du Tử Lê:
- Thơ Du Tử Lê. Tác giả xuất bản, 1965.
- Tình khúc tháng mười một. Nhân Văn xuất bản, 1965.
- Tay gõ cửa đời. Nguyễn đình Vượng xuất bản, 1967.
- Thơ Du Tử Lê (1967-1972) . Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản, 1972.
- Lục bát Du Tử Lê. Con Đuông (Cần Thơ), xuất bản, 1973
- Đời mãi ở phương đông. Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản, 1974.
Phải nói rằng, bên cạnh thơ thì văn xuôi cũng là mảng văn chương mà Du Tử Lê có nhiều thành tựu. Tuy nhiên, văn xuôi Du Tử Lê lại lạ một địa hạt khác mà chúng tôi cho rằng cần nghiên cứu nghiêm túc ở công trình khác. Chỉ với thơ, Du Tử Lê đã có đóng góp rất lớn vào sinh hoạt chữ nghĩa đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975. Với thơ, Du Tử Lê mang lại luồng gió mới, tươi mát, nồng nàn, thắm thiết. Dườn như, ta nhận thấy, giữa hoàn cảnh bom đạn chiến tranh, thơ tình của ông như làn gió mát, xua đi cái nóng và nhiệt lượng kinh khiếp của chết chóc, để con người thời bấy giờ vẫn còn chốn để yêu và sống, vẫn còn bầu không khí để hít thở tình người và tình đời.
Một đặc trưng nổi bật nữa trong đời thơ Du Tử Lê, đó là thơ của ông hay được phổ nhạc. Chẳng biết lí do gì nhưng có lẽ hồn thơ Du Tử Lê đã gặp gỡ với các nhạc sĩ. Để từ đó, nhạc sĩ nghe ra và cùng rung động với những vần thơ của ông. Thơ ca của Du Tử Lê nhờ có âm nhạc càng thêm thăng hoa và đến gần hơn với độc giả. Trong giai đoạn 1954-1975, có thể nói “Khúc thụy du” là sáng tác nổi tiếng nhất của Du Tử lê. Và cũng nhờ âm nhạc mà “Khúc thụy du” sống mãi với công chúng. Phải thừa nhận rằng, thơ và nhạc là hai khía cạnh không thể tách rời trong hành trình sáng tác và thành tựu nghệ thuật của Du Tử Lê hơn nửa thế kỷ qua. Cho tới nay, sức sống của thơ Du Tử Lê vẫn bền bỉ cũng bởi sức sống của âm nhạc. Nhạc và thơ hầu như không thể phân biệt được trong đời sáng tác của Du Tử Lê vậy.
Ngoài tình yêu, nét thu hút và độc đáo của thơ Du Tử Lê chính là những ưu tư về thân phận, kiếp người. Thơ của ông có chiều sâu tư tưởng bởi chính nội dung này. Đằng sau tình yêu và sự nồng nàn của xúc cảm đôi lứa, thì người đọc còn nhận ra được nỗi ưu tư khôn nguôi về đời sống. Mà ở đó, con người phải đối diện thường trực với hư vô và trống rỗng. Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người? Đây là ưu tư suốt đời, mà dù ở Việt Nam hay hải ngoại thì Du Tử Lê vẫn mang nặng trong lòng của ông. Thậm chí, ta có thể nói tuyệt vọng, hư vô, của kiếp người là hành trạng sinh mệnh, hành trang tồn tại mà Du Tử Lê đã đeo mang như một bản án. Ông mang theo nó trên khắp mọi nẻo đường đời, để nó dày vò ông, đay nghiến tâm hồn ông, rỏ thành từng giọt thơ, cống hiến cho đời.
1.3.1.2. Giai đoạn sau 1975
Theo thống kê trên chính trang cá nhân của nhà thơ Du Tử Lê, được coi sóc và quản trị nội dung từ lúc nhà thơ còn tại thế, thì chúng tôi muốn liệt kê ra sau đây một vài thành tựu thơ ca mà Du Tử Lê đã đạt được, trong quãng thời gian sống ở hải ngoại. Cụ thể:
- Thơ của ông xuất hiện trên nhiều tạp chí trong và ngoài nước. Ông có thơ đăng trên nhật báo Los Angeles Times, 1983 và New York Times, 1994.
- Năm 1993, G.S. Neil L. Jaimeson chọn dịch và phân tích một bài thơ của Du Tử Lê in trong cuốn “Understanding Vietnam,” xuất bản bởi liên đại học Berkeley, UCLA, London, là sách giáo khoa về văn học Việt Nam cho nhiều đại học tại Hoa Kỳ và Âu Châu. Vẫn theo tác giả này thì cùng với Nguyên Sa, sự đóng góp trí tuệ của Du Tử Lê cũng như LM Thanh Lãng và Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam là điều không cần phải hỏi lại (Understanding Vietnam trang 344).
- Du Tử Lê là một trong 6 nhà thơ Việt Nam thuộc thế kỷ thứ hai mươi, có thơ được chọn in trong tuyển tập “Thi Ca Thế Giới Từ Thời Thượng Cổ tới hôm nay/ World Poetry - An Anthology of Verse from Antiquity to Our Time” do nhà W.W. Norton New York, New York ấn hành năm 1998.
- Thơ của ông cũng được một số đại học dùng để giảng dạy cho sinh viên từ năm 1990. Ký giả Jean Claude Pomonti, một nhà báo hàng đầu của tạp chí Le Monde đã chọn một bài thơ của Du Tử Lê để dịch sang Pháp ngữ và phê bình trong tác phẩm “La Rage D’Être Vietnamien” do nhà Seuil de Paris, xuất bản năm 1975.
Phải thừa nhận rằng, càng về sau, Du Tử Lê càng sáng tác hăng say. Biến cố 1975 hẳn nhiên cũng ảnh hưởng nhiều đến tư duy thơ, đời thơ của ông. Nhưng Du Tử Lê đã nhanh chóng hòa nhịp với cuộc sống mới và trái tim nhạy cảm của ông lại bắt nhịp với đời sống của con người lưu vong trên đất mới. Đó cũng là lí do vì sao ông vẫn sáng tác và xuất bản thơ đều đặn trên xứ người. Rõ ràng, Du Tử Lê là người dễ thích nghi và ông mang tư duy nghệ thuật luôn luôn vận động và biến đổi. Đời sống mới, rung cảm mới, Du Tử Lê lại có những nguồn sống mới, cảm xúc mới, và thơ ca của ông bội phần tuôn chảy.
Trong thời gian sống và sáng tác ở hải ngoại, chúng ta có thể kể đến một số tập thơ của ông như:
- Thơ tình, thơ. Tủ sách Vh Nhân Chứng xuất bản. In lần thứ 4 1987.
- Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, thơ. Tủ sách Văn học Nhân chứng tái bản 1989.
- Đi với về, cũng một nghĩa như nhau, thơ. Tủ sách Văn học Nhân Chứng tái bản 1994.
- Chấm dứt luân hồi: em bước ra, thơ. Tủ sách Văn học Nhân Chứng xuất bản, 1993.
- Nhìn nhau chợt thấy ra sông núi, thơ. Tủ sách Văn học Nhân Chứng xuất bản, 1994.
- Sông núi người thơm nỗi nhớ nhà, thơ. Tủ sách Văn học Nhân Chứng, xuất bản, 1996.
- Chỉ như mặt khác tấm gương soi, thơ. Tủ sách Văn học Nhân Chứng, xuất bản, 1997.
- K. Khúc của Lê, tuyển tập thơ phổ nhạc. Thân hữu DTL Hoa Thịnh Đốn, xuất bản, 1998.
- Hoa nào tin quả đắng đến không ngờ!, thơ. Tủ sách Văn học Nhân Chứng xuất bản, 1999.
- Vì em, tôi đã làm sa di, thơ thiền tính. Tống Châu, Canada xuất bản, 2001.
- Mẹ về biển đông, thơ. HT productions xuất bản, 2002.
- Qua môi em: tôi thở biết bao đời, thơ thiền tính tập 2. HT Productions xuất bản, 2004.
- (Nếu cần,) hãy cho bài thơ một tên gọi! thơ. HT Productions xuất bản, 2006.
- Mất hay còn, chưa hẳn khác nhau đâu! (thơ thiền tính tập 3). HT Productions.
- Lại chuyện vãn, (lần này, ít thôi,) với bệnh ung thư. thơ. HT Productions xuất bản. 2008.
- Giữ đời cho nhau - Tùy Bút (minh họa Nguyễn Đình Thuần). HT Productions. 2010.
- Trên ngọn tình sầu - Thơ - (minh họa Duy Thanh). HT Productions. 2011.
- Xương, thịt đời sau, máu rất buồn - Tùy Bút - HT Productions, 2012.
- Biệt Khúc - Thơ - HT Productions, 2013.
- Giỏ hoa thời mới lớn, Tuyển tập thơ. Hội Nhà Văn & Liên Việt Books xuất bản, 2014.
- Tôi với người, chung một trái tim, Tuyển tập Thơ, Văn, Nhạc (phổ thơ), Nhà xuất bản Sống, tháng 9-2014.
- Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời, Tùy Bút, HT productions, 2016.
- Khi Gối Đầu Lên Ngực Em, Tùy Bút, HT productions, 2016.
- Tuyển tập thơ “Khúc Thụy Du”, Phanbooks Saigon xuất bản, 2018.
- Tuyển tập thơ “Trên Ngọn Tình Sầu”, Saigonbooks Saigon xuất bản, 2018.
- Chúng ta, những con đường, thơ, Phanbooks, Saigon xuất bản, 2019.
Những tác phẩm này, chỉ tính riêng thơ, với văn xuôi nữa thì Du Tử Lê là người có sức viết rất đáng nể. Quả thực “gừng càng già càng cay”. Chúng ta thấy, càng về lớn tuổi, tình yêu càng nồng nàn và trẻ trung trong thơ Du Tử Lê. Ta thấy ông viết và hoạt động nghệ thuật càng sung mãn hơn, dẻo dai hơn. Việc này cũng cho thấy ông là người có thái độ nghệ thuật nghiêm túc, chân thành. Cả đời sống hầu như dành hết cho thi ca và văn chương nói chung.
Để đánh giá về đời thơ Du Tử Lê, chúng tôi muốn mượn lời nhà thơ Nguyễn Đăng Khoa để tưởng nhớ về những vần thơ tài hoa của ông. “Nhà thơ Du Tử Lê là một trong những thi sĩ xuất sắc nhất của nền văn học miền Nam trước 1975. Ông có những nỗ lực miệt mài trong việc làm mới văn chương tiếng Việt, lúc còn trong nước, và lúc ở Mỹ. Ông đã có thơ được dùng ở trường học Mỹ, đã giảng thơ cho trường ở Mỹ, đã có số đầu sách ấn hành xấp xỉ số năm tại thế"(Lê Công Sơn, 2019). Du Tử Lê mãi mãi sẽ là tiếng thơ nồng nàn thiết đan trên bầu trời thi ca Việt Nam hàng ngàn năm qua, tên tuổi của ông sẽ sống mãi với những đại thi hào của dân tộc, sẽ sống mãi với dân tộc Việt Nam dùng trời long đất lở và dù có biến động thế giới dữ dội thì thơ ca của ông cũng sẽ sống mãi trong lòng công chúng Việt Nam muôn đời.
1.3.2. Quan niệm sáng tác
Thơ là sự phát hiện nhiệm màu. Du Tử Lê có kể về kỷ niệm đọc sách của Thiền sư Nhất Hạnh, từ đó ông cảm nhận được sự thay đổi sâu sắc trong tư duy đời sống và hẳn nhiên cả tư duy thơ của ông. Kể từ đó, thơ ca đối với ông là một cuộc gặp gỡ nhiệm màu. Đó là một cuộc tiếp chạm, khai mở nhiệm màu. “Giống như một đứa trẻ bị bất ngờ tới sững sờ trước một chân trời, một thế giới mới lạ mà nó chưa từng được biết; thậm chí, cũng chưa từng tưởng tượng tới; cá nhân chúng tôi liên tưởng tới những lần ôm trong tay thân thể của người mình thương yêu; những lần cá nhân chúng tôi hôn lên mặt, lên môi người bạn đời của mình - - Chúng tôi tự thấy, chúng tôi đã hành động một cách cuồng nhiệt theo bản năng, theo thú tính. Cá nhân chúng tôi không thể nghĩ, không thể hiểu rằng, mình đang ôm trong tay một thân / tâm đã trải qua bao đời kiếp; trước khi thị hiện trong hình dạng con người. Khi hôn lên mặt, lên môi người bạn đời của mình, cá nhân chúng tôi cũng không có, dù chỉ một chút ý thức, rằng, chúng tôi đã hôn, không chỉ người bạn đời kia; mà cùng lúc, là bao đời, kiếp xa xưa của cá nhân người bạn đời đó nữa”. Nhắc tới việc này, chúng tôi không có ý gán ghép Du Tử Lê vào Phật giáo. Mà thực ra, chỉ để cho thấy rằng, tư duy thơ của ông đã thay đổi, có thêm cái nhìn sâu sắc hơn. Thơ ca của ông có một hương vị triết lý gì đó đã thay đổi, ông học được cảm cảm nghiệm đời sống trong khoảnh khắc và trân quý khoảnh khắc. Thơ ca hầu như trở thành sự phát hiện. Trong mỗi cực tiểu thời gian, trong từng giới hạn của gặp gỡ, đụng chạm, gần gũi, cận kề, người thơ và thế giới thơ hòa quyện mật thiết với nhau, trở thành sự hòa điệu của tình yêu thương bát ngát lớn lao. Thơ của Du Tử Lê bỗng trổ ra những đôi cánh tưởng mơ màng, lặng lẽ nhưng lớn lao đủ tưới mát tâm hồn nhân thế.
Ông là người yêu tiếng Việt. Du Tử Lê rất trân quý và thán phục sự giàu có của tiếng Việt, nhất là khả năng triển khai của tiếng Việt trong thơ ca. Ông phân tích kỹ lương từng từ loại (động từ, danh từ, tính từ) để chỉ ra được giàu đẹp, phong phú, đa dạng và khả năng ứng dụng cao độ của tiếng Việt khi người ta làm thơ. Chả trách nước Việt của chúng ta, đụng đâu cũng có thi sĩ. “Những từ ngữ có tính địa phương ấy, người ta gặp rất nhiều trong thơ Phương Triều, Tô Thùy Yên, Minh Đức Hoài Trinh, Nhã ca, Cao Đông Khánh… Và, không phải chỉ những nhà thơ sinh trưởng ở Huế hay trong miền Nam mới sử dụng mà, hầu như tất cả các nhà thơ đều dùng nếu thích. Vì đó là ngôn ngữ chung của dân tộc. Điều này, cũng nói lên tính phong phú của tiếng Việt.Sau quá nửa đời người sống với thi ca Việt Nam, tới hôm nay, tôi vẫn còn có những giây phút ngạc nhiên tới thích thú khi nhận ra sự phong phú kỳ diệu của tiếng Việt”.
Du Tử Lê ôm ắp khát vọng muốn làm mới thể thơ lục bát. Bởi ông lập luận, ngôn ngữ dù là loại ngôn ngữ gì thì căn bản cũng là đơn âm. Và từ chỗ đó, ông phân tích dòng chảy của âm thanh trong câu thơ dòng thơ, để đi đến chỗ ngắt lại nhịp dòng thơ. Chẳng khác gì vua Vũ hồi xưa muốn trị thủy, nắn lại dòng chảy của nước, Du Tử Lê cũng muốn làm ông vua Vũ của thơ ca Việt Nam hiện đại, nắn lại dòng chảy và sự vận động của dòng thơ trong thể thơ vốn được xem là truyền thống của thơ ca dân tộc – thể lục bát. Cụ thể ông nghĩ: “Về mặt nhân sinh quan, tôi chủ trương cắt vụn một câu văn / thơ của mình, vì, tôi nghĩ đời sống hiện tại của chúng ta, đầy bất trắc, xáo trộn. Nó không hề là một dòng sông êm ả chảy như thời tổ tiên của chúng ta xa xưa nữa. Không ai có thể đoan chắc được điều gì sẽ xẩy tới trong đời sống ta, đời sống những người chung quanh ta, ngày tới, giờ tới. Đời sống hiện tại, theo tôi là những mảnh vụn (như những mảnh puzzle vậy.). Tôi đã bị chống đối rất nhiều, lúc bắt đầu cuộc thử nghiệm vào năm 1966. Sau đó chỉ ít năm, số người làm thơ Lục bát chia lại nhịp để Lục Bát có nhịp lẻ, nhất là ở những câu 8 chữ, đã gia tăng, mỗi ngày mỗi nhiều. Tuy nhiên, mãi tới năm 1992, tình cờ một người quen cho tôi mượn cuốn" Nghĩ Về Thơ" của Nguyễn Hưng Quốc, (Văn Nghệ xuất bản, 1991,) nỗ lực cách tân của tôi, lần đầu tiên được công nhận bởi tác giả này. Bây giờ thì, trong nước cũng như hải ngoại, số lục bát có nhịp lẻ, là chuyện đương nhiên. Không còn ai thấy nó dị dạng, ngu xuẩn hay lập dị nữa”. Âu thì cuối đời coi như ông cũng nhìn thấy thành quả mà mình mong muốn thực hiện từ hơn nửa thế kỷ trước. Coi như, ông cũng đã hoàn thành trách nhiệm với thơ ca và nghệ thuật nói chung. Bởi lẽ, suy cho đáng ra thì bất cứ người nghệ sĩ nào cũng có cái trách nhiệm phải đóng góp nét riêng của mình vào sinh hoạt nghệ thuật nói chung, phải góp phần cách tân làm mới và đẩy nghệ thuật đi thêm một chút dù ít dù nhiều. Không thể chịu đựng nổi những kẻ làm nghệ thuật ù lì, nhếch nhác, làm biếng không chịu lao động cách tân đổi mới. Du Tử Lê đã có lòng, đã bỏ sức đổi mới thể lục bát. Công việc của ông trong nghệ thuật thơ ca đóng góp tới đâu, thành tựu tới đâu, ông nhường phần đánh giá cho hậu thế. Với thơ ca, ông đã hết mình rồi.
Dấu ấn Phật giáo trong quan niệm sáng tác. Du Tử Lê gọi cụ thể là nghiệp lực trong thơ ca của ông. Nghiệp lực liên quan đến nhân quả báo ứng. Nhân quả báo ứng đưa ông trở về với lý duyên khởi. Nhận diện được lý duyên khởi, Du Tử Lê nhận ra không có gì là vô duyên vô cớ, chẳng có gì ngẫu nhiên trùng hợp. Trong muôn hằng thứ vật trên cõi đời này, chẳng có việc tự nhiên sinh thành, chẳng có việc gì tự nhiên mất đi, chỉ là vận chuyện biến hóa tương tác thúc đẩy tạo lập lẫn nhau. Nhờ vậy, ông mới nhận ra vòng quay của thiên nhiên trời đất của nắng gió đất nước lửa cây cối vạn vật muôn loài. Dấu ấn của duyên khởi và nghiệp lực đi vào trong thơ ca. “Trong suốt hai tập thơ nhỏ, mang tính Thiền của cá nhân chúng tôi, là cuốn Vì em, tôi đã làm sa di, do tạp chí Pháp Âm ấn hành năm 1999 và, tập Qua môi em: tôi thở biết bao đời!!? mới ấn hành, cách nay, chưa tới ba tuần - - Đọc lại, tôi mới thấy rõ rằng, tôi bị ám ảnh bởi hai chữ nghiệp / tâm! - - Dù cho bài thơ, câu thơ, không hề nhắc tới hai chữ tâm, nghiệp; dù cho bài thơ, câu thơ chỉ ghi lại những cảm nghĩ của cá nhân chúng tôi về sống / chết, về thời gian (như quá khứ / hiện tại;) về thiên nhiên (như mây / mưa, nắng / gió...) Nói chung là sự tuần hoàn của vũ trụ, trong những vòng quay bất tận... Thưa quý vị, thưa các bạn, ám ảnh tâm và nghiệp không chỉ chói, gắt và, nhức, buốt trong những câu thơ chúng tôi đã trưng dẫn; mà, nó còn ở hầu hết những những bài thơ còn lại trong tập thơ nhỏ của chúng tôi”(Chùa Quốc Tế Online, 2002). Quả thực, Du Tử Lê đã thành thực. Trước hết là thành thực với chính lòng mình. Thật không thể tưởng tượng nổi một nhà thơ mà lại dối trá bản thân. May mắn vì Du Tử Lê không phải vậy, ông đã thẳng thắn nhận diện lòng mình. Và từ đó, dấu ấn Phật giáo đi vào tư duy thơ của ông, mối thiện cảm của ông dành cho Phật giáo, càng khiến cho thơ ca của ông có chiều sâu triết lý dịu mát thâm trầm nhưng biến hóa khôn lường. Tất nhiên, Du Tử Lê không chỉ dụng triết lý Phật giáo để dùi mài gá cho từng con chữ của mình, thơ của ông càng không phải cái loa phát ngôn cho tư tưởng Phật giáo. Đúng hơn, thơ của ông cũng là cuộc gặp gỡ nhiệm màu với Phật giáo. Chính nhờ cuộc gặp gỡ tưởng là ngẫu nhiên này mà thực ra là không ngẫu nhiên gì cả, cuộc gặp gỡ này có lẽ đã an bài từ hằng hà kiếp, để trao gửi hạt giống tuệ giác trong thơ ca, hay ngược lại gieo thơ ca vào tuệ giác. Dẫu gì, chính việc này cũng khiến cho thơ ca của Du Tử Lê mang thêm sắc thái mới và thú vị hơn.
Thực ra những dấu ấn của tư tưởng Phật giáo cũng là một biểu hiện của quan niệm hiện sinh về đời người. Bởi Phật giáo cũng như bất cứ tôn giáo nào khác trên thế giới, cũng hướng con người đến các vấn đề nhân sinh và thân phận, đưa con người trở lại với những câu chuyện sống đời thường, thiết thân gần gũi. Qua những chia sẻ về giáo lý Phật, chúng ta thấy Du Tử Lê nói nhiều về thân phận con người, nói nhiều về những gì mà số mệnh của đất nước quê hương và số mệnh của bản thân mỗi người Việt phải chống chịu trong thảm trạng suốt thế kỷ qua. “Sự trộn lẫn, tính gắn bó hữu cơ, khằn cứng giữa Tâm và, Nghiệp; giữa Tâm bản chất nhị nguyên của con người trong đời thường, đưa tôi tới những cảm nghiệm, thể hiện qua bài Chánh niệm, nơi trang 74. Ở bài thơ này, tôi muốn nhắc nhở người bạn đời của tôi đừng phân biệt cái này là tôi, cái kia là anh, cái nọ là chúng ta... Hoặc như đoạn cuối cùng, của bài thơ nhan đề bài buông, xả học từ những vết thẹo chấp thủ, quá khứ, trang số 100, viết từ những năm tháng chung sống với một người con gái mà, chúng tôi đã chia tay nhau. Nay cô đã có gia đình khác, đời sống khác, nhưng có thể vì so sánh, hay vì kỷ niệm, quá khứ, thỉnh thoảng cô vẫn liên lạc, tâm sự với tôi. Nên, bằng vào những ý niệm của Thiền, tôi muốn nói với cô rằng, khoảng cách không gian, sự không còn chung sống, chung đụng thể xác giữa hai cá nhân, không có nghĩa là họ không còn nhau, nếu họ thực sự nghĩ về nhau, không bằng cái ngã, thì họ vẫn là một”(Chùa Quốc Tế Online, 2003). Nhà thơ có cái nhìn sâu sắc hơn về chung đụng, nhục cảm, xác thịt. Ông nhìn nhận thế giới bằng con mắt khác thường, không để những thiên kiến thông thường bâu ríu vào quan niệm, giúp ông nhận ra những điều bình dị mà phi thường.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, chúng tôi đã xây dựng nền tảng lý luận cần thiết khi tìm hiểu về cảm hứng hiện sinh của thơ Du Tử Lê. Việc phác họa lịch sử hình thành phát triển của chủ nghĩa hiện sinh, đóng vai trò như là nền tảng nhận thức, giúp chúng tôi định vị được trào lưu triết học này. Tiếp theo, chúng tôi trình bày sự du nhập của triết hiện sinh vào không gian văn học đô thị miền Nam. Có thể nói, công lao của các giáo sư đầu ngành triết học là rất lớn. Nhờ có các giáo sư này, triết học hiện sinh trở thành một môn học trong nhà trường. Nhờ vậy, triết hiện sinh càng trở nên phổ biến hơn nữa. Về Du Tử Lê, trong chương này chúng tôi trình bày những nét chung, có tính chất như là tiểu sử, để nắm bắt những chặng đường chủ yếu trong đời thơ của ông. Nhờ vậy, chúng tôi hình dung được bao quát hành trình nghệ thuật của Du Tử Lê. Từ những ngày thơ ấu, cho tới khi di cư vào nam và sau nữa sống lưu vong ở hải ngoại. Dầu ở chặng đường nào, Du Tử Lê vẫn hết lòng với nghệ thuật.
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ DU TỬ LÊ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Cảm hứng hiện sinh trong cái nhìn về tha nhân
Khi chú ý quá nhiều vào cái tôi, triết học Tây phương đi đến chỗ bỏ quên vai trò của tha nhân trong mối tương tác giữa người với người. Thực tế, nhờ có tha nhân và cuộc tương tác thì sự hiện hữu của cái tôi mới xuất hiện. Ngược lại, tha nhân tức là tha nhân dưới đôi mắt nào đó. Ngã-Tha nhân xác lập lẫn nhau, cần thiết cuộc tương tác này mới xuất hiện vị thế ngã và tha trong cuộc hiện hữu. Không thể xuất hiện tha nhân nếu không có chủ thể quan sát. Và sự xuất hiện tha nhân, ngược lại xác lập sự có mặt của Ngã. Như vậy nắm bắt mối quan hệ ngã-tha, tính chất hiện sinh của đời sống được bộc lộ ra. Đó là cảm hứng hiện sinh trong cái nhìn về tha nhân.
2.1.1. Con người lo âu
Tha nhân là kẻ lo âu, hay chính là khuôn mặt lo âu của nhân loại trong thời đại biến động, hiện hữu con người tạm bợ, chực chờ bị hư vô hóa. Theo Soren Kierkegaard: “Con người không sẵn lòng để nghĩ suy về tính vĩnh cửu một cách nghiêm chỉnh, nhưng lo âu về nó. Lo âu có thể bày ra hàng trăm sự thoái thác khác nhau”. Cũng bởi vậy, lo âu không đơn thuần là trạng thái bất an trong tinh thần, mà nó có thể biểu hiện ra nhiều hình thức khác nhau. Căn bản, âu lo hiện sinh là sự giằng xé đến mức “thiên đàng” cũng “hoang tàn”. Cái nhìn về tha nhân khiến cái tôi trữ tình cũng “điếng lặng” giữa “tro than”, khắc khoải, bâng khuâng khôn nguôi về sự hiện hữu của bản thân vào thế giới. Lo âu còn biểu hiện qua sự truy vấn của chủ thể về một vấn đề không thể biết thực hữu hay không. “em vẫn hỏi có thiệt không cõi khác/ ngực em đâu? phải vết răng tôi?”. Sự truy vấn biểu hiện trạng thái căng thẳng thoi thúc con người tiến về phía nhận diện chính hiện hữu của mình. Sự thoái thác âu lo do đó cũng dẫn đến sự thoái thác, ly khai, từ bỏ, quay lưng với thế giới. Trốn tránh, né tránh và sự từ bỏ ra đi của chủ thể trong cuộc hiện hữu.
“đời muôn cửa tôi chọn về địa ngục
thiên đàng em bỏ lại đã hoang tàn
ai nắng gió trên cảnh đời kẻ đó?
(Du Tử Lê, 2020) |
Hay:
“đêm cao ốc bàn tay buồn, mắt lặng
gió mưa đi tít tận trời nào
môi tháng sáu bao dung hồn phiêu bạt
em tin không? tôi chết ngọt ngào
*
em vẫn hỏi có thiệt không cõi khác
ngực em đâu? phải vết răng tôi?
khắp thân thể nỗi buồn em ngang dọc
chính là tôi hay nỗi ngậm ngùi?”
(Du Tử Lê, 2020)
Trong mối quan hệ người với ta, bản chất hiện hữu bộc lộ ra tính chất âu lo quỷ quyệt. Sở dĩ gọi là quỷ quyệt, bởi nó có thể vùi lấp hiện hữu của người, nhưng cũng có thể góp phần khẳng định hiện hữu người. Tha nhân hiện lên như con người âu lo trong thơ Du Tử Lê có lẽ cũng xuất phát từ cơ cấu “người” mà Kierkegaard đã nói tới. Nhưng vì sao con người lo âu? Việc thực hiện cuộc hiện sinh có những ràng buộc bao vây khiến con người “phải” thực hiện. Một trong số đó: lựa chọn, tự quyết, chịu trách nhiệm. Đó là lý do vì sao Sartre cho rằng con người âu lo vì con người phải chịu trách nhiệm. “Khi con người tham dự một công việc gì thì con người biết rằng không những mình sẽ là con người mà mình sẽ lựa chọn nhưng lại còn là kẻ lập luật. Cái khó của vị lập luật đó là phải lựa chọn con người cho mình vừa phải lựa chọn cho toàn thể nhân loại. Như vậy làm sao tránh khỏi được ý thức về một trách nhiệm toàn diện sâu xa…”(Trần Thái Đỉnh, 1968). Trách nhiệm thực hiện cuộc hiện sinh của mình và gián tiếp xác lập cuộc hiện sinh của kẻ khác. Trách nhiệm như vấn nạn và âu lo như điều tất nhiên của hiện hữu. Cái tôi trữ tĩnh đã “vóng lên” những lời thao thiết về nấn nạn người của tha nhân qua hình ảnh thơ đặc dị:
“dương bản”!
“không ai nói hộ tôi dù một tiếng
để em về cho kịp lúc chiêm bao
em phải biết cuộc đời như dương bản
chẳng có gì là không thể hư hao”.
(Du Tử Lê, 2020, tr. 136)
Từ chỗ có trách nhiệm, âu lo thuộc về biểu hiện bất khả kháng của con người trong cuộc hiện sinh. Âu lo trở thành biểu hiện hiển nhiên trong mối quan hệ tương tác giữa ngã và tha: nói khác đi, tương tác cũng chính là “giết nhau” mỗi ngày bằng việc sống. Như vậy, âu lo đẩy tới tính tất yếu, thậm chí như định mệnh (thể hiện qua những từ láy như “bằn bặt”, “ngổn ngang”). Con người âu lo bởi con người buộc phải định mệnh. Cuộc hiện sinh không chỉ có đấy mà còn tất yếu định mệnh. Con người liệu có thể vùng vẫy được giữa cuộc hiện sinh đó không. Ít nhất, mối âu lo là biểu hiện của nỗ lực vùng vẫy đó. Âu lo ở đây được ví như “nhát dao tận tuyệt”, khiến cho hồn tôi nát. Tác giả đã hình tượng hóa nhát dao bằng tính từ hầu như trừu tượng, kết hợp giữa các hữu hình với cái trừu tương, hình ảnh thơ này quả thực cho thấy nỗi lo âu thường trực và nguy cấp như thế nào giữa cuộc hiện sinh.
“thì thôi đừng giết nhau lần nữa
em hiểu gì? lòng tôi mênh mông
những con nước cũ chưa về bến
củi một cành - tôi trôi nửa sông
*
có gọi ngàn năm thì cũng thế
bằn bặt đời nhau, trưa ngổn ngang
nhát dao tận tuyệt hồn tôi nát
em nói gì đi! dẫu muộn màng”
(Du Tử Lê, 2020, tr. 148)
Hư vô hay cái chết. Phải thừa nhận, thơ Du Tử Lê nhắc nhiều đến cái chết (biểu hiện qua một số hình ảnh như nấm mồ, bóng tối, hồn, chiếc bóng, …). Dường như nhà thơ nhận ra ở cái chết một nghĩa lý hiện sinh nào đó. Hoặc giả trong sự chết, cái sống được khắc họa rõ nét hơn. Cụ thể, cái chết biểu thị cho sự hư vô trong thân phận. Chết như một tất định mà con người phải trải nghiệm. Do đó, sự có mặt ở cuộc đời này bị đeo bám bởi sự hư vô ở một thì không khác. Cả đời sống do đó trầm ngâm trong cái chết – trầm mình trong lo âu bất tận.
“Mưa dắt tôi trở lại tìm chiếc bóng
Thấy hiên xưa đang vẽ dáng em ngồi
Tóc một thuở nuôi thơm thời thiếu nữ
Bên kia đường nấm mộ ngoái trông tôi”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 24)
Thơ ca Du Tử Lê ẩn chứa dòng suy tưởng, trăn trở không ngừng bởi những khúc mắc không thể tháo gỡ. Ở đó, bạn đọc chắc hẳn nhận ra sự kết hợp bện chặt giữa những xao xuyến đời sống, đam mê quyến rũ và sự buộc ràng không thể cắt đứt. Nhưng điều trói buộc đó, khiến cho tâm hồn con người không ngừng chao đảo, ngã nghiêng trong những mối âu lo khác nhau. Từ âu lo, cõi giới thi ca Du Tử Lê trổ ra những dáng vẻ khác nhau, từ những ưu tư về ý nghĩa hiện hữu, đến những khổ lụy u sầu trong tình ái, đến những hy sinh vô nghĩa cho cuộc tháo chạy con người khỏi cuộc đời, giữa chọn lựa và tin tưởng, giữa ái tình và cô độc, giữa nghi ngờ và tuyệt vọng sau khi mê mải tìm kiếm một ý nghĩa cuộc đời, cho tới sự tuyệt đối của tồn tại, …
Đáng kể hơn cả, đó là âu lo về thân phận. Liệu con người có thể một thân phận hay con người phải chống chịu một thân phận bị gắn đặt bởi một thế lức nào đó ngoài bản thân con người. Nhà thơ đã sử dụng một số từ láy để diễn tả sự chống chịu ấy: mưng mưng, dửng dưng. Nói khác đi, con người phải chống chịu số phận của mình hay chống chịu một số phận mà thế giới mang lại. Ở khía cạnh này thơ ca Du Tử Lê khá gần gũi với những suy tư mải miết của Kierkegaard về cuộc đời con người (Trần Thái Đỉnh, 2005, tr 97). Bởi triết lý của Kierkegaard cũng như thơ Du Tử Lê lấy mục tiêu phân tích cặn kẽ thân phận con người giữa đời sống. Đặt con người giữa đời sống (vòng lặp bất tận: sáng-trưa-tối), nhà thơ tìm kiếm một thân phận, nhưng âu lo đó khiến nhà thơ nhận ra, thế giới vốn dĩ không cầu viện nghĩa lý cho nên, “trời đất ngàn năm còn dửng dưng”. Chỉ có con người thèm khát một phận phận, âu lo về việc có thể có nguy cơ không thể có thân phận, âu lo tiêu biến giữa đời sống.
“Tôi không nói điều gì về buổi sáng
về buổi trưa, về buổi tối mưng mưng
tôi không nói bởi vì tôi chợt hiểu
trời đất ngàn năm còn dửng dưng”.
(Du Tử Lê, 2020, tr. 154)
Nỗi âu lo thân phận này, kỳ thực đã được nhiều thi sĩ nói tới. Trong những cách thế khác nhau, trong những ý hướng khác nhau. Trần Tử Ngang đã sa dòng lệ bởi sự choáng ngợp thao thiết đứng trước cõi trời đất và thấy rằng cuộc đời cứ trôi đi, con người vốn dĩ trống rỗng vô nghĩa lý. Hay nói như Kierkegaard đó là sợ sợ hãi, âu lo, bâng khuâng thậm chí bàng hoàng khi đối diện với cái vô hạn, tuyệt đối. Bởi lúc đó, con người tìm kiếm thân phận, âu lo về số kiếp, bỗng nhận ra sự hữu hạn của bản thân mình. Nỗi rúng động làm sụp đổ cả núi sông. Nhà thơ đặc tả nỗi niềm ấy bằng tiếng thở dài, lồng vào bóng đêm. Tiếng thở dài được Du Tử Lê sử dụng lại lồng vào những hình ảnh thân thể người và đặt trong chiều kích rộng lớn của “thời tiết”, “đại dương”, “sầu ta ngang núi sông”, “ngày cong”, … Bằng cách đó, Du Tử Lê tạo ra lối so sánh, ẩn dụ rất riêng, tạo nên phong cách thơ của ông.
Có thể nói, dường như mọi cảm hứng hiện sinh đều khởi đi từ nỗi niềm lo âu. Sự bồn chồn khôn nguôi này khiến cho trí quan sát và tưởng tưởng của thi nhân khơi mào. Cũng kể từ đó, thi nhân phóng tầm mắt vào thế giới. Khiến cho thế giới hiện diện cùng con người. Điều này càng làm cho bóng hình con người hiện lên một cách rõ nét. Con người âu lo.
2.1.2. Con người dấn thân
Tha nhân càng dấn thân, càng đối đầu nhiều đe dọa. Bởi con người dấn thân cũng tức là đối diện với cuộc hiện sinh. Trong đó, con người phải tương tác với đời sống. Tương tác nói cách khác là đụng độ. Việc này, Heidegger đã nói đến như là hiểm họa đối với hữu thể, là nguy hại đến “Dasein” của con người. Vì sao gọi là nguy hại, bởi lẽ càng dấn thân, con người càng có nguy cơ lạc lối trong cõi người. Nguyễn Du đã có một từ diễn tả rất thấu đáo nguy hại này: “cõi người ta”. Hay có quan điểm “Con người là một vật thụ tạo, nghĩa là bắt đầu có, chứ không phải hằng hữu, có tự thủa đời đời. Đã bắt đầu có, tức là đã đi từ chỗ hư vô đến chỗ hiện hữu nghĩa là từ chỗ vô định đến chỗ hữu định. Ngay từ lúc thụ thai, con người đã bị chi phối về không gian và thời gian”(Nguyễn Hữu Trọng, 1960). Nói đúng hơn, con người buộc phải hiện hữu. Sự bắt buộc hiện hữu đó đẩy con người vào đời để làm người. Dấn thân là một cái gì tất định. Con người chẳng khác gì bị quẳng vào đời và buộc lòng phải sống, phải thực hiện cõi đời ấy. Thậm chí cuộc dấn thân ấy vẫn tiếp tục cho đến khi nhà thơ đã chết. Cái chết thậm chí không thể kết thúc cuộc dấn thân này. “Hãy đem tôi ra biển”, điệp ngữ được lặp lại nhiều lần, đã nhấn mạnh tính chất vĩnh cửu của cuộc dấn thân.
“Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi
*
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong queo”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 104)
Phải chăng qua bài thơ, nhà thơ đã cảm nghiệm một cách đau đớn nỗi hư vô trong đời sống con người “thì sá gì thêm một xác cong queo”. Và đối diện với hư vô, tha nhân buộc phải làm sao? Thơ Du Tử Lê quan sát, khắc họa và cảm thấu nỗi niềm ấy. Con người như là tha nhân, con người chỉ là kẻ khác, không còn là mình nữa. Đánh mất mình, con người đánh mất nghĩa lý hiện hữu. Nói khác, con người không hiện hữu. Sự dấn thấn của con người như con dao hai lưỡi. Quá trình ấy vừa góp phần xác lập sự hiện hữu của người, nhưng cũng ẩn chứa nguy cơ xóa nhòa người khỏi dòng sống hiện hữu. Dấn thân ở đây khiến chúng ta nghĩ lại câu tục ngữ quen thuộc của người Việt: “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Với Du Tử Lê, đó là nhũng “bài học buồn, vui” nhưng dầu buồn hay vui đều rất mới, nghĩa là rất riêng cho mỗi người, chẳng ai giống ai, những bài học mà mỗi người phải tự trải nghiệm rồi hiểu và … cuối cùng để “lãng quên”!
“chẳng ai nói với tôi
trừ những con đường
trang sách đời: tinh khôi
mỗi mùa một bài học buồn, vui rất mới
tình yêu dạy tôi trườn/ bò/ đứng/ đi/ chạy/ nhẩy
đêm tối dạy ngọn đèn/ bàn/ ghế trống tập hát
bài ngợi ca lãng quên
tình yêu/ đường xá/ ghế, bàn/ ngọn đèn/ đêm tối:
hát cho tôi nghe
bởi chúng thấy tôi:
- vật lãng, quên lớn nhất”.
(Du Tử Lê, 1996)
Con người dấn thân chứa đầy căng thẳng, xung đột đến mức hao mòn (có thể thấy qua những hình ảnh như: thôi đời, bến sầu, đau dấu hài, manh áo, khép đời, điêu linh). Lối biểu cảm của Du Tử Lê khiến chúng ta nhận ra mối nguy hiểm nào đó vô hình hiển hiện trong câu thơ. Những câu thơ không êm xuôi, dường như ẩn chứa mối nguy hại nào đó, khiến độc giả cảm thấy phập phồng lo âu (do đó con người dấn thân gắn liền con người lo âu, như đã trình bày ở tiểu mục trên). Đó là nguy cơ đưa tới bấn loạn, cuống quýt, hốt hoảng. Nhưng phải thật sự đồng cảm cùng nhà thơ mới nhận ra bấn loạn và hốt hoảng ấy. Bởi đó là cảm thức của tầng sâu trong cái nhìn về tha nhân. Thấy sự lầm lì trì độn của tha nhân, thấy cuộc vùng vẫy của tha nhân, dẫu nhà thơ lấy cảm hứng từ cái nhìn thấy như vậy, và biểu hiện ra bằng sự bình thản lặng im, nhưng đằng sau đó là sự bấn loạn khôn nguôi. Trạng thái này biểu hiện qua những từ ngữ như: cũng thế, mà thôi, thôi, đã thế, đành thôi, … Nỗi bấn loạn dẫn đến niềm bi đát. Sự gặp gỡ giữa Trịnh Công Sơn và Du Tử Lê chăng: lối so sánh đời người như cát bụi! Qua đó, ta cũng thấy nỗi ngao ngán của nhà thơ trước sự đời “điêu linh”, đến cuối cùng chỉ còn lại manh áo che đỡ.
“Thôi đời cũng thế mà thôi
Trăm năm phận mỏng còn muồi kiếp sau
Người đi qua mấy bến sầu
Thân tôi cát bụi còn đau dấu hài
Thôi người đã thế đành thôi
Trăm năm manh áo khép đời điêu linh”.
(Du Tử Lê, 2020, tr. 19)
Trên hành trình dấn thân, Du Tử Lê khắc họa những biến cố, trở ngại, những đổi thay hay cú sốc về mặt tinh thần, khiến con người nhận ra ý nghĩa hiện hữu của hắn. Nhưng biến cố nào, trở ngại nào cũng vậy thôi, không nghĩa lý gì cả. Bởi đơn giản, “cũng từ đó cũng từ đây” với chỉ từ “đó-đây”, đời hẳn có những bước ngoặt biến cố. Cái đáng quan tâm là biến cố đẩy phận người vào tình thế khác, chứ biến cố nào cũng vậy. Tha nhân mãi mãi bị cuốn vào những biến cố đổi thay dịch chuyển của dòng đời. Nhưng rõ ràng, chính những đổi thay đã làm thức tỉnh suy tưởng con người. Bấy giờ khi hắn suy tưởng hắn bắt đầu xác lập hắn. Biết hắn là ai, thì khi chết đi hắn cũng biết kẻ nào vừa chết đi. Tương tự, khi cái gì đó đổi thay thì tha nhân biết cái thay đổi ấy là của ai. Đổi thay, dịch chuyển làm thành cõi trần gian cho tha nhân, thậm chí có thể nói, chính sự dấn thân của tha nhân tạo ra cõi thế gian. Cảm hứng hiện sinh khởi đi từ chính cuộc dấn thân của tha nhân trong cõi thế. Và bạn đọc có nhận ra, càng dấn thân càng thấy đời ngược lối và vô nghĩa, nên càng dấn thân càng ủ rũ buông xuôi. Cho nên nhà thơ mới buông ra một câu chán chường rời rã “Thôi làm chi được – khi đời gọi tên”. Từ chỉ từ “đó-đây” đến phép điệp cấu trúc “cũng vào nhớ - cũng vào quên”, dù là biến cố gì, dù dấn thân như thế nào, rốt cuộc nghĩa lý của dấn thân chỉ để bị lãng quên mà thôi.
“Cũng từ đó - cũng từ đây
Rèm mi khép xuống chia tay ngọt bùi
Mau sao! giấc ngủ tuyệt vời
Thôi làm chi được – khi đời gọi tên
*
Cũng vào nhớ - cũng vào quên
Trăm năm nấm đất ngủ yên phận mình”.
(Du Tử Lê, 2020, tr. 31)
Như vậy, cuộc dấn thân thực chất nhằm mục đích gì? Du Tử Lê lao vào cuộc đời gió bụi của tha nhân để bắt tha nhân tìm kiếm điều gì? Một khi buộc phải sinh ra, tức là có mặt. Con người không thể chịu đựng sự có mặt đơn thuần. Hắn phải có mặt như cái gì đó, như một trạng thái gì đó, như một nghĩa lý gì đó. Hắn buộc lòng phải có nghĩa lý cho sự hiện hữu của hắn. Cũng tức là hắn cần có giá trị tồn tại. “Thuyết hiện sinh muốn tạo nên một giới nhân loại như là toàn bộ các giá trị khác với giới vật thể”. Chí ít, hắn phải tồn tại bằng nghĩa lý khác với sự tồn tại vật chất. Tha nhân buộc phải có giá trị nếu không hắn sẽ thui chột và trở thành đồ vật lầm lũi chứ không tồn tại như con người nữa. Dẫu rằng chưa chắc có tìm được nghĩa lý tồn tại nào không, nhưng tha nhân không thể dừng lại, hắn phải tiếp bước trên đời phiêu bồng trôi dạt. Du Tử Lê đã rong ruổi theo từng phận người giữa đường đời.
“Lênh đênh hồn ngủ phương này
Thương mưa Hà Nội nhớ mây Hồng Hà
Mười năm dài những xót xa
Bờ hoang bến quạnh thiết tha ngọn nguồn
Mênh mông hồn ngủ phương buồn
Đêm sương Cầu Giấy, Chợ Hôm canh gà
Tóc thề nẻo gió áo hoa
Trôi từ chinh chiến trôi qua điêu tàn
Lênh đênh hồn cắm sào ngang
Năm ô tuổi nhỏ buồn hoang ngọn cờ”.
(Du Tử Lê, 2020, tr. 51)
Chính những bến bờ trôi dạt đó khiến con người liên tục đụng độ thế giới. Để dấn thân, để tiếp bước, hắn phải chọn lựa. Chọn lựa là hệ quả của dấn thân, mà tha nhân không thể né tránh. Nếu không chọn lựa, hắn tù đọng và như thế thì cuộc truy đuổi ý nghĩa bản thân coi như dừng lại. Nếu vậy hắn lập tức bị kéo và hư vô hóa. “Điều đáng nói là tôi không thể tìm kiếm trong tôi trạng thái thực sự thúc đẩy tôi hành động, cũng không thể đòi hỏi ở một nền đạo đức những khái niệm cho phép tôi hành động”. Hành động dấn thân của tha nhân, căn bản không thể xuất phát từ động cơ nào khác. Bởi không thể có những giá trị đạo đức phổ quát không có những quy chiếu hành vi phổ thông cho tất cả mọi người, cũng không có những quy phạm ràng buộc tất cả con người. Con người dẫu gì cũng không thể lấy một nguyên do hành động từ bất cứ cái gì ở bên ngoài hắn. Hắn hành động tức là hắn lựa chọn. Động cơ hành động của hắn chính là ở bản thân hắn. Sartre đã xác quyết điều đó. Còn Du Tử Lê, ông cho rằng tha nhân đã kiến tạo đời hắn trên đường nhập cuộc. Hắn lao vào đời và chính đời cũng lao vào hắn. Nào là: bản tin, chiến sự, cây lá, rên siết,… Mỗi ngày là một cuộc dấn thân – cuộc chiến với chính hiện hữu của mình. Dường như bên ngoài là một nét ủ rũ ão nào. Nhà thơ cho rằng mỗi ngày là một cuộc dấn thân “thua cay”. Cánh chim khép lại một ngày thì đời người cũng khép lại một ngày thất bại. Dấn thân và tất định thua cuộc!
“Bản tin giờ chót
Chiến sự Ai-lao
Thần chết cúi chào
Nàng ca sĩ đó
Tượng trưng đam mê
Rên siết não nề
Cây lá xôn xao
Ai còn đứng đó
Sao chưa chịu về
Cuộc đời ôi chao!
Kết thúc một ngày
Con chim xếp cánh
Con người thua cay”.
(Du Tử Lê, 2020, tr. 97)
Dấn thân thậm chí là một định mệnh mà con người phải thực hiện dù muốn dù không. Một ngày của một người dù những việc “vô nghĩa” nhưng hắn phải liên tục lao vào cõi vô nghĩa cuộc đời để xác định cho đời hắn một ý nghĩa. Sự nghịch lý cũng bắt đầu. Đời vô nghĩa nhưng hắn buộc phải kiến tạo ra nghĩa. Con người thực chất là kẻ lang thang rong ruổi tìm kiếm ảo vọng giữa đời sống. Con người dấn thân trong thơ Du Tử Lê là biểu tượng cho kẻ đi trong sa mạc. Bạn đọc có thể thấy nét tương đồng giữa hình tượng than nhân dấn thân với Zarathoustra của Nietzsche. Nhưng liệu dấn thân đã đủ xác lập tính người và hiện hữu người chưa, hay kẻ đó phải ưu tư liên hồi về số phận mình.
2.1.3. Con người ưu tư
Như đã nói, dấn thân dẫu chưa chắc có được một nghĩa lý gì, chưa chắc tìm được nghĩa lý gì nhưng con người buộc phải dấn thân. Trên con đường đó, tha nhân phải ưu tư liên tục, để xác định xem liệu hắn có bị hư vô hóa bởi hành động này không. Hắn ưu tư để lựa chọn. Dầu Chính bản thân Sartre nói rằng việc đó chẳng khác gì những đam mê vô ích, việc ưu tư ấy thực chất chỉ là chạy theo ảo ảnh, nhưng Sartre không thể chối được rằng con người cứ chạy theo bất kể. Với Du Tử Lê, ông vốn biết chạy đuổi tình yêu, chạy theo đời sống rốt cuộc chỉ quẩn quanh không tìm được bờ bến nhưng đâu ai thoát khỏi được ma lực cuộc đời. Ưu tư dầu chẳng giải quyết được gì nhưng ưu tư là mặc nhiên. Dầu cho thương tích đầy mình đi chăng nữa. Ưu tư là khổ lụy. Đến chết vẫn còn ưu tư: “thương tích” của thân tâm.
“thương tích đầy thân, tâm
Ai chết còn trợn mắt?
Cảm ơn phần đời riêng
Người tặng tôi cuối kiếp”. (Du Tử Lê, 2019, tr 21)
Hay:
“con bão rút/chơi vơi rừng/thinh lặng.
Như người về gợi ký ức căm căm.
Chiều thải nốt chút hoàng hôn ngây, dại
Ngày mang thai/đêm/khổ lụy, lên đường” (Du Tử Lê, 2019, tr. 23)
Nói vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, cái nhìn về tha nhân của Du Tử Lê là sự kết hợp giữa dấn thân (khổ lụy lên đường) và ưu tư (chơi vơi, thinh lặng). Cũng hợp lý thôi, vì ưu tư nên dấn thân, càng dấn thân càng ưu tư. Nếu dấn thân thiên về hành động, hành vi thì ưu tư cũng là hành động hành vi trong tinh thần. Nhất là trong thời cuộc đầy biến động của chiến tranh, câu hỏi về dấn thân và ưu tư song hành với nhau, đồng thời với nhau. Ưu tư về vận mệnh đất nước: “không thể biết bao giờ chúng ta được gặp lại nhau?”, dấn thân của chính bản thân mình nhằm thực hiện một trách nhiệm nào đó. Trách nhiệm vô hình đó, buộc con người phải ưu tư. Một khi ưu tư tức là bị đẩy vào cuộc dấn thân.
“không thể biết bao giờ chúng ta được gặp lại nhau?
trên quê hương, đất nước của mình?
nhưng tôi biết:
bạn tôi đã đôi lần dừng chân ở Hà Nam.
bạn tôi cũng đã có đôi lần tắm bến sông Đáy, Kim Bảng,
nơi thơ ấu tôi, diễn ra với những buổi chiều mây vần vũ
với nhiều hình thù dễ sợ…
hoặc, những ngày mưa bão thốn ruột, trôi gan…
mẹ tôi chết lặng,
nhớ, thương chồng, mất sớm…
tôi nghĩ, chúng ta đã gặp nhau tự những ngày lênh láng đó.”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 67)
Những ngày dài lênh láng, Du Tử Lê đã rã rời lao mình theo cùng tha nhân, để cho ưu tư chồng chất. Vì ưu tư, chủ thể cái nhìn dường như đã “huyền nhiệm” kẻ khác. Tha nhân hiện lên như bóng hình mờ mịt, đầy bí ẩn, huyễn hoặc (“hình thừ dễ sợ”). Tha nhân càng ưu tư, tâm hồn càng phức tạp, bí hiểm. Ưu tư thể như màn sương mờ che đậy cuộc hiện hữu đầy rối rắm của tha nhân. Từ ưu tư dẫn đến xót thương, nhà thơ thương cảm cho những kẻ bị trì trệ chì chiết lụn chìm vào ưu tư không dứt. Thương cho tha nhân bị dày vò đay nghiến trong suy tưởng.
“xướng ngôn: ta xót thương ta một lần đầu thai mà làm người mãi mãi bao nhiêu sông nguồn nước biển đổ dốc về tâm hồn ta một khối thuỷ tinh muôn màu từng đêm nát vụn – mỗi mảnh vụn tâm hồn ta là một nỗi bất hạnh mang tên các người – hỡi đồng loại của ta, những người kẻ mở mắt làm người mà tâm hồn thui chột”
(Du Tử Lê, 2020, tr. 85)
Khi nói tới ưu tư, người ta thường nghĩ ngay tới trạng thái tâm lý. Vấn đề con người ưu tư liệu có phải con người tâm tư đơn thuần? Cảm hứng hiện sinh từ phía con người ưu tư thực sự hướng đến vấn đề căn bản hơn, sâu xa hơn. Bởi nếu chỉ dừng lại ở bình diện tâm lý thì xưa nay con người vốn luôn luôn ưu tư đó sao. Nhưng mối ưu tư này đưa tới vấn đề tồn tại người: “mỗi mảnh vụn tâm hồn ta là một nỗi bất hạnh mang tên các người”. Ưu tư về những kẻ mở mắt những không thực hiện việc trở thành con người (tâm hồn thui chột). Do đó, đây là mối ưu tư căn bản – con người ưu tư vì thế là con người thực hiện cuộc hiện sinh. “Ưu tư không phải là một hiện tượng hay đồng nhất với trạng thái tâm lý mà ưu tư là vấn đề bản thể luận”.
“xướng ngôn: hãy nghe đây lời ta một lần và mãi mãi trong trái tim nhiệt tình tuổi trẻ, trong hốc cùng của định mệnh khắt khe, trên đỉnh cao của những tuyệt vọng và những khát thèm bon chen quyền uy danh vọng – ta là người mù, người mù sống giữa trần gian – là người mù ôm trái tim người yêu trầm hương từ hai mươi thế kỷ - ta cúi xuống bằng cặp mắt làn môi của một người nhân danh tình yêu và sự sống – nước mắt ta nhỏ xuống mờ tan muôn nghìn dấu tích – trong tuyệt đối và ở chặng đường cuối cùng của một đời người ôm trọn khối tình riêng, ôm khối tình riêng vô cùng ngạo nghễ - từ đó ta tâm hồn ta vỗ cánh bay xa”
(Du Tử Lê, 2020, tr. 86)
Biểu hiện của ưu tư trong thơ ca thường là nỗi xao xuyến. Đời ảo vọng: quyền uy, danh vọng, … gây ra những băn khoăn vì sự hư vô của đời. Không riêng gì Du Tử Lê, nỗi xao xuyến bâng khuâng cũng dễ dàng tìm thấy trong thơ ca. Nhưng với Du Tử Lê, nỗi xao xuyên không phải sợ hãi. Ngược lại, nhà thơ đắm mình vào niềm xao xuyến. Bởi cảm nghiệm ưu tư, bộc lộ ra như là xao xuyến, góp phần khảng định sự có mặt trên phương diện tinh thần của con người. Tuy nhiên, xao xuyến đưa nhà thơ bước vào cõi giới suy tư mịt mù. Phải chăng đây là bóng dáng của hư vô trong mối ưu tư xao xuyến không ngừng trong cõi thơ Du Tử Lê. Có một kẻ “tha nhân” liên tục đối diện hắn trong tâm thức, liên tục nói chuyện với chính hắn, hay thực chất chính hắn đã phân thân thành những tâm hồn khác nhau. Ưu tư trong tự thân tha nhân. Nhà thơ vẽ ra hình ảnh con người ưu tư một cách minh xác, rõ ràng. Hình tượng con người ngồi trong đêm, bị bóng đêm bao vây “đêm có một mình – có một mình anh”, chỉ có một mình là biểu tượng cho nỗi ưu tư căn bản trong tâm hồn.
“đêm có sông
có đồng cát lở
đêm có khăn tang
quấn phủ đầu mình
đêm vuốt mặt anh – đêm ủ mặt em
đêm có một mình – có một mình em
đêm có một mình – có một mình anh”.
(Du Tử Lê, 2020, tr. 94)
Có lẽ sự đắm mình trong xao xuyến của Du Tử Lê chính là trạng thái sẵn sàng đón nhận ưu tư nhằm mục đích khai mở yếu tính mà Heidegger đã nói đến. “Bởi thế kẻ mà trong yếu tính của nó được gọi vào trong chân lý của hữu thể luôn luôn được rung cảm một cách cốt yếu. Sự can đảm trong sáng đối với sự xao xuyến cốt yếu đảm bảo cho khả tính đầy bí nhiệm về kinh nghiệm hữu thể. Vì sự kinh hãi hiểu như là sự lo trước hố thẳm cư ngụ gần xao xuyến cốt yếu. Nó soi sáng và bao bọc nơi chốn này của yếu tính con người, trong lòng nơi chốn đó con người trú ngụ như ở nhà mình trong cái mà vẫn còn lại” (Martin Heidegger , 2004, tr 81). Can đảm đón nhận nỗi xuyến xao chẳng phải là dấn thân vào cuộc sinh hiện bằng tinh thần biết chịu trách nhiệm và dám quyết định hay sao. Rõ ràng, ưu tư và xao xuyến là căn nguyên của trách nhiệm và tự quyết. Do đó, ưu tư gắn liền với dấn thân. Việc này cũng gián tiếp xác nhận rằng, âu lo, dấn thân, và ưu tư gắn liền với nhau. Việc phân chia các tiểu mục này nhằm mục đích làm rõ các yếu tính ấy của con người/tha nhân. Thực tế các khía này không hề tách rời.
2.2. Cảm hứng hiện sinh trong thế giới quan
Cảm nhận về thế giới hình thành nên thế giới trong trang viết. chính cảm nhận đó bộc lộ quan điểm về cuộc hiện hữu và tha nhân. Do đó, dựa trên sự ghi nhận thế giới quan, luận văn trình bày cảm hứng hiện sinh của nhà thơ Du Tử Lê với những nét riêng trong cảm thụ và phản ánh thế giới nghệ thuật. Cần nói thêm, cảm hứng hiện sinh trong thế giới quan hay đúng hơn đó là cảm hứng nghệ thuật khởi dựng từ sự quan sát/cảm nhận/phán đoán thế giới, khiến cho thế giới hiện lên trong tư duy chủ quan của chủ thể như là cõi giới của cuộc hiện sinh. Điều này có nghĩa là, thế giới quan ấy bộc lộ cách thế hiện sinh của chủ thể, chứ vấn đề được bàn đến không đơn thuần là vấn đề thế giới tách biệt. Hơn thế, chính cách thế hiện lên của thế giới qua ánh mắt chủ quan của chủ thể sáng tạo đã cho thấy cách thế hiện hữu của chính chủ thể. Cũng nghĩa là, vấn đề vẫn đặt trọng tâm ở chủ thể trữ tình, chủ thể sáng tạo, trọng tâm ở vấn đề con người hiện sinh trong mối quan hệ hiện hữu giữa thế giới. Hay nói như Heidegger, thế giới hình thành thế giới thông qua “tôi” – “hữu tại thế/Dasein”. (như đã bàn đến trong tiểu mục về các phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh).
2.2.1. Thế giới trống rỗng, vô nghĩa
Sự trống rỗng hiện sinh kỳ thực còn đáng sợ hơn tù đày hoặc thống khổ trong những mối quan hệ xung quanh. Nhận thức về thế giới trống rỗng khiến vấn đề hiện sinh lộ ra vẻ vô lý không thể chấp nhận được. Cảm hứng hiện sinh trong thế giới quan biểu thị nhận thức về một thế giới rỗng, vô nghĩa đến mức “sụp đổ”. Cảm hứng này trước hết là một vấn đề tâm lý. Như Erich Fromm từng nói rằng nhận thức của [con người] về bản thân như một thực thể riêng biệt, nhận thức về tuổi thọ ngắn ngủi của chính mình, về thực tế rằng anh ta được sinh ra mà không theo ý muốn của anh ta, anh ta sẽ chết, rằng anh ta sẽ chết trước những người anh ta yêu, hoặc họ trước đó anh ta, nhận thức về sự đơn độc và tách biệt của anh ta, về sự bất lực của anh ta trước các lực lượng của tự nhiên và xã hội, tất cả những điều này làm cho sự tồn tại tách biệt, rời rạc của anh ta trở thành một nhà tù không thể chịu đựng được . Thế giới hiện ra như nhà tù “rỗng” khổng lồ bao trum chủ thể. Những hình ảnh như: ngày chưa tới, như hình/bóng, … minh chứng cho không gian có vẻ tồn tại nhưng không tồn tại. Không gian hiện hữu chỉ là “dấu chấm than!” – trạng thái lưng chừng. Bởi vì vậy, ta không thể đặt vấn đề về hiện sinh trong cõi giới đó. Nhưng càng không thể đặt vấn đề về hiện sinh trong tình thế như vậy thì vấn đề hiện sinh càng lộ diện và thúc bách. Cũng tức là, chủ thể không thể né tránh và chối bỏ thực trạng thế giới trống rỗng.
“mưa chưa đi khuất, ngày chưa tới
Đêm, treo ngược tôi: dấu chấm than!
Mùa hoen giếng mắt, như vừa khóc
Gọi hết tàn phai, gõ một lần.
Trời đem mây xuống neo chân sóng
Gió hú đường bay ngang ngọn cây.
Tử/ sinh vốn dĩ như hình/bóng
Linh hồn nào còn quẩn quanh đây?”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 15)
Nhưng liệu thế giới rỗng và vô nghĩa như vậy có phải là kết quả của cuộc chiến và cái chết, tức là cảm hứng hư vô hậu chiến như Sartre từng nghĩ. Hư vô và xa rời thế giới sống thực nảy sinh từ thực trạng bi đát của một xã hội vô nghĩa lý, sụp đổ ngổn ngang và “Không Còn Chúa Sau Thế Chiến”. Liệu thế giới trống rỗng, vô nghĩa trong cảm thức của chủ thể có phải nảy sinh từ sự phá sản các hệ giá trị và tinh thần. Hơn ai hết những nhà thơ nhà văn là những kẻ nhạy cảm hơn cả đối với vấn đề sống trải giữa cõi thế. Và do đó, vấn đề nghệ thuật hầu như trở thành vấn đề tìm kiếm hệ giá trị. Nhiều câu thơ của Du Tử Lê chính là sự truy tìm giá trị sống như vậy. Sự truy tìm đó biểu thị một đòi hỏi giữa cõi thế trống rỗng, vô nghĩa. Truy tìm mải miết, cuối cùng Du Tử Lê “về từ vô vọng”. Thế giới phá sản chỉ còn oan khổ, đợi chờ, héo úa, đìu hiu, … Du Tử Lê tạo ra vũ trụ đau thương.
“về tự một ngày mưa
em não nùng oan khổ
cây khẳng khiu đợi chờ
lá một đời héo úa
về tự một tình đau
môi ứ tràn máu mặn
ngực ngậm lời trăm năm
hồn đìu hiu rũ bóng”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 99)
Thơ Du Tử Lê giàu hình ảnh với tính thẩm mỹ cao, cho thấy óc quan sát và sáng tạo đặc trưng của ông. Nhưng mặc dù tạo ra một thế giới có vẻ đầy đủ và “sum xuê” hình ảnh nhưng con người vẫn cảm thấy thiếu thốn. Thế giới trống rỗng hiện lên trong cảm quan của chủ thể nảy sinh từ niềm thúc bách của sự thiếu hụt, bất mãn, bất thỏa với thực tại. Con người sống trông một thế giới đầy đủ - thực chất chỉ là một thế giới nông cạn (cỏ hoang, ở chỗ nhân gian không thể hiểu, tận cùng, môi khép, …). Và một thế giới như vậy không thể đáp ứng nổi vấn đề hiện sinh, thậm chí phương hại đến khía cạnh hiện sinh. Vậy ra, thế giới như tồn tại nhưng tồn tại này nông cạn, thiếu thốn, vô nghĩa đến mức không thể thực hiện việc hình thành bản chất. “Tồn tại có trước bản chất”. Nhưng “tồn tại” thế giới không giúp mang lại một “bản chất” nào. Đó là thực trạng bi đát giữa một thế giới trống rỗng.
“ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi gửi trong người những hạt sương
xót nhau mai mốt về đâu đó
đều thấy hồn tôi trên cỏ hoang
*
ừ thôi môi đã là môi khép
chẳng hẹn trăm năm cũng tận cùng
đêm qua có kẻ cuồng điên khóc
em bảo tôi: ồ sao trẻ con!
*
ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi với người chung một trái tim”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 132-133)
Cảm hứng thế giới trống rỗng, vô nghĩa không chỉ đặt ra vấn đề hiện sinh ở kiếp này mà còn đẩy tới sự trống rỗng của thế giới bên kia “hú gọi âm u”. Tức là không có cứu cánh “khép cửa”. Bởi vì đâu còn thế giới bên kia nữa. Vì không còn ý nghĩa, giá trị và đáp ứng cuộc hiện sinh từ tinh thân đến thể xác “tôi như núi đứng đây chờ bão tố”. Sự sụp đổ của thế giới này kéo theo sự sụp đổ về sự tồn tại thế giới bên kia như một cứu cánh cần thiết nhằm nâng đỡ tâm hồn người. Có lẽ với cảm hứng như vậy, thế giới trống rỗng, vô nghĩa trong thơ Du Tử Lê hiện lên một cách tạm bợ, hời hợt, thoáng qua. Bởi chủ thể nhận thức rõ ràng sự không có thực và không đủ hiện sinh lượng chất của thế giới. Nên sống, yêu chỉ là yêu và sống tạm, khuây khỏa chốc lát. Sống nghĩa là buồn, yêu lại càng buồn. Du Tử Lê “thấy trăm năm chỉ tựa một đôi giờ”. Chính một đôi giờ yêu đương có nghĩa lý, ngược lại đã khẳng định sự vô nghĩa của thế giới. Cho nên, nếu không có yêu thương, thế giới không thể lập thành.
“tôi như núi đứng đây chờ bão tố
em như rừng. đừng hú gọi âm u
rồi mắt-chiều-rơi chạm đáy thiên thu
kẻo nhân loại thấy tình ta quá tội
tôi chân thật biết đâu mà nói dối
thấy trăm năm chỉ tựa một đôi giờ
em hãy về gội sạch xót xa xưa
trang trải hết. tôi cũng về, khép cửa”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 45)
Rõ ràng qua những phân tích vừa rồi, chúng ta thấy dường như Du Tử Lê gần với phía hiện sinh vô thần. Gần với Nietzsche và sau nữa là Sartre, khiến thơ Du Tử Lê có sự buồn bã, ủ dột nhưng cũng nồng nàn và cay đắng (xót xa xưa). Có thể xem thơ ông như một ly rượu mạnh. Hương vị cay nồng, thiêu đốt ruột gan nhưng cũng mê ly quyến rũ. Bằng cách dịch chuyển cái nhìn, Du Tử Lê phát hiện ra thế giới. Thế giới ấy gợi hứng cho ông làm thơ. Vần thở khởi sinh từ cảm hứng thế giới ấy xuất hiện trong cách thế trống rỗng. Bởi lẽ, khi người ta thay đổi cái nhìn chủ quan, thoát khỏi cá nhân để nhìn lại cuộc sống xung quanh thì những điều quan trọng nhất, tất yếu nhất, thiết thân nhất, … liền trở thành vô nghĩa một cách nực cười.
Cõi thơ Du Tử Lê, rốt cuộc, cõi giới rộng rinh rợn ngợp, vừa thống thiết vừa tha thiết. Nhà thơ mang khát vọng truy tìm cứu cánh hiện sinh nhưng đồng thời cũng ôm lấy “tội tổ tông” và khao khát chân lý tuyệt đích. Khao khát đó biểu thị một thế giới đã hoàn toàn tan biến giá trị. Có lẽ chỉ còn tình yêu là nghĩa lý. Bởi vậy, nhà thơ đong đầy thế giới bằng tình yêu. Chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến khía cạnh này ở tiểu mục sau. Một thế giới của niềm khát yêu và khát sống.
2.2.2. Thế giới của khát yêu và khát sống
Thế giới tình yêu hay chủ thể phóng đôi mắt tình yêu để nhìn thế giới. Nhà thơ Du Tử Lê đong đầy thế giới bằng tình yêu. Phải nói tình yêu chiếm số lượng đáng kể trong những sáng tác của ông. Rõ ràng, như đã nói ở tiểu mục trên, tình yêu là một cách mà nhà thơ cố gắng truy tìm nghĩa lý thế giới. Lấy tình yêu để nhìn thế giới, nhà thơ kỳ vọng tình yêu có thể mang lại sự cứu cánh, tránh cho thế giới trượt dài vào trống rỗng vô nghĩa. Nhưng tình yêu vốn bất thành. Tình yêu kèm theo nỗi bồn chồn lo lắng. Du Tử Lê cho ta thấy tiếp bi kịch tình yêu. Thế giới tình yêu là một thế giới khổ nhiều hơn vui, đau nhiều hơn sướng. Thế giới tình là cõi giới “chung thân”. Nhà thơ cảm thấy yêu và cưới, đeo nhẫn như đeo gông. Ngày tình “chín” cũng là lúc tâm hồn “nguội lạnh”.
“thức dậy em, một ngày đầu tháng bảy
ngày chung thân, ngày địa ngục, thiên đàng
ngày mở đời, ngày gọi kiếp lang thang
ngày vang vọng tiếng reo bầy con sẽ có
*
trước hai họ, anh sẽ vờ hiền hậu
em chớ cười khi thấy mặt anh nghiêm
em cứ vờ như hai đứa không quen
cứ đỏ mặt khi được đeo nhẫn cưới
anh nói nhỏ theo lòng anh (rất vội)
từ phút nào em đã nhốt đời anh
từ phút nào sông nước đã loanh quanh
tình đã chín trên bậc hồn đá lạnh”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 77)
Ấy vậy, Du Tử Lê vẫn cảm ơn cuộc tình đã mạng lại cuộc đời cho ông. Tình yêu còn dẫn ông đến tận cùng thế giới. Chẳng phải vậy mà xưa nay kẻ yêu nhau thường lấy chân trời góc bể thề hẹn. Du Tử Lê có cách nói khác: đáy thương yêu. Thế giới tình yêu là thế giới tận cùng. Nhưng khao khát yêu làm sao tận cùng. Chỉ có thể bất thành, tan vỡ, dang dở, lỡ làng, chia cách, bấy giờ mới có thể giữ trọn vẹn khao khát. Cũng nghĩa là, kẻ yêu nhau còn có thể cùng nhau đi đến tận cùng. Nói vậy, thế giới khát yêu của Du Tử Lê có khác gì thế giới lưu đày. Ở khía cạnh này dường như ông gần gũi với Đặng Trần Côn và người dịch bản Nôm (Lê Tuyên, 1988). Cũng như cuộc dấn thân, thế giới khát yêu là cái người ta không thể né tránh. Cũng như, người ta không thể né một khi tình cạn đáy “Chúng ta đà chạm đến đáy thương yêu”. Đó là thứ kinh nghiệm phải trải qua. Cơ hồ, chính trải nghiệm yêu đến khát cuồng mới lập thành “sự tại thế” của con người. Cho thấy con người từng có mặt và để lại dấu vết yêu, nòi tình nào đó trên cuộc đời.
“Ký ức tôi, vẽ hình ai rạng rỡ,
Để hôm nay, tôi vẫn biết ơn người.
Ngày qua vội. tôi ngồi đây tự nói:
-quỹ thời gian tôi sắp hết theo đời.
Dù người nhớ hay quên thì, cũng vậy
Chúng ta đà chạm đến đáy thương yêu”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 11)
Merleau- Ponty nhận định rằng: “con người bị kết án phải có ý nghĩa”. Cũng liên quan đến vấn đề ý nghĩa, Du Tử Lê lý giải bằng “vay-trả”/ “đời sau”-“hiện tại”. Liệu tình yêu có thể mang lại một ý nghĩa nào? Điều này ta chưa chắc. Nhưng nếu yêu mà không khát thì rõ ràng vô nghĩa. Lung lay trên đôi bờ yêu và khát, có khi Du Tử Lê “đánh bạn với hư vô”. Phải chăng vì vậy, sự khát yêu của Du Tử Lê biểu hiện nỗ lực tạo dựng nghĩa lý cho tồn tại thế giới. Thậm chí, nhiều bài thơ, ông cho thấy quan điểm: thế giới không có tình yêu là một thế giới chết, không có em cõi đời như thể không tồn tại. Tình yêu trở thành định lý cho tồn tại thế giới.
“đánh bạn với hư vô,
mặt trời tôi vỡ. vụn.
lửa ấm ngực thơm. thơ /
tôi cuối trùng vây, khốn.
*
vay mượn của đời sau,
trả lãi bằng hiện tại.
người biết chẳng lâu đâu!
chỉ còn tôi: sương. khói”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 148-149)
Hơn thế nữa, với Du Tử Lê, thế giới khát yêu, khát sống cũng là thế giới của tội lỗi “Thượng đế hãy quay đi/ khi chúng tôi hạnh phúc”. Tội tổ tông có lẽ là ám ảnh truyền kiếp về bi kịch của việc yêu, bi kịch giữa bắt buộc/định mệnh và ý chí tự do. Yêu thể hiện ý chí tự do (như Sartre đã bàn trong Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản). Nhưng rõ ràng, yêu cũng là một trải nghiệm không thể né tránh. Mắc kẹt trong yêu, nói khác, nhà thơ mắc kẹt trong thế giới phải sống. Tình yêu đưa tới “tận cùng chân lý” hay “che sự thật”. Buông rèm che sự thật, phải chăng một cảm thức siêu lý nào đó về tình yêu. Thế giới khát yêu khát sống ở đây phải chẳng biểu thị lối tư niệm rất riêng của chủ thể trữ tình, nói đúng hơn chính là Du Tử Lê. Lối siêu hình tình yêu ở đây, chẳng thể nói rõ dứt khoát, nhưng có thể nói Du Tử Lê đã đưa yêu và sống vào chỗ cốt lõi của hiện hữu vậy!
“Thượng đế hãy quay đi
khi chúng tôi hạnh phúc
về với tội tổ tông
thấy tận cùng chân lý
em một đời như đêm
buông rèm che sự thật”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 69)
Như vậy cảm hứng hiện sinh hay cảm hứng trong cuộc thế phải yêu phải sống căn bản là tình trạng dang dở, nửa vời và rốt cuộc chỉ dẫn con người đến chỗ “Bất khả tư nghì” như chính Du Tử Lê đã nói tới trong thơ ca của mình. Mắc kẹt trong tình trạng đó, thơ Du Tử Lê như những bài tụng kinh theo thời khóa trong nhà chùa. Thế giới khát yêu và khát sống dường như một bản án “ba nghìn thế giới mà ta vẫn” mà nhà thơ phải dùng chữ nghĩa để ráp lại rồi rã ra muôn đời, hòng tìm kiếm một lối thoát cho tình trạng mắc kẹt. Phó từ “vẫn” như lời khẳng định truy tìm tuyệt đích tình yêu. Yêu đưa tới một thế giới khả thể tự do, yêu cũng mang tới một thế giới khả thể tù ngục. Tình yêu đưa tới thế giới thiên đang hoan lạc thống khoái, tình yêu cũng đưa tới thế giới âm phủ đau ruột xé gan.
“này em Bồ Tát. ôi ta biết
kinh nệ nào khuyên ta bỏ nhau!
như gió chiêm bao còn thổi, mãi
lối về chuông, mõ tấy thương đau.
*
ba nghìn thế giới mà ta vẫn
không biết về đâu? trụ ở đâu?
chùa xưa đã đốt. ta đi vậy
tam bảo và em ở cõi nào?”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 120-121)
Quả thực, xưa nay chưa có ai muốn tụng kinh cho tình yêu vãn sanh. Nhưng Du Tử Lê đã làm một việc vô tiền khoáng hậu: đặt em ngang hàng tam bảo. Rõ ràng, ông nhận thức một cách sâu sắc về sự dang dở của tình yêu, của hành động yêu và khả năng mở ra thế giới ý nghĩa. Dùng quan niệm Phật giáo về các cõi giới, Du Tử Lê phác họa cõi thơ khát yêu, khát sống. Nhưng có lẽ đến cuối đời ông vẫn khát. Nỗi khát khao ấy càng tìm cách thỏa mãn càng thêm khát khao. Điều này dẫn tới sự tan rã của những cõi thế giới khác nhau. Giữa cõi tình và cõi đời, giữa cõi người và cõi không phải người, giữa cõi thực và cõi tâm tưởng. Nội dung này, chúng tôi sẽ tiếp tục làm rõ ở tiểu mục sau.
2.2.3. Thế giới hiện thực và tâm tưởng
Bằng cách kéo thế giới từ bình diện thực tiễn vào tâm linh, nhà thơ luận lý để thế giới nảy sinh ý nghĩa. Đó là vì ông muốn thế giới này không vô nghĩa, nên tìm mọi cách để xây dựng một giá trị nào đó, một ý nghĩa nào đó cho đời sống. Nhưng càng thực hiện càng thấy, thế giới hiện thực và tâm tưởng là hai cõi giới khác nhau không thể hàn gắn, không thể hợp nhất. Bởi thế giới hiện thực không hàm chứa ý nghĩa hiện sinh. Thế giới tâm tưởng chẳng khác gì cái nhìn xa lạ cách trở với hiện thực vì không thể nối kết với nó bằng cây cầu hiện sinh được. Như Heidegger từng nhận định: “Thế giới bản thể luận không phải là ý nghĩa của hiện hữu, vì thực chất của nó không phải là Dasein, mà là một đặc tính của chính Dasein”(Lê Thành Trị, 1974, tr. 339-340). Rõ ràng, thực tại đâu phải con người. Nó không phải là người, nhưng nó tác động để người trở thành Dasein (Hữu tại thế). Cho nên, người không thể tách mình khỏi nó (tiền thân ta). Thế giới tâm tưởng – một biểu hiện của Dasein – vì vậy cũng không thể tách rời hiện thực. Nhưng càng chung đụng, càng gần gũi, càng kề cận mới thấy hiện thực không phải “mình”. Chính Du Tử Lê đã nhận ra điều đó. Có lẽ vậy mà nhà thơ muốn bỏ cả thiên đàng. Từ bỏ giới lý tưởng đặt con người vào chốn “thiên đàng”. Cõi thiên đàng ấy khiến thực tại người “thất lạc”. Nó cuốn người “ra biển”. “Biển” là hình ảnh ẩn dụ cho hư vô.
“kẻ nào gọi tên ta
từ thiên đàng cao cả
phải em đang trở về
hay tiền thân ta đó
sống với nỗi kinh hoàng
chứa căng từng tiếng động
phải em là nước sông
cuốn đời ta ra biển
xác tan theo từng dòng
cuối cùng hồn thất lạc
ôi ngày tháng dương gian
thiên đàng ta muốn bỏ”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 86-87)
Hoặc hiện thực bóp chết thế giới tâm tưởng, nên đành vậy phải tách mình khỏi thực tế, trốn chạy khỏi thực tiễn, nhà thơ đưa thơ vào một cõi giới xa lạ, sâu thẳm. Nhưng khía cạnh này giúp cho thơ Du Tử Lê có chiều sâu, mê hoặc, khiến độc giả dường như miên man vào miền tâm thức nào đó rất xa xôi. Dường như độc giả cùng nhà thơ đi đến “tận cùng đêm”.
“những con chữ như sông,
đã bỏ ta đi khuất.
tôi lội qua mùa đông.
cùng em thời lót ổ.
.
những con chữ như mây,
trên vai đời thất lạc.
lao lung những đường bay,
tận cùng đêm: thương-lắm”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 40-41)
Ngược lại, tâm tưởng cũng không ngừng giày vò cấu xé thực tiễn, phơi bày thực tiễn. Điều này khiến cho thực tiễn càng hiện ra kịch cưỡm, buồn bã, bi đát, đời thất lạc vì vì vậy (và như đã nói ở mục trên, làm thế giới càng hiện ra trống rỗng hơn). Nhưng sự buồn bã bi đát này được đón nhận một cách có trách nhiệm. Như Sartre nói rằng khi những nhà hiện sinh cho rằng con người hèn nhát nhưng dám chịu trách nhiệm về sự hèn nhát, tức là hắn đủ mạnh mẽ để đối diện với cuộc hiện sinh. Những câu thơ có vẻ buồn bã, bi đát được Du Tử Lê mang lại trong cách thế sẵn sàng chống chịu. Nếu mặc định đời người buồn bã, tội lỗi và trống rỗng, con người sao không mạnh dạn đối diện và nhận lãnh như món quà ân điển Thượng đế ban cho “cảm ơn phần đời riêng”.
“thương tích đầy thân, tâm
Ai chết còn trợn mắt?
Cảm ơn phần đời riêng
Người tặng tôi cuối kiếp”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 21)
Rốt cuộc nhà thơ không thể nối kết thực tiễn và tâm tưởng, không thể thống nhất thành một lối biện chứng cho tâm hồn. “Bất khả tư nghì”: nhà thơ đã dùng thuật ngữ Phật giáo để gọi tên tình trạng này. Cái nào “bến giác” cái nào “bờ mê”, tâm tưởng với thực tại cái nào là mê cái nào là giác. Dẫu rằng có nỗ lực biện chứng giữa tồn tại và dấn thân để cho thấy tâm tưởng và thực tiễn gắn liền nhau, nhưng nhà thơ không thể. Thực tiễn khác gì tồn tại khách quan, tâm tưởng như kết quả đưa lại kho con người ta dấn bước bào đời. Kết quả của cuộc dấn thân đó đưa lại giới tâm tưởng, nhưng đâu đâu nhà thơ cũng thấy nghịch dị với thực tiễn. Nghịch lý là bản chất của thực tại, hay chính vì tâm tưởng mà thế giới thực tại hiện ra một cách nghịch lý. Cho nên, Du Tử Lê “bay suốt đời chưa thấy được mình”, rồi ông xóa hình ông chẳng còn ai nhớ nữa.
“bất khả tư nghì nỗi xót, đau.
bến giác, bờ mê bạc mái đầu.
ngày nghiêng nhớ xuống vai tiền kiếp.
chuông mõ âm, âm ngã mạn, nào?
bay suốt đời chưa thấy được mình!
ta hồn chim biển, bóng trong kinh.
soi gương thấy lệ ai còn, chảy.
chiếc lá người bay ngoài nhân duyên.”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 119)
Thế giới thực tiễn là sự giới hạn của thế giới tâm tưởng. Bi kịch chính ở chỗ đó. Sartre gọi tình thế đó là thảm trạng nô lệ “bay suốt đời chưa thấy được mình”. Con người dường như mắc kẹt giữa thực tiễn và tâm tưởng. Nhiều khi, chúng ta nhận thấy Du Tử Lể quẩn quanh trong chính làn sương nhập nhòe của thực tiễn và tâm tưởng. Những “giới hạn tiên nghiệm” trong thơ ông biểu thị ra thành nỗi day dứt phủ trùm thế giới thơ. Thế giới phủ trùm con người, tạo thành thân phận. “Về thân phận, họ hiểu một cách ít nhiều rõ ràng là toàn bộ những giới hạn tiên nghiệm phác họa nên cái hoàn cảnh (situation) nền tảng của con người trong vũ trụ. Những hoàn cảnh lịch sử luôn biến đổi: con người có thể sinh ra đã là nô lệ trong một xã hội dị giáo, xã hội của lãnh chúa phong kiến hãy xã hội vô sản”(Jean Paul Sartre, 2015, tr. 68). Con người chính là kẻ lãnh chúa đồng thời là nô lệ trong vương quốc tâm tưởng của hắn. “Cái không biến đổi, đó là tính tất yếu con người phải tồn tại trong thế giới, phải lao động, sống chung với những người khác, và chết trong thế giới ấy”(Jean Paul Sartre, 2015, tr. 68). Như vậy, có khác gì thế giới thực tiễn và thế giới tâm tưởng cầm tù lẫn nhau, ta và tha nhân cầm tù lẫn nhau, ta và tha nhân biến nhau thành bi kịch đời sống.
2.3. Cảm hứng hiện sinh trong cái tôi trữ tình
Thơ như là thể loại bộc lộ tình cảm, đặc trưng của thơ là sự thể hiện rung động cảm xúc. Cho nên, thơ hầu như gắn liền với tính chất trữ tình. Và trữ tình là biểu hiện của cái tôi. Hay nói khác đi, cái tôi là sự cảm thụ chủ quan của chủ thể trữ tình khi đối diện với thế giới. Do đó, cái tôi trữ tình là vấn đề cốt lõi, thể hiện đời sống nội tại của thơ ca. Bàn đến cảm hứng nghệ thuật trong thơ ca không thể không bàn đến cái tôi trữ tình.
Với trường hợp Du Tử Lê cũng vậy. Cái tôi trữ tình là sự biểu hiện độc đáo, cá tính, riêng biệt của nhà thơ khi đứng trước thế giới. Sự cảm thụ, khởi hứng từ cái tôi trữ tình cũng bộc lộ quan điểm tư tưởng của nhà thơ. Thơ Du Tử Lê với số lượng tác phẩm đồ sộ và bề dày tư tưởng trong suốt quãng đời mấy chục năm sáng tác của ông là một vấn đề phức tạp. Cái tôi trữ tình trong thơ Du Tử Lê có thể có nhiều trắc diện khác nhau. Tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi nhìn nhận dưới góc nhìn chủ nghĩa hiện sinh thì cái tôi trữ tình được khởi hứng về sự cảm nhận của chủ thể trữ tình, có những phương diện: cái tôi cô đơn, buồn phiền; bản năng và nhục cảm; ám ảnh và chọn lựa.
2.3.1. Cái tôi cô đơn và buồn phiền
Khi nhà thơ phát khởi cái nhìn về sự hiện hữu, nhà thơ đã tự tách mình khỏi hiện hữu. Kant gọi cách suy nghĩ như vậy là “phản tư ý thức”. Nhưng với thi sĩ, một khi tách mình khỏi hiện hữu, mặc nhiên nhà thơ rơi vào một từ trường cảm xúc cô đơn. Xưa nay trong thơ ca, nỗi cô đơn không thiếu. Hầu như nhà thơ nào cũng ít nhiều cảm thấy cô độc, lẻ loi giữa đời sống. Phải chăng vậy mà nhiều khi người đời vẫn hay đánh giá thi nhân tự trốn mình vào tháp ngà, tách mình khởi đời sống.
Thế nhưng, nếu nhìn từ góc nhìn khác, ta thấy cái nhìn “phản tư” của thi sĩ như vậy là cần thiết. Bởi vì với sự tách biệt này, sự cô đơn này, thi nhân có cơ hội nhìn lại chính hiện hữu của mình. Trước hết là sự hiện hữu của tâm hồn mình. Cái nhìn nội tại quay lại nhìn sâu vào chính mình. Nhờ đó, thi nhân phát hiện ra những phần uẩn khúc sâu kín trong chính nội tâm của mình. Chính thế, cái tôi trữ tình càng bộc lộ ra như là đối tượng phức tạp và nhiều trắc diện khác nhau. Cảm hứng hiện sinh ở cái tôi trữ tình, có lẽ, có thể nói là sự quay về nhìn ngắm chính nội tại tâm hồn của thi nhân.
Với Du Tử Lê cũng vậy. Ta thấy ông hay có xu hướng quay lại, phát hiện chính nội tâm của tinh thần, biểu hiện hứng nghệ thuật đó thành ra sự cảm nhận, thành ra sự rung động của tâm hồn mà độc giả cảm thấy hòa điệu và thích thú. Dẫu rằng tác giả miêu tả thế giới bên ngoài, nhưng con chữ nào cũng thấm đẫm chính cảm xúc tâm hồn của chính nhà thơ. Nỗi buồn khi nhìn nhận lại chính nỗi buồn, thì lúc đó nỗi buồn đã sinh đôi, đã bội phân nỗi buồn lên nhiều lần. Cái nhìn nội tại của nhà thơ, khiến cho nỗi buồn phiền hiện ra rõ ràng hơn, bao trùm hơn. Đến nỗi, có khi ta cảm nhận thơ ca chính là buồn vậy.
“Tháng giêng. Người/đỉnh gió,
Nụ hôn ngoài nhân gian.
Tay nâng niu khốn khó.
Chắt chiu từng yêu thương.
Ngày thắp nắng trên môi.
Chiều rơi theo lá đời.
Vẫn ơn người hứng đợi:
Nỗi buồn kia – sinh đôi”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 12)
Và buồn với cô đơn là một phép biện chứng của tâm hồn. Du Tử Lê đi tới nỗi buồn trong thơ ca bởi vì cô đơn. Chính vì cô đơn mà nhà thơ nhận ra căn bản nỗi buồn của hiện hữu. Đâu đâu cũng là buồn phiền bởi vì đâu đâu cũng cô đơn. Nhưng chẳng phải thế giới khiến cho người thơ lẻ loi cô đơn. Người thơ cô đơn vì chính trong tâm hồn đã sẵn có, đã sẵn cảm thấy cô đơn rồi. Cô đơn là một đặc điểm, một căn bản vốn có của tâm hồn người. Chẳng phải vì xa cách em, chẳng phải vì một mình, chẳng phải không còn ai nữa, mà thi nhân cảm thấy cô đơn. Chính cái tôi trữ tình đã là cô đơn rồi. “Kỷ niệm chia phôi với gối, chăn”. Cho nên, nhà thơ nhìn thấy đâu cũng thiếu vắng, nhìn thấy đâu cũng trống trải bơ vơ, “khuất. em và nắng”. Cái tôi cô đơn, làm thành vũ trụ cô đơn, làm thành một thế giới chia xa vĩnh việt bất khả kháng.
“mưa đi xa, khuất. em và nắng.
Tưởng chút buồn? sao mãi thốn tâm?
Người đi xa, khuất.đêm và, bóng.
Kỷ niệm chia phôi với gối, chăn”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 50)
Thơ của Du Tử Lê, độc giả có thể tùy tiện đọc một bài bất kỳ trong những tập ấn hành gân đây, để tìm kiếm một vài vần thơ u buồn chẳng có gì khó. Đối với những bạn đọc thích đắm mình trong nỗi buồn chia cách thì có lẽ thơ Du Tử Lê chính là bầu không khí u buồn thích hợp cho những trái tim đa sầu đa cảm như vậy. Có nhiều bài thơ, ta cảm thấy thi sĩ ngất lịm trong nỗi buồn. Bởi lẽ, đâu đâu cũng là nỗi buồn. Buồn có nhiều cung bậc. Buồn có nhiều biểu hiện: buồn như “tai ương”, buồn “thảm thiết”. Buồn từ sơ sơ thoáng qua cho tới buồn thảm thiết như tai ương của hiện hữu. Buồn biểu hiện trên thịt da trong khóe mắt, cho tới buồn biểu hiện trong suy tưởng và yêu thương. Du Tử Lê có biệt tài trong việc biểu hiện nỗi buồn, cũng như sự phức tạp của tâm hồn bấy nhiêu thì cũng có bấy nhiêu sắc diện của nỗi buồn “Sớm mai không độ lượng: vết thương, buồn”.
“đêm cắt lát những bình minh lỗi hẹn.
Thịt, da khuya: mở cửa đón hương. Nguồn.
Mỗi sợ tóc chờ nghe! Chiều. phiến loạn.
Mua qua sông. Thập giá cúi thương dòng.
Môi an nghỉ chỗ riêng, sau ngấn cổ.
Tiếng hát tìm góc phố: ủ tai ương.
Vai gom giữ lần răng … thảm thiết …
Sớm mai không độ lượng: vết thương, buồn”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 66)
Từ chỗ cô đơn, nhà thơ đưa độc giả đến nỗi buồn phiền. Rồi từ nỗi buồn phiền, tác giả lại đưa người đọc đến với thế giới linh hồn. Đây là quá trình đi từ ngoài vào trong, đi từ nông đến sâu, càng ngày càng đi sâu hơn vào cái tôi trữ tình của thi nhân. Và trên quá trình này, chúng ta phát hiện sự cô đơn và nỗi buồn càng vào sâu bên trong càng dày đặc; “ở đây cùng tận điêu tàn”, buồn biến cõi người tận cùng điêu tàn. Đời căn bản là buồn. Đến nỗi, quá trình đi vào cái tôi trữ tình của thi nhân chẳng khác gì đi vào tâm lỏi cô đặc của tồn tại u buồn của kiếp người. Cho nên Du Tử Lê nói: “nhớ em mê muội tình thề”. Từ cái tôi của thi nhân, chúng ta thấy cái tôi căn bản của con người trong đời sống. Cái tôi này chẳng gì khác là một nỗi buồn bao vây linh hồn “ở đây hồn mở nắp quan’.
“ở đây mái rã hiên mòn
chắt chiu giọt muộn rớt buồn tay vơi
mưa chan muối mặn thân người
xót tôi nửa kiếp thả lời kêu van
ở đây cùng tận điêu tàn
tôi so vai ngủ trên bàn gỗ trơ
trở mình nghe nặng vai đưa
sát khung cửa ngỏ ai vừa thác oan
ở đây hồn mở nắp quan
đầu kê mộ chí mắt khan nẻo về
nhớ em mê muội tình thề
đên hâm thân nóng ngày lìa trí khôn”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 22)
Bài thơ này, Du Tử Lê sáng tác từ năm 1968, cũng tức là ở giai đoạn đầu trong đời thơ của ông. Thế mà, ngay từ buổi ấy, cõi thơ của ông đã ngập tràn u buồn. Chúng ta nhìn thấy một cái tôi trữ tình với những ưu tư buồn phiền hiện sinh ngay từ khi Du Tử Lê còn rất trẻ. Phải chăng đó là đặc điểm chung của thế hệ. Một thế hệ con người chìm đắm trong quê hương tang thương bởi chiến tranh và ly loạn. Bối cảnh đời sống như vậy khiến người ta suy tư và băn khoăn nhiều người, buộc người ta phải ở trong tâm thế trăn trở. Trước hết là trăn trở trong chính tâm hồn mỗi con người, sau nữa là trăn trở về chính hiện hữu của con người giữa đời sống này. Cảm hứng hiện sinh trong cái tôi buồn phiền, căn bản là niềm day dứt về hiện hữu người giữa thế giới đầy biến động.
Nói về cái tôi cô đơn, buồn phiền, chúng ta có nhận xét rằng, càng về sau trong đời thơ của mình, Du Tử Lê càng buồn và cô đơn hơn. Nhưng nếu những bài thơ ở giai đoạn đầu của sự nghiệp có sức nặng của ưu tư thì càng về sau, nỗi buồn và cô đơn càng khiến cho thơ ca Du Tử Lê trẻ lại. Đó là sự thay đổi của cô đơn và buồn phiền, thay đổi sức ảnh hưởng, cho thấy cái tôi trữ tình trong Du Tử Lê đã thay đổi. Mà đúng hơn là ông chọn lựa thái độ khi đối diện với buồn phiền và cô đơn. Càng về sau, ông tỏ ra có thái độ tích cực hơn với nỗi buồn và cô đơn. Đời sống nếu đã là bản án lưu đày, là một hiện hữu buồn phiền căn bản, thì con người không thể né tránh, nếu đã không thể né tránh thì cứ thản nhiên giữa đời. Cái tôi của Du Tử Lê khi đối diện với nỗi buồn và cô đơn trong giai đoạn cuối đời có gì bình an, yên ổn, lắng đọng và bình tâm hơn. Phải chăng, khi đã quay cuồng trong sự đời buồn bã hàng chục năm trời, thi sĩ đã nhận ra được ý nghĩa của sự hiện hữu cô đơn buồn phiền. Và nỗi buồn với cô đơn không phải cái gì đáng sợ mà ngược lại như một cơ hội. Đó chính là cơ hội để nhà thơ chiêm nghiệm về nghĩa lý của hiện hữu. Phải chăng vậy mà nhà thơ đã “xiển dương” thay vì lên án. Cái tôi buồn phiền buổi đầu đã trở nên “thản nhiên” sau rất nhiều năm tháng lặn hụp trong buồn phiền.
“xiển dương câm, nín: trăng bôi mặt.
chim không rớt bóng. thú ghê rừng.
trái tim lập mộ (không tro, cốt!!!.)
kết thúc sau cùng: một kín bưng.
xiển dương đời khác: thêm hư. dối.
tự hỏi thăm mình: hoa. mỗi đêm.
đi qua một kiếp như nghìn kiếp.
ta giống côn trùng! sống thản nhiên.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 121)
Bài thơ Trái tim lập mộ (không tro, cốt) được Du Tử Lê viết năm 2011. Đây là thời kỳ mà trái tim thơ của ông đã tiếp cận với tư tưởng Thiền Tông (như chính ông có thuật lại trong cuộc tương ngộ đẹp đẽ với bài pháp thoại của Thiền sư Nhất Hạnh). Phải chăng vì sự gặp gỡ này mà cái tôi trữ tình trong hồn thơ Du Tử Lê như thể được “nhuận sắc”. Nhà thơ thể hiện tâm thế an nhiên khi đối diện với nỗi buồn và cô đơn. Không còn dầu vết đằng đẵng thương tâm như khi còn trẻ tuổi, như hồi quê hương còn tao loạn khói lửa. Bấy giờ, cái tôi trữ tình đã khởi đi từ cảm hứng rung động trước sự hiện hữu phổ quát của kiếp người nói chung. Ta nhận thấy tầm nhìn của thi sĩ rộng hơn, bao quát hơn, nhờ vậy ông nhận ra ý nghĩa của hiện hữu. Từ đó, trái tim thơ của ông “thản nhiên” nhìn lại nỗi buồn và sự cô đơn của kiếp người.
2.3.2. Cái tôi bản năng và nhục cảm
Bản năng sống và bản năng chết. Hai ý hướng này đã được phân tâm học nghiên cứu rất sâu sắc và toàn diện. Nhất là nhà tâm lý học Freud. Ông đã sử dụng hình ảnh vị thần Hy Lạp cổ để hình tượng hóa bản năng này. Đây là đặc trưng chung của cái tôi con người đặc biệt càng mạnh mẽ ở các chủ thể sáng tác. Bản năng người nghệ sĩ dường như mạnh mẽ và kịch liệt hơn so với người thông thường. Nhất là khi người nghệ sĩ bị đặt vào tình thế bất khả kháng, vào chỗ không thể né tránh, buộc phải ưu tư về sống và chết. Bản năng sống gắn liền với nhục cảm, bản năng chết gắn liền với hủy diệt phá hủy. “Theo Freud, con người ngay từ khi sinh ra đã mang trong mình hai bản năng căn cốt là bản năng tự bảo tồn và bản năng chết mà ông gọi là hai xung năng: Eros – vừa là tính dục vừa là xung năng sống, phát sinh ra nguyên tắc khoái lạc và Thanatos – xung năng chết, biểu trưng cho bản năng gây hấn và cái chết. Hai xung nắng ấy cũng chính là hai lực lượng vô thức mạnh ngang nhau, đối chọi nhau: một thúc đẩy ta hành động, sống và chinh phục, một còn lại thúc đẩy ta buông xuôi, tan biến và chết” (Trần Nhật Thu, 2016, tr. 57). Có thể nói, ở người đồng thời có cả hai xu hướng: một xu hướng lao mình vào đời sống; một xu hướng từ bỏ xa rời đời sống.
Với thi nhân, thơ ca là khối mâu thuẫn lớn. Ta cũng thấy điều này ở Du Tử Lê. Khối mâu thuẫn, phi lý biểu thị ở chỗ, ông vừa yêu đời sống thiết tha mãnh liệt; vừa quẫy đập giãy giụa thoát ly đời sống. Du Tử Lê trong tình yêu mãi trẻ và “xốc nổi”. Nhà thơ có lúc nồng nàn lao mình vào cuộc đời “giáp mặt với hư vô” với tất cả sự triển nở, yêu thương, tươi tắn của tâm hồn. Nhưng cũng rất nhiều bài thơ, nhiều con chữ cho thấy ông rã rời, hoang mang, trào thoát khỏi hiện thực, tìm đến cái chết. Thực tế này đôi khi thật khó lý giải, nhưng nó có thực và tồn tại thực trong thế giới thi ca Du Tử Lê. Tình yêu vốn mặc định của kẻ thực sự sống. Vậy kẻ thực sống sống với cái bản năng nhục cảm ấy có gì lạ. Lời kêu gọi: “Tôi đã gọi: này em giờ phút cuối”, dường như khá gần gũi với Xuân Diệu “Mau với chứ vội vàng lên với chứ”.
“tôi vẫn nhớ trưa nào em đã khóc
Ngực tôi nay còn ấm lệ trăm năm
Chắt chiu từng kỷ niệm ắp lầm than
Nhưng sông núi có bao giờ biến đổi
Em nên biết ai không từng xốc nổi
Mà quê hương chưa hề mất bao giờ
Như hôm qua giáp mặt với hư vô
Tôi đã gọi: này em giờ phút cuối”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 46)
Ta thấy nhà thơ vừa khát em, vừa khát đời; thế nhưng vẫn chia biệt, cách ngăn, tan biến, kết thúc. Bi kịch toàn diện và phi lý. Giữa ý sống và ý chết, có lẽ Du Tử Lê nghiêng về phía ý sống nhiều hơn. Dẫu gì, ta vẫn thấy nhà thơ tỏ ra bản năng trong tình yêu. Khát vọng tiêu biến, hủy diệt đã bị khát vọng yêu thương khỏa lấp, đến nỗi tìm nhau trong “thần thoại”, trong “nhật nguyệt”, trong “tháng năm”. Nỗi thèm khát đời sống và thèm yêu thương trong thi ca Du Tử Lê mạnh mẽ hơn ý chết, có lúc khỏa lấp ý chết. Ý sống biểu hiện qua trái tim yêu và khao khát về thể xác; nhà thơ rất khéo léo trong những chỗ nói về khía cạnh nhục cảm. Ngòi bút và ngôn từ của ông không lạm dụng nhục cảm, ngược lại biến nhục cảm thành mỹ cảm, sự cảm xúc đã đầy tròn vẹn của yêu thương, rung động cả thể xác và tinh thần. “tìm nhau thao thiết hồn chim biển”: khao khát bản năng ấy là niềm thao thiết ngàn năm, ví như từ cổ sơ trong tâm hồn, từ tiền kiếp đã mang lấy khát khao u uẩn trải qua tìm kiếm muôn đời.
“tìm nhau thần thoại trong môi ngọc
đôi nhánh vai gầy thương thế gian
trái tim nhật nguyệt vào năm tháng
vóc lụa em về rất Mỵ Nương
*
tìm nhau thao thiết hồn chim biển
chở hết mùa đi. đợi tái sinh
dáng em công chúa lìa cung điện
nên lãm-ca buồn mắt thiếu niên”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 26-27)
Đáng nói hơn, từ nhục cảm, nhà thơ dẫn bạn đọc đến chỗ nhận ra cảm thức hiện sinh. Tất nhiên, chính nhà thơ đã khởi dựng cảm hứng hiện sinh từ trong sự cảm nhận nhục cảm “một khuya thôi đủ ấm biết bao đời”, chỉ cần một đêm ân ái cũng đủ sưởi ấm trái tim một đời người. Qua thể xác qua mường tượng qua đụng chạm xác thịt (cửa ngực), tâm hồn thi sĩ đã khởi dựng cảm hứng về hiện hữu về sự tồn tại người, để rồi bằng con chữ, thi nhân đã tái hiện và ký thác linh hồn mình, gồm chứa cảm hứng về hiện hữu ấy trong chữ nghĩa. “đời không thật! duy nỗi buồn có thật!!!”. Quả thực, đời sống vốn vô nghĩa, nhưng ái tình và nhục cảm dường như là cơ hội cho đời có nghĩa. Những vần thơ đầy nhục cảm nhưng cũng đầy sầu tư phiền não, phiền não bởi day dứt suy tưởng băn khoăn về tình yêu, về thân phận về đời người. Thơ Du Tử Lê đi từ nhục cảm nhưng đã vượt qua phạm vi ranh giới nhục cảm để vươn đến tầng mức hiện sinh, tầng mức tư tưởng. Đọc thơ, người ta thấy một linh hồn suy tưởng không thôi. Ngay cả khi yêu, dù ngay lúc đụng chạm cận kề thì tâm hồn ấy vẫn không thôi suy tưởng. Bản năng yêu cũng gắn liền bản năng suy tưởng.
“con đường cụt đi hoài mà chẳng hết!
một khuya thôi đủ ấm biết bao đời.
nhưng tiếng hát đã lìa, xa cửa ngực;
sao vọng âm vẫn gọi ánh sao rơi?
đôi môi mẹ thả tôi vào cõi khác,
như em còn chín, nẫu nỗi băn khoăn.
đời không thật! duy nỗi buồn có thật!!!
một tên người: lát cắt mấy trăm năm”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 24-25)
Ngay cả tên gọi bài thơ, chúng ta cũng nhận ra niềm khát khao nhục cảm của nhà thơ Du Tử Lê. Ông là một người đa sầu đa cảm, mà cảm nhiều nhất là đụng chạm thể xác. Đúng hơn, thể xác của ái tình, chứ không phải thể xác theo cách hiểu thông thường. Du Tử Lê có lẽ là một trong số những nhà thơ có tác phẩm gợi cảm nhất trong thi ca Việt Nam. Với những bài thơ như: đôi môi em: Vú mẹ thuở thanh xuân; Còn thơm tay quý phi; Trong tay thánh nữ có đời tôi; Ngấn lệ thôi tìm môi tủi thân; Nụ hôn sâu; kỷ niệm chia phần với gối chăn; mưa từ đôi mắt nhau; nâng một đời sông ngang mắt môi; nụ hôn nào cư ngụ với mai sau; … Dường như thi si sống chủ yếu với yêu thương và khát khao. Thơ ca đến nỗi chính là khao khát. Bản năng ẩn hiện trong từng chữ. Không thể sống mà không yêu, không thể yêu mà không đụng chạm gần gũi cận kề.
“và, em ạ. chớ quên mùa lá, cũ.
những con đường cắm bảng: cấm đi qua.
dẫu một sớm, có người nhầm, gõ cửa.
(âu cũng là tiếng hát lỡ tay, khua).
khi nước mắt thôi tìm tôi để khóc
dù bóng, hình thức, nhức tự xa xăm
môi khó ấm, khi tiếng cười đã lạnh.
tôi cuộn tôi trong thảm bụi. ai nằm?”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 90)
Bản năng và nhục cảm không đưa tới hiện thực tầm thường của con người. Du Tử Lê có khuynh hướng đưa tư tưởng vào cảm nhận nhục cảm khiến cho những câu thơ vừa có sự quyến rũ vừa có chiều sâu nhất định. Khi nước mắt (ẩn dụ cho em) thôi tìm tôi để khóc, để thở than, nhưng niềm “đau nhức” vẫn âm ỉ còn đó dẫu xa xăm nhưn rõ ràng còn hiển hiện. Đó cũng là niềm đau nhức bản thể hiện sinh. Biểu hiện niềm đau “tiếng cười đã lạnh”, khiến cho đôi môi yêu không thể ấm nồng. Bằng nhục cảm gần gũi đụng chạm, nhà thơ cứ khiến người đọc phải cảm thấu một nghĩa lý gì xa xôi hơn. Đó là sức gợi trong thơ Du Tử Lê.
2.3.3. Cái tôi bị ám ảnh và lựa chọn
Cái tôi ám ảnh và lựa chọn – nhắc tới vấn đề này cũng tức là đi sâu hơn vào tâm lý của con người. Nói khác, đây là địa hạt của tiềm thức, đi về phía vô thức và có thể đi xa hơn, tùy theo mức độ và phạm vi, vào tận vô thức tập thể. Đi về phía sâu kín này ta có thể phát hiện nền tảng ẩn tàng sâu kín, tạo nên cách suy tưởng của chủ thể, lý giải được vì sao tâm tưởng của chủ thể (của cái tôi) lại bộc lộ ra như vậy.
Với Du Tử Lê, ta hay bắt gặp bóng hình người con gái lởn vởn, quanh đi quẩn lại, có đi tới đi lui xuất hiện ám muội mơ hồ trong cõi thơ của Du Tử Lê. Đến nỗi, bạn đọc sẽ thấy rằng hình bóng người con gái thực ra chỉ là nỗi ám ảnh trong lòng nhà thơ mà thôi. Ám ảnh bóng hình một người con gái nào đó. Người con gái của tiềm thức cổ sơ, của huyền thoại mộng mị. Người con gái thực hay ảo, không quan trọng nữa, bởi trong thi giới của Du Tử Lê, người con gái là có thực và chi phối vận động linh hồn của nhà thơ. Người con gái này không đơn thuần chỉ là một bóng hình gắn liền với tình yêu thương hay nhục cảm thể xác. Người con gái thực chất có thể xem như một biểu tượng của vô thức, mà thơ ca là cơ hội để vô thức mênh mông trào thoát khỏi sự kiểm soát của ý thức, biểu hiện ra trong suy tư. Người con gái của vô thức tương đương với oan khiên của thân phận, của nỗi buồn hiện hữu, của cái chết và hư vô. Việc lặp đi lặp mãi cảm thức đó, cho thấy Du Tử Lê bị ám ảnh. Cái “tôi đi/về vẫn tôi” cứ trở đi trở lại cho nên, “bao lần thì cũng thế”. Nhà thơ như con người buộc phải lựa chọn, nhưng không thể lựa chọn. Có chăng, người chỉ có thể “xóa xong hình tôi”, tự xóa bỏ mình, tuyệt đối hư vô mình, mà thôi!
“chim một đời vẫn bay!
ai biết là bóng nổi?
tôi đi / về vẫn tôi!
đâu ngờ là xác chết!?!
mùi hương, quen cho môi
/ tôi / nỗi buồn: tháng sáu.
tôi xóa xong hình tôi!
chẳng còn ai nhớ nữa.
người có về ngang đây,
bao lần thì cũng thế!.!”
(Du Tử Lê, 2019, t.r 64-65)
Thời gian và không gian đóng vai trò như là khung tham chiếu, hệ quy chiếu, hỗ trợ cho việc tư duy của con người. Do đó, bất cứ suy tư nào cũng không thể thoát khỏi sự lệ thuộc vào thời gian và không gian. Đễn nối không gian và thời gian như là phượng tiên trợ lực cho suy tư của con người. Người suy tư không thể suy tư ngoài không gian và thời gian. Thế nhưng, vấn đề không đơn thuần như vậy. Với thơ ca, chúng ta đã từng nghe nói qua về nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu, nhưng Du Tử Lê ở đây cũng ám ảnh thời gian, thế nhưng lại rất khác nhau. Nếu Xuân Diệu cuống quýt, gấp gáp, vội vàng thời gian, lo âu sợ sệt thời gian trôi qua, cuộc đời và tình yêu phai tàn; thì Du Tử Lê xem thời gian “buổi sáng”, “chiều”, “buổi trưa” như là dòng chảy tàn bạo “xuôi về một nghĩa địa”. Nỗi ám ảnh như bóng ma dáng quỷ đeo bám nhà thơ. Thời gian hiện hữu như củi lồng câu nhốt tâm hồn con người. Du Tử Lê “chỉ riêng mình nấn/níu”. Nấn ná níu giữ chỉ là nỗ lực gắng gượng trên con đường của chúng ta, nhưng dẫu gì cũng sẽ trôi về huyệt mộ tất yếu.
“buổi sáng tôi ra đi,
Thấy chiều trong đáy cốc.
Buổi trưa tôi trở về,
Thấy cây ngồi thở dốc.
Chúng ta: những con đường.
Xuôi về một nghĩa địa.
Đời thầm, bấm nhát dao.
Chỉ riêng mình nấn/níu”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 83)
Thời gian thể như con đường: “Chúng ta: những con đường”, mà đúng hơn là dòng chảy. Dòng chảy hiện hữu của đời sống không có đường nào khác, đều chảy về nghĩa địa, chảy về hư vô tận diệt. Chẳng khác gì mọi nẻo đường dòng sông hiện hữu của đời người đều chảy về biển. Biển là sự biên mông tận diệt, nơi hư vô hóa thân phận. Ở biển lớn, chủ thể tiêu biến, cá nhân không còn nữa, chỉ có biển đời hòa lẫn con người vào vô tận mênh mông. Ám ảnh về tận diệt và hư vô, ám ảnh cái chết – vấn đề này cũng có mối liên hệ với bản năng chết mà chúng tôi đã nhắc đến ở tiểu mục trước. Rõ ràng bản năng chết là động cơ thúc đẩy, khiến cho thi nhân cứ cảm thấy niềm chết đu bám, đeo riết, tàng ẩn xung quanh và chất nặng trong tâm tưởng. Ám ảnh cái chết, ám ảnh hư vô, vừa là ám ảnh rất căn bản trong tâm hồn mỗi vừa, vừa có cấp độ và phạm vi khác nhau. Cuộc tình đã chết, mắt tủi, lời vui, hồn rụng, đời chia đôi, tình khốn nhục, … đó là nỗi ám ảnh mất mát, tiêu mòn. Với Du Tử Lê, ám ảnh chết và hư vô nhập nhờ trong nẻo sống. Cơ hồ, sống như là một hình thức chết. Chết là một hình thức sống khác. Chết là một trải nghiệm hiện sinh mà nhờ đó, con người cảm nghiệm được nghĩa lý sống. Sự mâu thuẫn, phi lý mà ngẫm ra hợp lý, trong cách cảm nhận về cái chết và hư vô của Du Tử Lê. Đó là biện chứng của tâm hồn vậy.
“hãy mang đi hồn tôi
khi cuộc tình đã chết
còn lời nào cho vui
còn mắt nào cho tủi
hãy mang đi hồn tôi
một hồn đầy trái rụng
đời đã đời chia đôi
tình đã tình khốn nhục
trước khi người phải chết
nhớ một lần đêm nay
mưa đắp mềm vai người
buồn đắp mềm thân tôi
quanh ta đời đã lụn”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 52-54)
Những câu thơ như lời kinh, Du Tử Lê tụng niệm, cầu khấn cái chết. Phó từ “hãy” kết hợp động từ “mang” minh chứng cho điều này. Nhưng để ông xua đuổi cái chết và hư vô. Việc lặp lại liên tục qua từng câu thơ, chẳng khác gì nhát dao mà nhà thơ khắc vào tâm tưởng. Trước là khắc vào tâm tưởng của chính mình, sau là khắc vào tâm tưởng của người đọc. Xua đuổi cái chết, đẩy xa hư vô, nhưng bàn tay, tâm hồn và ngòi bút của thi nhân lại lấm lem cái chết và hư vô nhiều hơn nữa. Hồn thơ Du Tử Lê ngập ngụa, dính dớp, bị bao vây bởi ám ảnh hư vô và chết chóc tận diệt. “Quanh ta đời đã lụn”, thì còn gì nữa đâu. Xác quyết, khẳng định này cho thấy nỗi ám ảnh trong hồn thơ Du Tử Lê hầu như bao trùm lên các khía cạnh khác của cái tôi.
Từ ám ảnh người con gái tuyệt vọng bất khả hiệp đôi, từ ám ảnh cái chết và hư vô, Du Tử Lê đưa người đọc vào thế giới của chia cách. Lựa chọn – nhà thơ không có lựa chọn. Nhà thơ bị lựa chọn. Chia cách, ngăn trở, ly biệt đã chọn Du Tử Lê. Từng con chữ bộc lộ niềm ly biệt hết sức tự nhiên. Nhà thơ có khi nồng nàn, có khi thống thiết mà cũng có lúc lại tỏ ra lạnh lùng dửng dưng, khi đối diệt với ngăn cách, ly biệt. Bởi lẽ, hồn thơ của thi nhân đã hiểu, sự cảm nhận của chủ thể hay cái tôi ở đây, đã cảm nhận được ly biệt cách ngăn là bản chất của tình yêu và đời sống. Sống và yêu tức là ly biệt, là tan vỡ, là ngăn cách. Sống là chia phôi với đời sống. yêu là cách ngăn với người yêu, người với người như hố thẳm, như tinh cầu cô độc không thể hiệp thông. Riêng chàng một khúc “K”, bất khả kháng, lựa chọn thực chất là bất khả năng, hay như Sartre gọi là bản án lưu đày. Bản án yêu và sống trong cách trở chia phôi, chính là cảm hứng hiện sinh mà Du Tử Lể đã thấu triệt để chuyển tải trong nhiều bài thơ của mình. Ví dụ như: ngồi trong đêm, khi tưởng tới người vắng mặt, như vết chàm trong tôi, di chúc của một chia tan, tôi muốn giấu dòng sông trong mỗi tủi, về từ vô vọng, …., và đặc sắc tiêu biểu cho niềm chia biệt muôn đời, niềm chia biệt không thể né tránh được, chính là bài thơ “khúc k. riêng chàng”.
“tôi xa người xa miền thiết tha
hoa xuân đã héo rụng, hiên nhà
phố xưa em buộc đôi hàng bím
nay tóc về đâu? – hồn ở đâu?
tôi xa người xa niềm mê oan
hồn tôi khô xác sợi giây đàn
máu tôi đã gửi trong con chữ
dẫu chết, còn nguyên lời oán than
tôi xa người xa một mùi hương
bãi khuya, hồn ốc, lạc thiên đường
nhớ ai buồn ngất trên vai áo
mưa ở đâu về? – như vết thương”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 88-90).
Dường như thi nhân nói riêng, văn nghệ sĩ nói chung, ai cũng đều ẩn chứa nỗi ám ảnh gì đó trong tâm hồn. và chính nỗi ám ảnh này thường xuyên xuất hiện trở đi trở lại trong tác phẩm của họ, tạo thành “đặc sản” nghệ thuật trong cuộc đời làm nghệ thuật của họ. Với Du Tử Lê, ở những bài thơ đầy ám ảnh nhưu vậy, thì thơ của ông lại hay, độc đáo và thu hút độc giả. Chính những vần thơ ám ảnh như vậy lại tạo thành sự thành công cho thơ ca của Du Tử Lê.
Tiểu kết chương 2
Trong cái nhìn về tha nhân, hay nói khác đi, sự quan sát và nắm bắt thế giới, Du Tử Lê đã tạo ra thế giới thi ca của ông. Ở đó, chúng ta nhận thấy bóng hình tha nhân đang rơi vào thoái thác âu lo. Những kẻ đang sống buộc phải lựa chọn, tự quyết, chịu trách nhiệm. Càng sống, cõi người càng bao trùm bởi âu lo thân phận. Âu lo như điều tất nhiên, họ nỗ lực vùng vẫy. Tha nhân càng dấn thân, càng đối đầu nhiều đe dọa. Con người dấn thân chứa đầy căng thẳng và xung đột. Tha nhân mãi mãi bị cuốn vào những biến cố đổi thay dịch chuyển của dòng đời, tha nhân đã kiến tạo đời hắn trên đường nhập cuộc. Ưu tư dầu chẳng giải quyết được gì nhưng ưu tư là mặc nhiên. Dầu cho thương tích đầy mình đi chăng nữa. Ưu tư là khổ lụy. Một khi ưu tư tức là bị đẩy vào cuộc dấn thân. Thương cho tha nhân bị dày vò đay nghiến trong suy tưởng. Biểu hiện của ưu tư trong thơ ca thường là nỗi xao xuyến. Chủ thể không thể né tránh và chối bỏ thực trạng thế giới trống rỗng. Truy tìm mải miết, cuối cùng Du Tử Lê “về từ vô vọng”. Nhưng “tồn tại” thế giới không giúp mang lại một “bản chất” nào. Đó là thực trạng bi đát giữa một thế giới trống rỗng. Cảm hứng thế giới trống rỗng, vô nghĩa không chỉ đặt ra vấn đề hiện sinh ở kiếp này mà còn đẩy tới sự trống rỗng của thế giới bên kia. Bản năng sống và bản năng chết. Hai ý hướng này đã được phân tâm học nghiên cứu rất sâu sắc và toàn diện. Nhưng cũng rất nhiều bài thơ, nhiều con chữ cho thấy ông rã rời, hoang mang, trào thoát khỏi hiện thực, tìm đến cái chết. Thực tế này đôi khi thật khó lý giải, nhưng nó có thực và tồn tại thực trong thế giới thi ca Du Tử Lê. Khao khát bản năng ấy là niềm thao thiết ngàn năm, ví như từ cổ sơ trong tâm hồn, từ tiền kiếp đã mang lấy khát khao u uẩn trải qua tìm kiếm muôn đời. Dường như thi si sống chủ yếu với yêu thương và khát khao. Thơ ca đến nỗi chính là khao khát. Bản năng ẩn hiện trong từng chữ. Không thể sống mà không yêu, không thể yêu mà không đụng chạm gần gũi cận kề.
CHƯƠNG 3: CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ DU TỬ LÊ
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Phương thức biểu tượng hóa
Giấc mơ đôi khi rất rời rạc mơ hồ và vô nghĩa. Có khi người ta quên hẳn giấc mơ sau khi thức dậy. Nhưng một số giấc mơ lập đi lập lại trong đời sống tinh thần lại có ý nghĩa nhất định, chí ít nó bộc lộ những “tổn thương” trong tinh thần mà chủ thể phải chịu đựng. Nói theo lối bệnh học, ấy là triệu chứng của sự rối loạn nào đó. Trong phạm vi văn học nghệ thuật, cơ chế dồn nén hoán vị (Nguyễn Phước Lộc, 2020, tr. 59-75) khiến người nghệ sĩ tạo ra những hình ảnh, ký hiệu thơ độc đáo riêng biệt (Võ Quốc Việt, 2013, tr. 141-150). Hơn nữa, người nghệ sĩ chịu sự chi phối mạnh mẽ của địa hạt vô thức hơn là địa hạt ý thức. Do đó, từ chất liệu giấc mơ, người nghệ sĩ có thể kiến tạo các biểu tượng, mà ở đó họ chuyển tải giá trị nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm.
Lược qua một số tính chất siêu nghiệm (mang tính huyễn hoặc), chúng ta xem giấc mơ như kết quả đưa lại của sự dồn nén nào đó trong tâm thức. Và việc nó bộc phát trong cơn mơ, chuyển thành biểu tượng trong chữ nghĩa. Đó là những gì mà chúng tôi mong muốn trình bày trong tiểu mục này. Quá trình biểu tượng hóa từ phần vô thức đến chữ nghĩa và từ chữ nghĩa trở lại giá trị tư tưởng của nó. Chính quá trình biểu tượng hóa (symbolization) góp phần cho chúng ta thấy rõ các ý hướng hiện sinh. Trong trường hợp này, chính là ý hướng hiện sinh bộc lộ qua các biểu tượng.
3.1.1. Xây dựng biểu tượng bằng giấc mơ
Khai thác địa hạt vô thức, người nghệ sĩ có thể “lạ hóa” thế giới nghệ thuật của mình bằng những biểu tượng sống động. Hơn thế nữa, vô thức còn là nơi cất giữ những “ẩn ức” bị dồn nén theo thời gian. Và thông qua giấc mơ, những ẩn ức đó được bộc lộ ra dưới hình thức hình ảnh/hình tượng/biểu tượng. Giấc mơ vừa là chất liệu vừa là phương tiện và phương thức để người nghệ sĩ tạo ra các biểu tượng thi ca. Ngoài ra, bởi xuất phát từ ẩn ức trong vô thức cho nên giấc mơ cũng cất chứa những suy nghĩ mang ý nghĩa hiện sinh nhất định, những băn khoăn ưu tư về đời người, về số kiếp và thân phận.
Giải nghĩa giấc mơ cũng chính là tìm kiếm ý nghĩa hiện hữu đằng sau những biểu tượng khởi sinh từ giấc mơ đó. Căn bản, giấc mơ có hai phương diện: hiển lộ và tàng ẩn. Khía cạnh hiển lộ biểu thị trên mặt chữ như là những biểu tượng thi ca. Phần tàng ẩn chính là những dồn nén bị chất chứa do không thỏa mãn dục năng. Không nên hiểu dục năng (libido) theo ý nghĩa hạn hẹp như Freud mà cần hiểu dục năng như những khát vọng nói chung, những ước vọng không thành trong thực tế, tạo thành những vết hằn trong tâm lý chủ thể sáng tạo.
Biểu tượng hóa con người nạn nhân. Du Tử Lê đã tạo ra biểu tượng bằng sự nhập nhòe giữa thời gian ngày và đêm, đời còn và mất, giữa thực sự hiện hữu và vô nghĩa. Bằng cách đặt con người nằm “lắt léo” giữa đôi bờ như vậy, ông đã tạo biểu tượng những con người thừa thải như nạn nhân của chính đời sống mình. Bằng cơ chế dồn nén, sự bất thỏa mãn bởi khát khao cho đời một cứu cánh, thơ ca như là sự bột phát tuôn trào và giải tỏa niềm nhức nhói của hư vô trong tâm thức người. Con vi trùng đục rỗng tâm hồn chỉ là biểu tượng cho nỗi niềm ám ảnh được giấc mơ “hóa kiếp” thành ra một “dị vật” trong tâm hồn. “Con vi trùng” tạo ra “sốt”, “say”, “mù”, “trán khô”, “khốn khổ”. Cơ chế của giấc mơ ở đây biểu thị qua sự triệt tiêu/hoặc ít nhất là tê liệt nhất thời của tri giác. Chủ thể trữ tình ở đây ở trong thế bị động.
“con vi trùng không tên
đục rỗng tôi tự đó
cơn sốt người bao năm
hôm nay còn vật vã
tháng năm tôi dựng ngược
mắt mù cơn mưa say
trán khô vùng bão rớt
cát ngủ trong đầu già
vai nhô vùng rét buốt
[…]
tôi chẳng thể muối mặt
chối, không hề yêu ai
như trước mặt mọi người
tôi nhận tôi khốn khổ”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 49)
Biểu tượng hóa con người giẫy chết. Ám ảnh về cái chết, điều này tạo ra vết hằn trong tâm trí Du Tử Lê. Đã gọi là ám ảnh, tức tồn tại mặc định trong vô thức. Và có khi không thể lý giải. Có thể khởi đi từ những gì nhà thơ thường đã gặp trong đời sống. Không bàn đến nguyên do tạo nên ám ảnh, nhưng ám ảnh là minh chứng cho vô thức bị dồn nén, để nỗi ám ảnh đó hoán vị thành ra những hình ảnh, mà những hình ảnh này mang thêm ý nghĩa gì khác ngoài nội hàm của nó. “Hồn” chính là biểu tượng được biểu tượng hóa từ giấc mơ/vô thức, đưa bạn đọc đến nhận thức về kiếp người đang giẫy chết mỗi ngày. Có phải vì cuộc chiến vẫn bao vây cuộc sống thường ngày. Chết chóc chiến tranh buộc nhà thơ phải đối diện với cái chết ngay cả trong giấc mơ. Sự lặp đi lặp lại của cái chết trong không gian âm u lặng lẽ, bao vây bởi làn sương mộng tưởng, có phải chết đã trở thành một biểu tượng thơ từ nỗi ám ảnh đó. Nỗi ám ảnh chết thực chất là ám ảnh hư vô. Nỗi ám ảnh về sự mất mát một ngày nào đó khi không còn ta trên cõi đời này nữa. Ám ảnh chết thực sự là biểu hiện của bản năng chết (Thanatos) và bản năng sống (Eros) (Trần Nhật Thu, 2016, tr. 57-64). Hai hình thức bản năng này dầu ngược hướng nhưng cùng một bản chất. Xu hướng giẫy chết và giẫy sống thực chất cùng biểu thị sự bất thỏa với thực tại hiện hữu và đòi hỏi vươn đến một “dự phóng” khác, trật ra khỏi chiều hướng “tất định” như là định mệnh của cuộc đời con người. Biểu tưởng chết trong thơ Du Tử Lê đã được tạo ra từ nỗi ám ảnh và dồn nén như vậy. Đồng thời nó cũng bộc lộ biểu hiện hiện sinh về sự tồn tại của con người trên cuộc đời này. Hồn phải chăng chính là biểu hiện cho lối biểu tượng hóa mà ở đó ý thức đã yếu đi nhường chỗ cho vô thức/tâm khảm bị ức chế biểu hiện ra. Cái chết ở đây, nói đúng hơn, cái chết của ý thức/những gì che đậy tầng mức sâu kín của tâm hồn. Cái chết này đã khởi đầu cho hiện hữu khác, đích thực hơn!
“hãy mang đi hồn tôi
một hồn đầy bóng tối
một hồn đầy hương phai
một hồn đầy gió nổi
hãy mang đi hồn tôi
một hồn đầy mắt đỏ
mưa nối liền vai người
buồn nối liền thân tôi
tình nối liền nỗi chết”,
(Du Tử Lê, 2019, tr. 52)
Biểu tượng chết được biểu thị thông qua cảm thức về cái gì đó “mãn cuộc”, sắp sửa kết thúc, hoặc sự kết thúc đang ở thì thực tại. Chủ thể sáng tạo phải đối diện với sự kết thúc và vô nghĩa ngay trước mặt, không thể né tránh. Đáng nói, Du Tử Lê tạo ra từ trường cảm xúc cho người đọc cảm nhận được sự mãn cuộc đó. Ngoài ý nghĩa câu chữ, nhà thơ còn tạo ra nhạc điệu góp phần làm cho người đọc cảm nhận bằng “trực giác”, chứ không đơn thuần dựa vào con chữ. Đó là giá trị của những giấc mơ mà ông đã kiến tạo. Giấc mơ khởi đi từ vô thức nên cũng có thể tác động đến vô thức. Có lẽ vậy, thơ Du Tử Lê đạt tới mức ám ảnh nghệ thuật, ăn sâu vào tâm thức của độc giả.
Biểu tượng hóa con người tội lỗi, dường như đó là tội tổ tổng, chúng ta thấy Du Tử Lê dường như chịu nỗi ẩn ức ghê gớm như những suy niệm liên hồi bất tận của Soren Kiergaard. Thực hiện việc sống trên cuộc đời là mặc nhiên ôm lấy khát vọng. Chính vì nhận thức tội lỗi, nên những khát vọng ước ao của con người phần nhiều bị dồn vào tầng vô thức. Nhưng dồn nén thì có hoán vị, những ám ảnh tội lỗi này nhờ có không gian giấc mơ lại trào ngược ra ngoài ý thức, tạo thành những hình tượng/biểu tượng mang tính chất liệu cho thi ca. Cái chết gắn liền tội lỗi. Hình ảnh một con người đi “ra biển”, như một bản án (thể hiện qua biện pháp điệp cấu trúc “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”) mà người phải trả cho tội lỗi làm người. Càng tội lội càng quyến rũ, càng cấm kỵ lại càng có ma lực mê đắm. Đó là sự cám dỗ của tội lội. Một trong số đó, Du Tử Lê lấy tình yêu làm biểu hiện cho biểu tượng hóa con người tội lội. Yêu, sống tất nhiên mang lại tội lỗi ngục tù nhục hình suốt kiếp.
“Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 71)
Biểu tượng hóa con người nhục cảm. Dầu tội lỗi trong tình yêu, nhưng rõ ràng nhục cảm có sức quyến rũ ghê gớm. Nhục cảm biểu thị qua một số hành động đụng chạm, rờ rầm, sờ mó, quờ quạng, ôm ắp, hôn hít và tính giao. Tức là sự tận hưởng lạc khoái của xác thịt. Du Tử Lê cũng không ngoại lệ. Ông sử dụng những hành động của thỏa mãn nhục cảm để thỏa mãn phần không được thỏa mãn trong đời sống thực đã bị dồn nén vào vô thức. Thơ Du Tử Lê phải chăng lãng mạn, trữ tình và ướt át thấm đẫm bởi phần nhục cảm này. Lấy con người nhục cảm để biểu tượng hóa, lấy hành động thỏa mãn nhục cảm để biểu tượng hóa, Du Tử Lê đã tạo ra hình tượng con người hoan lạc, hay nói khác đi, một quan niệm sống hoan lạc: “cám dỗ tinh ròng như nhụy, hoa”. Và hình tượng đó đã trở thành biểu tượng, bởi nó mang thêm lượng nghĩa mới ngoài bản nghĩa của nó. Quan niệm sống tức thì trong khoảnh khắc, tận hưởng cho thỏa thê bao lạc thú: “em về ẩm ướt khắp chiêm bao”. Vì ám ảnh chía cách chực chờ cuộc tình tất yếu phải tan vỡ và chia ly, cho nên trong giây phút cận kề phải hút sạch tinh túy ái tình, phải vóc cạn tình yêu no nê đã đầy. Từ nhục cảm của “ái lực” trong vô thức, nhà thơ đã tạo ra (thông qua quá trình biểu tượng hóa) những biểu tượng vừa gợi cảm vừa đầy ma lực. Đó là thứ “nhụy hoa” cám dỗ của ái tình.
“tưởng tĩnh, ai ngờ đụng nháng sao/.
em về ẩm ướt khắp chiêm bao /.
nguồn thiêng ở phút đầu sông tặng;
thác đổ, ghềnh neo trời. nao nao
tôi mời em vào thế giới riêng
thế giới không người. thế giới chim /.
ném đi ước lệ, quăng quần áo / .
tươi tốt nào hơn em khỏa thân?
địa đàng bôi xóa tự nghìn xưa
tôi có em, đâu cần Eva
đâu cần trái táo và con rắn
cám dỗ tinh ròng như nhụy, hoa /.”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 104-107)
Biểu tượng hóa con người ngục tù. Dầu bao nhiêu khoảng trời, dầu bao nhiêu đất sống, Du Tử Lê với bản tính người nghệ sĩ cũng cảm thấy không đủ. Vì cảm giác bất thỏa, không hài lòng tạo ra cơ chế giãy giụa trong tâm thức, khiến cho người cứ cảm thấy thế giới là nhà tù khổng lồ. Nhưng vì đâu mà cảm thấy không đủ? Có phải chính từ sự không thỏa mãn với thực tại đời sống mà thành ra thấy đời sống chỗ nào cũng ngột ngạt, nhìn thấy đâu cũng chướng tai gai mắt. Cuộc đời với Du Tử Lê trở thành một nhà tù vĩ đại. “Ta/hồn”, là biểu tượng cho người tù và kiếp tù. Con người bị cầm tù trong việc sống. Chàng Du Tử họ Lê bị cầm tù trong thơ ca.
“lòng đã hẹp nói chi trời bát ngát
óc như vung không thể úp mặt trời
ta ngu xuẩn như một con dế đá
nhưng lòng mềm như tóc mẹ, xưa, bay
nhưng hồn buồn như con bệnh trên tay
mẹ đã khóc như vỗ về ta ngủ
*
rồi khôn lớn tình ta như thác lũ
như cơn giông sập xuống một vuông đời
như mưa bay tầm tã một mặt người
roi quất ngược trên mình ta rướm máu”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 82-85)
Có thể thấy, giấc mơ là cõi giới rộng rinh mà con người có thể thả lòng tư tưởng trong đó. Ở đó cũng có những ảnh hình chi tiết độc lạ mà người nghệ sĩ có thể nắm lấy rồi tạo ra những biểu tượng có giá trị thẩm mỹ cao. Cũng bởi khởi sinh từ vô thức, những biểu tượng thơ được khai thác và nhào luyện từ vô thức của Du Tử Lê đạt được sự chín muồi về tư tưởng. Hay nói khác đi, có khả năng gợi tưởng mạnh mẽ. Nhất là gợi ra những suy tư về cuộc hiện hữu của chính bản thân một con người. Do đó, thơ Du Tử Lê sống với cộng đồng bạn đọc xưa nay chính bởi đứng về phía con người và vươn đến tầm nhân loại vĩ đại.
3.1.2. Xây dựng biểu tượng bằng luận lý
Tiếp thu lối phân tích “hiện tượng” hiện sinh mà gốc rễ khởi đi từ phương pháp hiện tượng học của Husserl cho tới phân tích hiện sinh của Sartre và Camus. Có lẽ đúng hơn là sự kết hợp việc đẩy con người rơi vào tình thế hiện sinh kiểu như Camus và phân tích hiện tượng hiện sinh kiểu như Sartre (Bùi Ngọc Dung 1964), đó chính là cách thức mà Du Tử Lê đã luận lý mang lại cho độc giả những biểu tượng thú vị, độc đáo.
Du Tử Lê có xu hướng đưa con người rơi vào tình thế nào đó. Chính tình thế này buộc con người phải suy tư và luận lý về ý nghĩa đời sống. Như Camus đã từng tạo ra những tình thế “hiện sinh” như vậy trong Buồn nôn và Bức tường buộc nhân vật phải ưu tư, Du Tử Lê sử dụng hoàn cảnh chiến tranh và nhiều hoàn cảnh khác nhau để luận lý. Cuộc đời dường như là một bàn cờ thế mãi hoài không có lối thoát. Tên “Sở Khanh” Du Tử Lê được tạo ra bằng cách luận lý/lý sự/biện minh/bào chữa cho sự phản bội tình ái. Nhà thơ bào chữa cho biểu tượng tên Sở Khanh, nếu một ngày anh hết yêu em. Bằng cách luận lý, ông tạo ra biểu tượng tên Sở Khanh. Ở đây, Sở Khanh lại là nạn nhân của cuộc hiện sinh. Không thể cưỡng lại những cũng đầy sợ hãi buộc phải từ bỏ. Tính chất nghịch lý ở đây được biểu thị qua lối luận lý trong tư biện của nhà thơ.
“một ngày kia anh sẽ hết yêu em
một ngày kia anh sẽ ra đi như một tên sở khanh
(chỉ thiếu con ngựa và chiếc roi để quất)
cho đến một phút nào
một phút nào trước sau gì cũng có
trước sau gì em cũng hiểu
vì sao đời mình không thể khác
và nhất là vì sao lệ mình không thể không rơi
vì sao chúng ta lại thốt gọi tên nhau
trong từng cơn hoảng hốt
vì sao anh không thể yêu ai khác hơn
(dĩ nhiên, trừ em, vì là ngoại lệ
dù vạn nhất chúng ta có sống tới lúc cả hai cùng già nua, lụ khụ)”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 41)
Biểu tượng hóa con người yểu mạng. Ưu tư đặt ra là chết và trẻ. Tuổi trẻ và cái chết nghịch lý với nhau những được kéo lại trong cùng một hoàn cảnh. Sự nghịch lý đó là tư niệm biện minh của chính chủ thể trữ tình cũng là của chủ thể sáng tạo, cho thấy cơ chế tạo ra biểu tượng “xuân thì”/”tôi” trong thơ ca Du Tử Lê. Xuân thì yểu mạng, con người vắn số. Nhân vật trữ tình hay chính Du Tử Lê bắt đầu luận lý bằng chính hoàn cảnh nghịch dị này. Điều này biểu tượng hóa ra biểu tượng “con người chết yểu” trong thơ Du Tử Lê. Những tâm hồn thanh xuân rất mực nhưng lúc nào cũng rơi vào luận lý với cái chết. Chính bản thân Du Tử Lê có lẽ không sao lý giải cho rõ ràng ngọn ngành được.
“ngày tôi. trôi trên lưng, đời
cây khô gốc đợi, lá bồi hồi, reo /.
sương, trần thân mây, chia, ly
nhập chung nỗi chết : sầu khô, héo về /.
môi đêm. thơm nhang xuân thì
tháp trong da thịt lời thề bồi, riêng /.
tôi nằm. tôi nghe tôi tan
lẫn hơi đất ẩm, chút vàng, son, xưa /.
khuya tôi trôi trên tay, còn
lung linh địa ngục : thiên đàng dấu răng /.
*
tôi tan rồi. tan. tan. tan.,...”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 112)
Biểu tượng hóa cuộc đời phi lý. Khi xây dựng biểu tượng hóa bằng luận lý, Du Tử Lê sử dụng triệt để ngữ thức phủ định. Sự phủ định nhằm khẳng định một vấn đề hiện hữu. “sự sống chỉ bắt đầu/ trong tận cùng tuyệt vọng”. Khi phủ nhận một vấn đề gì đó, Du Tử Lê lại tạo ra một luận đề khác. Rốt cuộc, cách luận lý của ông tạo ra một phương pháp biểu tượng hóa cuộc đời phi lý. Khi ta đi đến tận cùng tuyệt vọng ta mới thấy hy vọng và đến khi ta đối diện với cái chết thì sự sống thực sự mới mở ra. Du Tử Lê luận lý để “em” hay chính là bản thân ông và độc giả thấy rằng đừng cắc cớ hỏi cuộc đời vì sao lại như thế. Vì không thể luận lý cho đến kỳ cùng cuộc đời. Vốn dĩ phải phủ nhận nó đi, lúc đó mới nhận ra rằng, nghĩa lý cuộc sống chính là “cứ hãy sống đi em”.
“như que diêm trước sau gì cũng một lần bật sáng
cũng một lần anh thắp rực đời em
cũng mộ lần bàn tay buồn bã đó
bưng mặt mình kín suốt một tương lai
thôi những sợi tóc kia
sớm đằm cơn cảm xúc
thôi những giọt lệ kia
bàng hoàng vuông trán tối”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 40)
Biểu tượng hóa cuộc đời bất hạnh. Làm sao để chứng minh cuộc đời đầy rẫy đau thương và bất hạnh? Du Tử Lê cho bạn đọc thấy bằng lối luận lý của mình, thể như phân bua, thể như giải bày. Hễ cứ thấy còn phập phòng hơi thở, còn nhấp nhỏm sống hiện giữa đời, thì hãy còn cám cảnh chịu đựng đau thương bất hạnh. Sống thực chất là một nỗ lực sống. Ở đây, ta thấy dường như Du Tử Lê khá gần gũi với Karl Jaspers và Gabriel Marcel (Thân Văn Tường, 1960, tr. 49-72) bởi lối lập luận, biện chứng hữu thần hiện sinh. Dựa trên niềm tin của Chúa (cảm hứng tôn giáo kết hợp cảm hứng hiện sinh), Du Tử Lê cho thấy nỗ lực cứu chuộc bởi niềm tin ấy kỳ thực chỉ có thể cứu vãn chốc lát. Rốt cuộc, cuối cùng thì “em” hay đời sống vẫn “trôi cuối dòng tuyệt vọng”. Sử dụng từ ngữ thuộc trường nghĩa liên quan đến Thiên chúa giáo, cùng sự sắp đặt dòng thơ theo thể năm chữ và kết thúc câu thơ đa phần bằng nguyên âm “ơ”, càng khiến cho nỗi u hoài về bất hạnh thêm mênh mông dàn trải. Thể thơ và việc sử dụng nguyên âm “ơ” làm cho bạn đọc cảm thấy cuộc đời cứ lê thê trải ra, rền rĩ trôi lăn trên dòng sống hiện một cách u buồn ảm đạm. Kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật như vật, Du Tử Lê đã biểu tượng hóa đời sống, khiến cho đời sống lộ ra vẻ bi kịch thảm thương và bất hạnh.
“buổi sáng trong cơn mơ
ta thấy mình cao cả
bàn tay nâng thánh kinh
mắt nhìn em xa lạ
đứng trên bục thiêng liêng
ta cao lời rao giảng...
hạnh phúc như bánh thánh
chỉ nên ăn một lần
ngày tơi như tóc thả
em gầy xanh cơn yêu
mây đẫm dầm cảm xúc
mưa giăng hàng đi qua”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 93)
Biểu tượng hóa thế giới phân hủy. Để phân tích và luận lý hiện tượng hiện hữu, nhà thơ đã tự phân tách bản thân mình ra. Thể như có một cái tôi khác nhìn lại cái tôi chủ thể sáng tạo. Và khi quay nhìn lại, nhà thơ lại tạo ra một biểu tượng cái tôi song trùng. Cùng tồn tại hai cái tôi trong một hoạt động sáng tạo. Có thể ví như “tâm thần phân liệt” trong hoạt động sáng tạo thi ca. Nhờ đó, nhà thơ đã tạo biểu tượng hóa cái tôi phân rã. Sự phân rã của linh hồn người, đúng ra, là sự phân rã của hiện hữu. Các khía cạnh của hiện hữu đời người dường như đã bục vỡ, rã rời, tiêu biến. Ở khía cạnh này, dường như Du Tử Lê cũng tương đồng với Thanh Tâm Tuyền. “Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ/ Thanh Tâm Tuyền”. Còn Du Tử Lê:
“gọi ta ôi gọi ta
giọng nào không âm vọng
chiều rình trên chóp cao
đêm duỗi mình dưới ngõ
*
gọi ta ôi gọi ta
cây thì thầm nhựa chảy
cỏ rét mướt ra đi
về cuối dòng tan tác”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 97)
Thế giới thơ Du Tử Lê dường như lúc nào cũng đang trên quá trình tan rã, phân hủy. Biểu tượng hóa sự phân hủy, về mặt cảm xúc tạo ra nét u buồn thê lương của đời sống, về mặt tư tưởng khiến bạn đọc liên hệ đến hư vô hóa của Nietzsche. Hay nói khác đi: Buổi hoàng hôn của những thần tượng. Thời khắc mà những giá trị hiện hữu không thể tồn tại nữa, tự động sụp lún và tan biến. Ta/chủ thể sáng tạo tất nhiên cũng tan rã cùng thế giới.
Biểu tượng hóa cuộc đời kích động. Từ lúc sinh ra, con người đã như một kẻ bị tống vào đời sống. Sống là một việc gì đó vạn bất đắc dĩ. Rốt cuộc con người cứ phải kéo lên cuộc đời mình. Ngược lại, cuộc đời dồn đuổi, thúc đẩy, truy bắt mỗi con người. Vì vậy, con người trong quan niệm của Du Tử Lê bị rơi vào hầm ngục của tên cai tù nóng nảy và kích động. Tên cai tù đó – địa ngục đó – cõi dương gian. Cuộc sống đang triển nở, đang diễn ra chẳng khác gì tên cai tù kích động, liên tục quất vào tâm hồn người những lằn roi bỏng rát. Nhà thơ ưa sử dụng những câu cảm thán, câu đặc biệt, để diễn tả nỗi thống khổ bị cuộc đời dồn đuổi. Trường từ vựng của Du Tử Lê cũng được liên kết một cách chặt chẽ thống nhất, không có những từ ngữ lẻ sót lọt ra ngoài phạm vi liên tưởng của trường từ. Điều này cũng cho thấy Du Tử Lê kỳ công trong việc lựa chọn và sử dụng ngôn từ. Ngoài ra, trong sự biện luận để biểu tượng hóa làm người đọc hình dung về thế giới kích động, nhà thơ đã kết hợp phương thức biểu cảm và phong cách ngôn ngữ chính luận, vừa khiến cho thơ ca giữ được chất trữ tình vẫn đanh thép sắt nhọn.
“sống với đầu óc điên
ta quay cuồng dục vọng
đêm mơ thấy kẻ nào
đã cùng ta hoan lạc
ngày mở mắt trông lên
con chim nào mới chết
muốn hết mau đời còn
để kiếp sau đền tội
phải chính em khói sương
đã đọng thành nước mắt
nhỏ xuống bàn tay ta
nhoè đi đường chỉ sống
ôi ngày tháng dương gian
hiển nhiên hơn địa ngục”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 86)
Với phương thức biện luận, ưa phân giải, bạn đọc có lẽ cũng nhận ra thơ ca Du Tử Lê có khuynh hướng triết lý. Xuất phát từ tâm hồn ưa ưu tư, chữ nghĩa của Du Tử Lê triết lý để luận bàn và nỗ lực tìm kiếm cho cuộc hiện hữu này một ý nghĩa nào đó. Nỗ lực suy tưởng của Du Tử Lê qua thi ca không làm cho thơ ca trở nên khô sạn, chai cứng và mang tính luận đề mà ngược lại giúp cho thơ có được những biểu tượng đẹp, có tính thẩm mỹ cao, đồng thời có giá trị nhận thức sâu sắc. Chỗ đứng của Du Tử Lê trong làng văn chính là ở chỗ như vậy.
3.2. Không gian và thời gian
Thông qua phương thức xây dựng, tái hiện, phản ánh không gian và thời gian nghệ thuật, luận văn trình bày nét độc đáo trong bút pháp của nhà thơ Du Tử Lê. Không chỉ là vấn đề hình thức nghệ thuật mà vấn đề không gian và thời gian ở đây còn bộc lộ một quan niệm về cuộc hiện hữu. Tự thân phương thức xây dựng không gian và thời gian nghệ thuật đã bộc lộ cách nhìn nhận của chủ thể sáng tạo về thế giới xung quanh, trong đó người tồn tại như một thực thể hiện sinh.
3.2.1. Không gian trải nghiệm hiện sinh
Theo Giáo sư Trần Đình Sử: “Không gian trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật”. Cụ thể hơn, ông cho rằng: “Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, thể hiện sự cảm nhận không gian của con người, có chức năng biểu nghĩa và có giá trị thẩm mĩ. Không gian nghệ thuật là thuộc tính của tất cả mọi loại hình nghệ thuật, kể cả âm nhạc. Không gian nghệ thuật thể hiện cấu trúc bên trong của tác phẩm nghệ thuật, sâu sắc hơn nhiều so với khái niệm kết cấu, dường như là thiên về tổ chức bên ngoài của văn bản”.( Trần Đình Sử, 26/04/2021). Chính vì thuộc về cấu trúc bên trong, nên việc tổ chức không gian nghệ thuật rõ ràng góp phần bộc lộ giá trị thẩm mỹ và tư tưởng nào đó. Trường hợp thơ Du Tử Lê không ngoại lệ. Không gian nghệ thuật trong thi ca của ông cũng góp phần bộc lộ cảm hứng hiện sinh. Thông qua việc nắm bắt và tạo dựng không gian nghệ thuật, chúng ta có thể khám phá và làm rõ thêm cảm hứng hiện sinh trong thơ của ông.
Vậy đó là những cõi giới/không gian trải nghiệm hiện sinh như thế nào?
Không gian xa cách, trơ trọi và cô đơn. Chính sự trải nghiệm về tinh thần tạo ra không gian hiện sinh. Cụ thể: nỗi nhớ. Vì nỗi nhớ nên người đọc nhận ra sự lẻ loi của chủ thể sáng tạo “chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi”. Càng nói tới lẻ đôi, càng minh chứng cho sự nhớ thương. Bọc trùm trong đó, cả không gian đượm màu thương nhớ. Đó là một thế giới sâu thăm thẳm. Dùng động từ liên tục với tần suất dày đặc, Du Tử Lê không phá vỡ trường cảm xúc đìu hiu của tác phẩm mà ngược lại, theo từng chuyển động tế vi, bài thờ được mở ra ở nhiều khoảng không gian khác nhau. Nỗi nhớ đi tới đâu, dàn trải tới đâu thì không gian trải nghiệm ấy được mở ra tới đó. Không gian thương nhớ như một dạng trải nghiệm nghĩa lý hiện sinh của tình ái và đời người. Thông qua không gian trải nghiệm hiện “sinh lòng tôi lũng thấp. tâm hiu quạnh”, Du Tử Lê cho người đọc thấy được đời người thì hữu hạn nhưng mải miết chạy tìm tình ái, cuộc chạy tìm như thế cho phép đời người mang vào một nghĩa lý nào đó cho cuộc hiện hữu chóng vánh.
“chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
chim về góc biển. Bóng ra khơi
lòng tôi lũng thấp. tâm hiu quạnh
chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi.
chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
buổi chiều chăn, gối thiếu hơi ai!
em đi để lại hồn thơ dại
tôi, vó câu buồn sâu sớm mai”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 19)
Càng đi vào không gian thơ Du Tử Lê nhất là càng về sau của cuộc hành trình thi ca, khi Du Tử Lê có xu hướng nghiêng về Phật giáo (cũng như cảm hứng tôn giáo nói chung), ta thấy rằng không gian trải nghiệm hiện sinh của ông đã cơi nới, mở rộng để cõi tâm linh. Không gian tâm thức đi tới không gian tâm linh. Ở đó, trải nghiệm hiện hữu của ông biểu hiện qua sự luân lưu của nhiều kiếp nối tiếp nhau. Có thể nói, không gian nghệ thuật ở đây có lẽ đã trở thành chiều kích. “tôi trầm mình trong hư không”. Không gian vượt thoát khỏi chiều kích của đời sống thông thường. Nhờ đó, sự trải nghiệm vượt ra ngoài chiều kích hiện hữu thông thường, gợi cho độc giả cảm thức nào đó về kiếp người. Chính cảm thức đó mang ta tới ý nghĩa hiện sinh, băn khoăn về đời người và sự kéo lê số kiếp từ cõi giới này qua cõi giới khác. Đến nỗi, nhìn lại, Du Tử Lê bỗng nhận ra cả không gian hư vô mênh mông.
“tôi căng mình ngang âm, dương
cổ đeo đá tảng. Chân giầm ván thiên
tôi trầm mình trong hư không
chân neo đời trước. Cổ kiềng kiếp sau”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 53)
Đời người vắt vẻo giữa hai miền thế giới. Không gian lê lết từ kiếp này qua kiếp sau. Cho nên, ta có thể nói rằng, không gian nghệ thuật của thơ Du Tử Lê đã vượt ra ngoài không gian sống thông thường.
Không gian trải nghiệm hiện sinh, nói đúng hơn, trải nghiệm tình yêu. Người/em/ hay một bóng hình mơ hồ nào đó. Cuộc tình mãi mãi không thành. Người tình mãi mãi chia cách. Trải nghiệm bất thỏa trong tình yêu khiến cho chủ thể sáng tạo, kéo lê mối tình si đó lăn trở khắp mọi miền thế giới. Từ không gian biển, đồi núi, đêm hoang tàn, sân bay, lối cỏ, hiên nhà, phố xưa, … Dầu là không gian nào đi nữa thì đó cũng là không gian được xác lập bởi một kẻ si tình, kéo lê trái tim khắp nơi. Nhà thơ tạo ra những tứ thơ độc đáo bằng các phép nhân hóa và ẩn dụ. Nhất là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, khiến cho sự cảm thụ của người đọc từ giác quan này chuyển qua giác quan khác. Thế giới do đó hiện lên một cách sống động. Hơn nữa, tình si đó làm cho không gian thơ càng thêm trữ tình lãng mạn.
“tôi xa người như xa núi sông
em bên kia suối? – bên kia rừng
em bên kia nắng? – bên kia gió
tôi một dòng sương, lên, mênh mông
*
tôi xa người như xa biển đông
chiều lên lênh láng chiều, giăng hàng
những cây ghi dấu ngày em đến
đã chết từ đêm mưa không sang”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 88)
Ngoài các biện pháp tu từ, lựa chọn hình ảnh thì chúng ta phải nói tới thủ pháp cắt dán khá phổ biến trong thơ tượng trưng Pháp mà thơ ca Việt Nam đã tiếp thu từ trước đó (thời kỳ tiền chiến). Với Du Tử Lê, chúng ta thấy ông không hoàn toàn cắt dán những hình ảnh có tính chất nghịch dị hoàn toàn, hoặc xa lạ hoàn toàn để tạo ra những va đập tri nhận về hình ảnh như thơ của Thanh Tâm Tuyền (Võ Quốc Việt, 2013) mà hình ảnh thơ thơ Du Tử Lê sử dụng ít nhiều có mối quan hệ liên tưởng với nhau. Cho nên, nếu không gian thơ Thanh Tâm Tuyên mang dáng vẻ trải nghiệm hiện sinh trong tình trạng ngổn ngang đổ vớ thì không gian trải nghiệm hiện sinh của Du Tử Lê vẫn còn giàu mộng tưởng và lãng mạn.
“tôi xa người xa trên sân bay
hồn tôi cồn cát dấu chân bầy
em vui đời khác làm sao hiểu
tôi sống âm thầm như cỏ cây
*
tôi xa người xa hơi thuốc cay
ngày mai tình sẽ bỏ tim này
chiều em không đến hàng cây cũng
nghiêng xuống tôi: từng ngọn heo may”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 89)
Thế giới hiện hữu trong thơ Du Tử Lê là cõi giới “bỏ trong ngoặc” tức là thế giới đang ở trong mối bận tâm về hiện hữu của tác giả. Nói khác, đó là một thế giới “có vấn đề”. Ở đó, luôn luôn có những biểu hiện/hiện tượng có tính chất hiện sinh, ẩn chứa ý nghĩa hiện sinh.
Không gian mà nhà thơ tạo dựng, thực chất chính là sự trải nghiệm của chính tác giả. Bởi vì khi tác giả trải nghiệm, tương tác, đụng chạm với ngoại giới, thì sự khẳng định chủ thể sáng tạo đồng thời cũng xác lập sự hiện hữu của thế giới. Cho nên nói: thế giới tạo thành thế giới thông qua “chủ thể sáng tạo”. Cũng có thể nói, đó là sự trải nghiệm hiện hữu của chủ thể sáng tạo khiến cho không gian thế giới hiện lên.
3.2.2. Thời gian tâm thức hiện sinh
Theo Martin Heidegger: “Thời gian như là chân trời khả thể cho mọi am hiểu hữu thể”(Martin Heidegger, 2004, tr. 40). Rõ ràng, qua sự nắm bắt và thể hiện thời gian trên con chữ, chúng ta hiểu được nhận thức của kẻ sáng tạo về cuộc sống của bản thân và thế giới. Như thế, chúng ta cũng nhận ra quan niệm hiện sinh của chủ thể sáng tạo thông qua thời gian nghệ thuật. Cụ thể, ở thơ Du Tử Lê, thời gian nghệ thuật là thời gian tâm thức hiện sinh. Thời gian được nhận thức bằng tinh thần, thời gian tinh thần. Và thời gian này biểu hiện một quan niệm về cuộc nhân sinh.
Thời gian quá khứ và “sặc mùi” hoài niệm, kèm những tiếc nuối. Nuối tiếc biểu hiện ở hành động “tôi nhớ” và “trưa nào”. Trưa phiếm định, có thể là bất cứ buổi trưa nào trong cuộc đời dằng dặc. Chính hương vị tiếc nuối khiến cho độc giả băn khoăn về ý nghĩa đời người. Thời gian trong tâm thức của kẻ sáng tạo hay thời gian trong tâm thức của người đọc, kết thông với nhau bởi cùng ưu từ về nghĩa lý của thời gian. Nói khác, thời gian đã mang lại ưu tư hiện sinh gì cho con người. Với Du Tử Lê, thời gian đã mang lại trải nghiệm hiện sinh: sự mất mát và trống rỗng. Nhà thơ tự hỏi “nhưng đời sau, ai hiểu? chuyện tôi, em?”. Câu hỏi tu từ cho thấy thời gian này thuộc về tâm tưởng.
“tôi vẫn nhớ trưa nào em đã khóc
ngực tôi nay còn ấm lệ trăm năm
chắt chiu từng kỷ niệm ắp lầm than
nhưng sông núi có bao giờ biến đổi
[…]
rất yêu dấu: với tôi là thứ nhất
nhưng đời sau, ai hiểu? chuyện tôi, em?
hay có người sẽ bảo chúng ta điên
vì chẳng thể đợi chờ nhau kiếp khác”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 42)
Nhận ra: “kiếp khác”, “đời sau” “chẳng thể đợi chờ nhau”: cho nên, nhận thức về thời gian là một nhận thức đau khổ, nhức nhối, bi kịch. Do đó, có thể gọi là thời gian bi kịch hữu hạn. Nhận thức về khoảng thời gian tồn tại ngắn ngủi, chủ thể sáng tạo đổ ưu tư bi kịch vào dòng chảy thời gian. Hoặc cũng có thể nói ngược lại, thời gian ngắn ngủi của tồn tại đã tạo ra bi kịch tâm thức con người. Kiểu thời gian hữu hạn như vậy là một dạng thời gian tâm thức hiện sinh. “Tôi” tức là “nỗi tôi”, tức là “vấn nạn tôi”, là bi kịch làm người.
“nằm khuya ngó xéo mưa dầm
hồn trăm dây cáp điện ngầm qua thân
đời ta chưa thể về gần
loanh quanh nỗi chết chờn vờn hơi quen
thù ghìm trong một dao điên
chém ngang vai mỏng xẻ nghiêng mặt buồn
nằm co ngó xuống muộn màng
dưới hiên mưa lũ ẩm vàng xác tôi
yêu người lời đã khô môi
sống không sum họp, thác thôi phải cùng
mai sau trên mỗi mộ phần
hình nhân thế mạng xin đừng thắp hương”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 78)
Thời gian ám ảnh như định mệnh. Bởi trong cuộc sống trôi chảy luôn luôn, quá khứ đã mất, tương lai chưa có, còn hiện tại thì vẫn mịt mù không thể nắm bắt. Thế giới trong nhận thức của chủ thể sáng tạo là một thế giới vượt ngoài tầm nhận thức của con người. Du Tử Lê gọi là “bất khả tri”. Chính vì bất khả tri, thời gian không đơn thuần chỉ là quá khứ, hiện tại, tương lại, hay một trục vận động của sự vật hiện tượng; mà đúng hơn, thời gian biểu hiện trong tâm thức là thời gian định mệnh: “từ khi chúng mình mở mắt/ bom đã reo mừng đạn đã reo vui”. Cho nên đan nổ/bi kịch đớn đau, có gì “đáng lạ”. Tức là xu hướng xảy tới không thể cưỡng lại của cuộc hiện hữu này. Nỗi ám ảnh thời gian xưa nay ta có thể thấy qua nhiều nhà thơ (ví dụ Xuân Diệu) (Vũ Thị Thu, 2017). Nhưng với Du Tử Lê, nỗi ám ảnh này còn biểu thị một quan niệm hiện sinh. Tức là tính “tất yếu” của thân phận và kiếp người. Con người buộc phải tự do, nhưng không thể tự do trong thời gian. Do đó, bản chất thời gian hiện sinh thực ra là thời gian định mệnh. Du Tử Lê xác quyết: “đầu thai là đi đầy”. Thời gian sống, thời gian định mệnh - định mệnh lưu đày biệt tích trong cõi người hư vô.
“- anh đã bảo ngủ đi hỡi cô nàng bé nhỏ
quê hương này em đã trót đầu thai
mảnh đất này hoa sớm nở sớm phai
tình sớm đẹp để rồi tình sớm lỡ
hàng rào kẽm canh chừng bọn anh những thằng toan bỏ cuộc
tiếng kèn đồng thúc giục bọn anh điên
hỏa châu soi đường dẫn lối đêm đêm
từng tấc đất ngủ yên từng số phận
từng con mắt kinh hoàng từng bàn chân lận đận
từng ngón tay ôm cò súng lăm le
- anh đã bảo ngủ đi hỡi cô nàng bé nhỏ
có gì đâu đêm đã thế từ lâu
có gì đâu đời đã thế từ lâu”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 69)
Cũng tượng tự như không gian nghệ thuật, Du Tử Lê cũng sử dụng khá phổ biến biện pháp tư từ so sánh, phép điệp, phép liên tưởng để tạo lập thời gian tâm thức hiện sinh. Ở đó, bạn đọc có thể nhận thấy ngoài nỗi ám ảnh định mệnh là một niềm khao khát đến tuyệt đích. Bởi lẽ, thời gian đời người vốn hữu hạn. Nhưng con người vì muốn trải nghiệm thân phận kiếp đời nên muốn vượt thoát khỏi cái hữu hạn đó. Cụ thể là muốn thoát khỏi cái hữu hạn của thời gian. Muốn đi tới thời gian tuyệt đích, đó là thời gian của ý chí hiện hữu.
“kẻ tật nguyền trong ta
mang hình thù thú vật
đội mãi lốt con người
đôi khi lòng cũng nản
chìm xuống đáy cơn say
thấy đời không ai tỉnh
cất tiếng hát ê a
dội vang lời kêu nghẹn
phải em, rồi như sương
tan theo ngày nắng vội
phải em, rồi như mây
chìm theo vùng bóng tối
phải em, rồi như mưa
chảy trôi ngoài hiên, mở
ta ngồi già, ghế xưa
mặc áo tơi, yên, ngủ”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 144-145)
Du Tử Lê có biệt tài đó là biến cái vô hình (thời gian) thành cái hữu hình (hình ảnh, hình tượng, chi tiết), khiến cho câu thơ sinh động nhiều màu sắc và gợi cảm. Thông qua hữu hình gợi tả cái vô hình. Và thời gian đêm tối chính là phương thức hiệu quả hơn cả để nhà thơ biểu thị thời gian vô hình. Thời gian đêm, khuya, hay muộn màng có sức gợi tả đặc biệt. Bởi đó là khoảng thời gian có thể khiến tâm thức lặng đọng và kích hoạt suy tưởng. Có lẽ vậy nên, Du Tử Lê hay sử dụng thời gian đêm tối (ví dụ hình ảnh: nến cháy, ngày chưa tới, đêm treo ngược, ..), bởi thời gian đêm tối dễ hòa nhập vào thời gian tâm thức hiện sinh, bởi nó có khả năng gợi nhiều suy tưởng: “những con dế sớm khan, khô tiếng:/ cũng tự chôn mình theo tiếng ve” – suy tưởng về hữu hạn kiếp người. Thời gian đêm tối xuất hiện với tần suất dày đặc trong thơ của ông.
“mưa chưa đi khuất, ngày chưa tới
đêm, treo ngược tôi: dấu chấm than!
mùa hoen đôi mắt, như vừa khóc
gọi hết tàn phai, gõ một lần.
trời đem mây xuống neo chân sóng
gió hú đường bay ngang ngọn cây.
tử / sinh vốn dĩ như hình / bóng.
linh hồn nào còn quẩn quanh đây?
nến tôi cháy đỏ mùa chia, biệt
người ghé qua rồi, cũng bỏ đi
những con dế sớm khan, khô tiếng:
cũng tự chôn mình theo tiếng ve.”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 15-16)
Thời gian tâm thức hiện sinh trong thơ Du Tử Lê còn được tạo ra bằng biện pháp tu từ đối lập. Sự tương phản giữa thời gian đời người (kiếp, đời) với thời gian khoảnh khắc chốc lát chóng vánh. Bằng cách đối lập hai trạng thái thời gian này, nhà thơ gợi ra sự suy tưởng về hữu hạn của đời người, về sự mơ hồ, hư ảo và dễ dàng tan biến của số phận con người. Biện pháp này chẳng khác gì tạo ra tình thế mà người đọc không thể kháng cự, buộc người đọc phải nhận ra và lựa chọn một hành động nhằm thực hiện cuộc đời, làm nên sinh mệnh và thân phận của mình. Nói khác đi, đó chính là buộc người đọc phải suy tưởng về tự do và tự quyết. Những vấn đề hiện sinh rất cơ bản và thiết thực.
“Chiều qua đó chân ai còn ríu rít âm thưa
Lời ai ru như mơ cho trời xuống thật gần
Người trông ngóng hương đưa mùi mái tóc đêm mưa
Nhẹ theo lá oan khiên lả tả mái hiên người
*
Tôi nghe hắt hiu từ mắt em ngắt tạnh
Còn dế buồn tự tử giữa đêm sương
Bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ
Em ở đó bờ sông còn ẩm cát
Con sóng tình vỗ mãi một âm quen”.
(Du Tử Lê, 2018, tr. 16-17)
Chung quy, không gian và thời gian gắn liền với nhau. Sự biểu lộ thời gian chắc hẳn phải kèm theo sự khai mở không gian và ngược lại. Tuy nhiên, nếu so ra, thời gian vẫn là nỗi đáng sợ hơn cả. Thời gian trong sự cảm nhận của tâm thức mang bản chất là một vấn đề hiện hữu. Do đó, thời gian buộc người ta phải suy tưởng về ý nghĩa của tồn tại trực diện hơn không gian. Thời gian của thơ Du Tử Lê chính là thời gian tâm thức hiện sinh như vậy.
3.3. Giọng điệu trữ tình trong thơ
Bàn đến hình thức nghệ thuật thi ca không thể không nhắc tới giọng điệu. Bởi lẽ, giọng điệu thuộc về phần biểu hiện rõ rệt và dễ nhận biết hơn cả của thái độ và tâm tư tác giả. Do đó, với tư cách là thành phần hình thức góp phần chuyển tải tư tưởng nghệ thuật, việc khảo cứu giọng điệu đưa người nghiên cứu đi từ phong cách sáng tác đến giá trị tư tưởng của tác phẩm. Đó cũng là lý do khiến nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà đưa ra nhận định rằng: “Trong giọng thể hiện cả nhận thức, thái độ, lối sống và cả nội lực của nhà văn (giọng nhiều khi cũng có nghĩa là hơi văn, văn khí). Đồng thời, giọng cũng là cái không lẫn được. Chính tính tổng hợp và độc đáo ấy làm cho giọng trở thành nhân tố mang phong cách rất rõ”Lê Ngọc Trà, 1988, tr. 152). Giọng điệu nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập phong cách tác giả. Đồng thời giọng điệu cũng thể hiện thái độ, nhận thức, lối sống, … do đo cũng góp phần bộc lộ quan niệm nhân sinh của chủ thể sáng tạo.
3.3.1. Giọng phản vấn và phản tư
Hơn ai hết, người nghệ sĩ phải đối diện thường xuyên với nội tâm của mình. Ở giây phút đó, thực chất người nghệ sĩ đã thực hiện hành động phản vấn, phản tư. Phản tư để phản vấn, để tự đặt ra cho mình những câu hỏi nhức nhói về chính cuộc sống hiện tại của bản thân. Quá trình sáng tạo thậm chí chính là kết quả đưa lại của sự truy vấn bản thân như vậy. Những câu hỏi cơ bản nhất thường là những câu hỏi khó trả lời nhất, những câu hỏi đặt ra cho tự thân chính là những câu hỏi không thể né tránh. Du Tử Lê không ngoại lệ. Ta thấy thơ ông thường sử dụng lối phản vấn, phản tư như thế. Chẳng hạn, câu hỏi tu từ: “sao vọng âm vẫn gọi ánh sao rơi?” kết hợp với những từ để hỏi. Đâu khi nhà thơ lại dùng lối biểu cảm qua những câu dạng câu đặc biệt, câu cảm thán với nhiều dấu chấm than để “hỏi”. Câu biểu cảm nhưng chủ đích dùng để hỏi. Ngoài ra, nhà thơ còn dùng phép đối trong việc sắp xếp thanh điệu của mỗi âm tiết để khiến cho tính chất phản tư thêm nổi bật. Chính ở đó, giọng điệu phản vấn, phản tư tạo ra mỹ cảm cho người đọc. Những vấn đề hiện hữu theo đó, không chỉ đặt ra cho nhà thơ mà còn đặt ra cho chính bạn đọc.
“con đường cụt đi hoài mà chẳng hết!
một khuya thôi đủ ấm biết bao đời.
nhưng tiếng hát đã lìa, xa cửa ngực;
sao vọng âm vẫn gọi ánh sao rơi?
*
đôi môi mẹ thả tôi vào cõi khác,
như em còn chín, nẫu nỗi băn khoăn.
đời không thật! duy nỗi buồn có thật!!!
một tên người: lát cắt mấy trăm năm”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 24-25)
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp: “Giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn ấy hướng tới”(Nguyễn Đăng Điệp, 2004, tr 341). Do đó, ở khía cạnh phản tư, phản vấn, giọng điệu càng góp phần làm rõ thái độ lập trường trong cái nhìn “hiện sinh” về đời sống. Nói khác đi, chính giọng điệu phản vấn, phản tư cho thấy “chủ thể sáng tạo” nhận thức một cách chân thực và rõ ràng về cuộc hiện sinh của chính bản thân mình và về tha nhân “Quá cảnh nào? Quên ngang cõi tôi?”. Du Tử Lê sử dụng triệt để dấu câu trong câu thơ nhằm tạo ra nhịp thơ độc đáo riêng biệt. Kết hợp với các âm vị âm cuối nửa mở khiến cho câu thơ tưởng như dứt mà không dứt. Nỗi đay nghiến truy vấn hồ như văng vẳng trong tâm trí bạn đọc.
“Khi cây bước vội. như người bước
Lá ở cùng tôi. Khua, thức sâu
Nắng trưa đồng lõa môi-hoa-gạo
Đỏ. Những đường xanh. Môi ốm o
*
Khi cây quỳ gối. như người đã
Nâng một đời sông ngang mắt, môi
Cánh chim nương sóng, không, về núi.
Quá cảnh nào? Quên ngang cõi tôi?”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 88-89)
Trong lối phản vấn, phản tư, dường như giọng điệu thơ Du Tử Lê còn kết hợp với giọng nói gần gũi với khẩu ngữ. Chẳng hạn: “trước, sau ngó lại: - không sau, trước/ một đời, như thế hỏng hay được?”, “mặc xác”, “cách gì”, “cũng đã xong!”, … Tính chất đời thường trong giọng điệu khiến cho câu thơ “đời” hơn, gần gũi hơn và chân thật hơn. Ngôn từ vốn được Du Tử Lê gọt giũa kỹ lưỡng, lựa chọn cẩn thận. Tuy nhiên, trong nhiều bài thơ, chúng ta cũng nhận thấy tính chất nóng hổi, thô ráp của ngôn từ đời thường. Chính ở những chỗ ấy, nhà thơ biểu thị chất giọng phản tư, phản vấn chính cuộc sống ngổn ngang thô ráp đang xảy ra. Có lẽ cũng chính khía cạnh này khiến bạn đọc nhận thấy thơ Du Tử Lê không chỉ có tính chất du dương êm ái mà còn biểu thị một đường hướng thẩm mỹ ngược lại sự cân đối hài hòa.
“trước, sau ngó lại: - không sau, trước
một đời, như thế hỏng hay được?
cách gì, chẳng nữa cũng đã xong!
thời gian: đạo tặc ư?
- mặc xác
*
về, khi rừng hú ngang tim bão
núi lớn nghiêng đầu. sông ăn năn
nhỏ nhoi/ thế giới/ hư trong thực
bụi ngậm/ lời/ rơi đầy
khoảng không/”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 75)
Giọng phản vấn, phản tư có hai tác dụng đối với sự thể hiện cảm hứng hiện sinh. Thứ nhất, giọng điệu này cho bạn đọc nhận ra chính những góc khuất trong quá trình sáng tạo của Du Tử Lê. Nói mà không thể trả lời, cũng là phản vấn. Đâu đó, nói với chính mình – độc thoại- cũng là hình thức phản vấn: “cách gì, chẳng nữa cũng đã xong!/ thời gian: đạo tặc ư?/ - mặc xác”. Nhà thơ tự hỏi tự nói tự trả lời. Nói khác, góc khuất trong tâm hồn – những vết thương “hiện sinh”. Thứ hai, giọng điệu phản vấn, phản tư tạo ra tâm thế cho bạn đọc tự có cho mình một nhận thức về cuộc hiện sinh. Tâm thế đó, người đọc mang theo rồi dùng để soi chiếu chính cuộc sống hiện hữu của bản thân mình. Giọng điệu phản vấn, phản tư có thể nói đã góp phần tạo nên những vần thơ có khả năng đánh thức tâm trí người đọc của Du Tử Lê.
“ôi Donna, Donna Ostermeyer
hoài hoài sương mù trong anh một đêm mùa thu tay vẫy
một đêm ngời giọng hát vỡ trên cao
*
ôi Donna, Donna Ostermeyer
em có hiểu chút gì
những điều anh mới nói?”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 104-105)
Giọng điệu phản vấn, phản tư, còn là phương diện “hình thức” mà bạn đọc có thể bám theo đó nhằm “giải mã” thơ Du Tử Lê. Nhiều vấn đề sẽ được bộc lộ thông qua giọng điệu phản vấn, phản tư. Trong đó có cảm hững hiện sinh. Thông qua giọng điệu này, cảm hứng hiện sinh về cuộc hiện hữu của tác giả hiện lên như những nghịch dị, phi lý, hoài nghi, rối rắm và nhiều lúc bạn đọc có thể nhận thấy: đó là những truy vấn bất tận không có lối thoát. Dường như tác giả muốn trao lại những ưu tư này cho độc giả. Bởi vậy, giọng điệu phản vấn, phản tư hầu như bao trùm toàn bộ bài thơ. Làm nền cho nhận thức của người đọc về vấn đề hiện sinh đặt ra trong bài thơ.“ừ thôi môi đã là môi khép.
chẳng hẹn trăm năm cũng tận cùng
đêm qua có kẻ cuồng điên khóc
em bảo tôi: ồ sao trẻ con!
*
ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi với người chung một trái tim”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 133)
Trong thơ Du Tử Lê, chúng tôi nhận thấy chủ thể trữ tình xuất hiện trong ba hình thức chủ yếu. Tất nhiên, không hoàn toàn tuyệt đối mà có sự hài hòa phối hợp với nhau, cụ thể ba hình thức đó là: xuất hiện trực tiếp, xuất hiện thông qua hình tượng nhân vật trữ tình, hoặc tàng ẩn đằng sau những ký hiệu. Với hình thức thứ ba, rõ ràng giọng điệu xuất hiện trong việc xây dựng và tổ chức sự ngắt nhịp, chấm câu, qua các hình ảnh, hình tượng, ký hiệu, … điều này tạo nên sự tinh tế trong việc kiến tạo giọng điệu trong thơ Du Tử Lê. Giọng điệu phản vấn, phản tư thường xuất hiện kèm những câu hỏi tu từ hoặc các từ dùng để hỏi, … Đó là những câu hỏi bất ngờ, đánh thức bạn đọc. “- ngài giúp được tôi chăng?”; “mà nguyện cầu ánh sáng?”. Nhà thơ tưởng tượng ra một đối tượng để hỏi, kỳ thực là tự hỏi mình, để thử trả lời. Giọng điệu truy vấn ở đây là một cách để nhà thơ trải nghiệm những ưu tư hiện sinh của mình.
“- ngài giúp được tôi chăng?
một vườn xanh hoa cỏ.
*
một người già hồn nhiên chống gậy đi ngang
một chiều dừng chân đứng hỏi:
- ngươi từ đâu đến đây
mà nguyện cầu ánh sáng?
- tôi từ phương đông qua
cõi đêm-ngày: bóng tối
quỷ dữ nuốt mặt trời
bụng trương phình giáo mác.
*
- ngài giúp được tôi chăng?
một người còn muốn sống”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 94-95)
Nhiều bài thơ của Du Tử Lê mở đầu bằng cái nhìn đối với kẻ khác. Bắt đầu từ đó, nhà thơ thực hiện việc phân tích mổ xẻ việc hiện hữu của đối tượng. Nào là tình trạng: góa bụa, chia tay, hữu hạn, những điều không thể nói. Ánh mắt Du Tử Lê nhìn sâu vào đối tượng. Giọng phản vấn thể hiện ở ngữ pháp phủ định nhưng lại nhằm khẳng định. Dường như cho đến kỳ cùng, phản vấn nhưng không thể trả lời được. Đáng nói, đến cuối cùng, sự phản vấn ấy trở thành phản tư. Giọng phản tư biểu thị bằng sự phát hiện. Phát hiện ra chính bản thân của người nghệ sĩ. Ngữ pháp phủ định cùng với pháp đối lập giữa tha nhân và chủ thể, càng làm cho chủ thể hiện lên rõ hơn. Dường như Du Tử Lê luôn luôn nhìn thấy mình ở chính cuộc đời. Trong cõi trăm năm hữu hạn đó, nhà thơ nhìn đâu cũng thấy/cũng phải đối diện với chính sinh mệnh của mình.
“gỗ chú thích: bao cánh rừng mất tích
thú tuyệt giống: rợn, hoang lớn dâng lên
suối tân kỳ? - treo ngược cổ thiên nhiên
đêm chú thích: em/ miếng trời/ sót lại
*
cây chú thích: nhân gian rừng nấm, dại
khom lưng tìm vô hạn giữa trăm năm
những con đường nhăn, nếp xếp vuông khăn
đã footnote mối sầu ta đốn mạt”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 116-117)
Có thể xem giọng phản vấn, phản tư trong thơ Du Tử Lê như mũi dùi nóng đỏ, ngoáy vào lòng bạn đọc. Cũng chính cách tổ chức và xây dựng giọng điệu này góp phần gợi tả những ưu tư hiện sinh của nhà thơ. Những vần thơ giàu ưu tư, nặng suy tưởng và cũng đậm chất trữ tình lãng mạn.
3.3.2. Giọng triết lý suy nghiệm
Góp phần tạo nên giá trị thẩm mỹ và tư tưởng cho thơ ca Du Tử Lê, chính là giọng điệu triết lý suy nghiệm. Bởi như nhà nghiên cứu Phùng Quý Nhâm cho rằng: “Giọng điệu trong tác phẩm rộng hơn giọng văn. Nhiều khi ý tưởng, hệ thống hình tượng, tính điệu thẩm mỹ cũng gópphần tạo nên giọng điệu nghệ thuật của tác phẩm. Giọng điệu là một trong những yếu tố để nhận ra giá trị của tác phẩm văn học”(Phùng Quý Nhâm, 2003, tr 87). Thậm chí giọng điệu triết lý suy nghiệm trong thơ Du Tử Lê đã trở thành nét đặc thù trong thơ ca của ông. Đó là lối tư duy suy lý, lối lập luận suy nghiệm có tính cách biện chứng. Nhờ đó, ông thể hiện cảm quan đối với cuộc đời, với xã hội, với thân phận, với tình yêu, … Cho nên, ta có thể thấy rằng giọng điệu triết lý suy nghiệm đóng góp rất tích cực vào việc thể hiện ưu tư của cảm hứng hiện sinh, đồng thời tăng giá trị cho tư tưởng nghệ thuật của thơ Du Tử Lê.
Giọng điệu triết lý biểu hiện qua sự nắm bắt cuộc sống đời thường: gia đình, thương yêu, bằng hữu, … rồi ông phát biểu phán đoán về cuộc sống đó: sớm muộn gì “cũng sẽ biến mất”, giống như tôi sẽ biến mất. Suy nghiệm của ông là một lối “tam đoạn luận” đơn giản nhưng thấm thía.
“mỗi chúng ta, không ai chọn được đúng điều mình muốn.
mọi nhắc nhở hãy cố sống đúng đời mình
chỉ là cách nói.
(đời sống thực sự chỉ là một sân chơi luôn mở về phía bất trắc).
nhưng cũng là phía thiên đàng
khi quanh ta có đủ gia đình, thương yêu và tình bằng hữu.
dù tôi hiểu: sớm, muộn gì tôi cũng sẽ biến mất,
như những con gió nhỏ nhẹ và, những hứa hẹn êm đềm của những đọt nắng xanh, non.
đó là lúc chúng tôi sẽ gặp lại nhau ở một cõi nào khác.
có thể đó là lúc tôi không kịp cảm ơn vợ con, bằng hữu và ruột thịt xa, gần…
vì,
mỗi chúng ta, không ai chọn được đúng điều mình muốn.
mọi nhắc nhở hãy cố sống đúng đời mình
chỉ là cách nói”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 81-82)
Một đặc điểm dễ nhận thấy, đó là: giọng triết lý suy nghiệm góp phần giúp nhà thơ thể hiện những trăn trở và vấn nạn của cuộc hiện sinh. Có vẻ như Du Tử Lê bám theo những vấn nạn của đời sống, hoặc ngược lại, những vấn nạn ấy vẫn bám riết nhà thơ. Cuộc sống vẫn xảy ra và trôi đi, cũng như suy tư của Du Tử Lê vẫn trôi đi mải miết. Thường xuyên, đó là những triết lý về thân phận em thì “oan khổ”, “héo úa” và thời đại thì “đau thương” và “đìu hiu”. Kèm theo đó, giọng triết lý suy nghiệm kết hợp với lối xây dựng biểu tượng bằng luận lý, tạo ra những vần thơ trĩu nặng tâm tư.“về tự một ngày mưa
em não nùng oan khổ
cây khẳng khiu đợi chờ
lá một đời héo úa
*
về tự một tình đau
môi ứ tràn máu mặn
ngực ngậm lời trăm năm
hồn đìu hiu rũ bóng”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 124-125)
Dầu thời thế có thay đổi. Sau khi ra hải ngoại thơ Du Tử Lê dường như ngã về khuynh hướng Phật giáo. Ông sử dụng nhiều “luận đề” Phật giáo để lý giải các vấn đề hiện sinh, như lẽ sống, cuộc tồn tại, thân phận, vận mệnh con người. Đôi khi dung dị gần gũi nhưng đôi khi cũng có những “thuật ngữ” có ý nghĩa sâu sắc thâm trầm. Những cảm nghiệm về “ba ngàn thế giới”, “em ở với Kim Cang”, … là kết quả của phép liên tưởng và suy lý, cảm nghiệm về cuộc sống thường hằng mỗi ngày.
“ba ngàn thế giới quy về đây
vóc ốm em đi. ngón cũng gầy
thấy trong Địa Tạng em và mẹ
Tam-Bảo theo tôi: có dáng người
*
muông thú vì em ở với rừng
tôi vì em ở với Kim Cang
thấy nhau là một đâu còn ngã
thân chẳng riêng thì tâm đâu còn riêng”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 53)
Du Tử Lê đã kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ bình dị (muông thú, thấy nhau, chẳng riêng, dáng người, …) và ngôn từ (Tam Bảo, ba ngàn thế giới, Kim Cang, ngã, Địa Tạng, …) trong kinh điển Phật giáo để tạo ra những tứ thơ độc đáo. Qua đó, ông thể hiện giọng điệu mang nhiều nét thâm trầm chiêm nghiệm. Nhiều khi giọng điệu triết lý gắn liền với giọng điệu trầm mặc là bởi vậy. Và một nét độc đáo nữa trong giọng điệu triết lý, suy nghiệm: ấy là mặc dù sử dụng nhiều thuật ngữ Phật giáo những không vì vậy mà thơ ông có vẻ cổ điển hoặc gần với những bài kinh kệ; ngược lại, thơ Du Tử Lê vẫn hiện đại và có tính cách “trí thức” như những phân tích hiện sinh của Sartre hay Camus.
“nước mắt em trên chánh điện tình
nở hoa siêu độ hoá tâm kinh
đêm đêm tôi nhớ bàn tay Hựu
và thấy trong kinh đủ bóng, hình
*
vì em tôi đã làm sa-di
không đi nhưng ý vẫn quay về
bế quan toạ thị. tôi và vách
em tụng kinh gì? – cho tôi nghe đi
*
hôn em Bồ Tát. chuông kinh hãi
rung hoảng vì tôi? hay cả em?”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 54)
Nhà thơ mang trong lòng suy lý thường trực. Đó là suy lý về chính bản thể của mình: “Ta là ai!”. Đây là mối băn khoăn mà có lẽ suốt đời Du Tử Lê vẫn chưa thể trả lời một cách rạch ròi rốt ráo. Những gặp gỡ, ước hẹn, chỉ có thể giải thích bằng chữ “duyên” mà thôi. Và bản thân nhà thơ, cho đến kỳ cùng, cũng không thể hiểu nổi Duyên là gì? Chuyển tải duyên trong thơ ca, trước đó, nhà thơ đã chiêm nghiệm về duyên. Ông nói: “đêm đêm trăn trở Tăng và Pháp”. Lấy điển tích xưa để làm cớ “ngón nào là Phật? ngón nào trăng?” để suy nghiệm, đồng thời khiến bạn đọc suy nghiệm.
“trì tụng cho tình kinh Vãn Sinh;
một pho Phụ Rẫy. một pho Quên
đêm đêm trăn trở Tăng và Pháp.
ngón nào là Phật? ngón nào trăng?
*
ai là ta nhỉ? ai là em?
là một hay hai? mất ở còn?
tâm nào đốn ngộ. tâm nào giả?
siêu độ linh hồn, liệu được chăng?”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 122-123)
Dường như Du Tử Lê mãi mãi giữ một tâm hồn trẻ trung. Sự trẻ trung ấy không phải chỉ ở khía cạnh tình yêu và nét duyên dáng trữ tình, mà còn bởi những suy nghiệm triết lý không thôi về ý nghĩa của tuổi trẻ và cuộc đời. Qua giọng điệu suy lý về thanh xuân, chúng ta thấy được Du Tử Lê đã đưa tuổi trẻ lên thành một vấn đề thân phận. Thậm chí, người đọc còn có thể phát hiện thấy, tuổi trẻ của những người thanh niên nước Việt kỳ thực chính là thân phận và vận mệnh của chính quê hương. Giọng triết lý suy nghiệm khiến cho người đọc tự mở rộng phạm vi vấn đề hiện sinh. Rõ ràng, tầm vóc của Du Tử Lê chính là ở những suy nghiệm hệ trọng như vậy về con người và quê hương mình. Dựa trên bản tường trình những gì đã trải qua: khói thuốc, nôn thốc tháo nhân sinh, xách cặp, dại tình, luân lạc, anh hùng, tài tử, thiếu quê hương, … Nhà thơ đi đến một kết luận cay đắng: tự phế bỏ võ công của mình! Không triết lý mà có lẽ chỉ nghiệm rồi suy, Du Tử Lê sáng tạo nên những câu thơ có vẻ nghịch ngợm nhưng lại rất thâm trầm sâu sắc.
“chim làm tổ. chúng tôi tìm khói thuốc
mửa mặt đời. nôn thốc tháo nhân sinh /.
thằng sở Mỹ lên gân. thằng xách cặp /.
tên lao công : trốn lính. đứa dại hình /.
*
năm mươi tuổi : hai chục năm luân lạc
những anh hùng, tài tử hóa lem, nhem !
đời dẫu nhận hay xua thì cũng vậy /.
chúng tôi buồn hơn núi thọ tang sông /.
*
năm mươi tuổi : chúng tôi không tuổi trẻ
thiếu quê hương : - phế bỏ võ công mình”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 113-115)
Thiếu quê hương, không tuổi trẻ - thân phận những kẻ lạc loài. Du Tủ Lê đã phơi bày vấn nạn hiện sinh của con người trên mặt đất trần gian. Dường như loài người đã đánh mất cơ hội có thể khẳng định cuộc hiện hữu. Những thước đo đánh giá sự có mặt của con người đã mất đi. Giọng chiêm nghiệm của Du Tử Lê, vì thế, có phần chua chát.
3.3.3. Giọng trầm mặc u buồn
Du Tử Lê là một người trăn trở, thao thức, ưa suy tư. Ông không bao giờ “bằng mặt, bằng lòng” với đời sống. Vì ở đâu đó trong cõi người, ông nhận thấy cái tính chất nghịch dị, phi lý và trống rỗng của nó. Và như đã nói ở tiểu mục trên, ông trằn trọc tìm kiếm cho cuộc đời một nghĩa lý. Vậy thì với những trăn trở đó Du Tử Lê liệu có thể tìm thấy một nghĩa lý nào không. Chúng ta cũng như bản thân nhà thơ không thể xác quyết về nghĩa lý cuộc đời phổ quát. Nhưng chúng ta hoàn toàn nhận thấy rằng: sự trằn trọc thao thức đó khiến cho thơ ca Du Tử Lê mang vào nét u uẩn trầm mặc. Bóng hình người tư tự suy tưởng với những gánh nặng tâm hồn trầm đọng trong con chữ và biểu thị qua giọng điệu. Từ chỗ chiêm nghiệm triết lý, giọng thơ lắng xuống kết hợp những từ vựng biểu hiện cảm xúc u buồn (hẵng gượm, buồn một thể, buồn bã mãi, buồn nản, hồn hiu quạnh) giọng thơ u uẩn trầm mặc hiện ra. Giọng điệu thơ trải ra bàng bạc mỗi câu thơ, ý thơ. Ngoài ra giọng trầm mặc còn biểu thị qua nhịp thơ và tốc độ dòng thơ chậm rãi, nặng nề, nếu không nói là tốc độ khá trì trệ! Việc này níu kéo suy tư của bạn đọc khi cảm nghiệm từng lời thơ của Du Tử Lê.
“thơ vui đấy, em hãy cười lúc đọc
nếu có buồn hẵng gượm để hôm sau
hãy để mai kia, anh được phép trầu cau
đến sêu hỏi em hẵng buồn một thể
bởi lúc ấy, biết đâu cả hai đã chẳng già lụ khụ
cùng xác xơ vì đã quá âu lo
nên anh chắc thơ anh sẽ còn buồn bã mãi
(nhưng em đừng buồn nản giống thơ anh)
phải nghĩ bao lâu, mới có cuộc tình
mà hai kẻ yêu nhau
đã vô cùng khốn khổ
như mắt ướt sớm thành ga nát đổ
xót xa nào thành tóc chấm hai vai
ước mơ nào thành khói đứng trên môi
mây thấp ẩm giăng trong hồn hiu quạnh”
(Du Tử Lê, 2018, tr. 58)
Ga thì đổ nát, hồn thì hiu quanh. Nhiều câu thơ Du Tử Lê khiến ta liên tưởng đến giọng trầm mặc u uẩn của Huy Cận và Đinh Hùng thuở trước. Những vần thơ bắt nguồn từ cái nhìn đối với đời sống thế sự, nhà thơ phát hiện khía cạnh “hiện sinh” – cảm hứng thế sự kết hợp cảm hứng hiện sinh. Chỗ ấy, nhà thơ nghiêng ngó và trầm mặc chiêm nghiệm như nhà hiền triết cô độc. Ở những chỗ càng cô độc, càng lẻ loi, giọng điệu trầm mặc càng u uẩn. Ta cảm thấy nỗi lòng Du Tử Lê trơ trọi, bơ vơ. Thường không gian và thời gian kéo theo giọng điệu trầm mặc u uẩn là không gian đêm tối và thời gian muộn màng. Giọng điệu u uẩn trầm mặt qua việc tiết chế “tốc độ” dòng thơ: “/”. Đồng thời còn thể hiện qua mạch cảm xúc tạo nên bởi sự xâu chuỗi của các từ ngữ thuộc trường từ vựng có sắc thái biểu cảm tiêu cự: chia, ly, già, buồn, ngờ, khư khư, khẳm ghe, chìm …. Nhà thơ còn lặp lại quá nhiều “tôi”, ấy vậy mà độc giả chỉ thấy duy nhất một “tôi” mà thôi!
“còn/ rừng/ gương/ soi cho tôi
bao dung/ núi/ đợi. nghiêng vai/ sông/ ngờ
còn/ người cơn mưa/ khư khư
úng thân xử nữ, khẳm ghe bầu, chìm
còn /cây /giường/ nằm cho chim
hoa mang thai gió. lá nhan sắc, tuỳ
còn/ tim/ đèn/ nhang chia, ly
tôi. tôi. tôi với tôi nghi ngút, già
còn/ em/ xương/ buồn theo da”.
(Du Tử Lê, 2019, tr. 84)
Có khi, ý hướng hoài niệm đưa nhà thơ đi vào cõi “phi tưởng”. Càng phi tưởng càng dễ biểu thị giọng điệu trầm mặc. Ở khía cạnh này, cảm hứng hiện sinh được bộc lộ ra thành niềm cay đắng chua xót về nhân tình về biến đổi về còn và mất,…. Giọng trầm mặc cơ hồ dung chứa chút ít hoài nghi và phủ định (điệp từ “đừng”, “không tìm”, ..). Sự trầm mặc đưa nhà thơ tới những gút mắc hiện sinh không thể giải quyết (chẳng hạn gút mặt giữa ái tình và tự do chẳng hạn). Trầm mặc và hoài nghi kết hợp lại, càng khiến giọng thơ trĩu nặng u sầu. Giọng điều trầm mặc dàn trải, đến nỗi chúng ta cảm nhận đời chính là buồn. Cuộc đời thì buồn bã và ảm đạm. Bằng các biện pháp tu từ từ vựng (điệp từ: đừng tìm; so sánh) lẫn tu từ cú pháp (điệp cú pháp ở 2 câu đừng tìm dòng sông nơi đáy mắt/đừng tìm chân trời qua đôi môi), cùng lối sử dụng dấu câu phá vỡ quy chuẩn ngữ pháp nhằm tạo ấn tượng ngữ nhịp cho dòng thơ, nhà thơ Du Tử Lê gợi ra một thế giới thơ buồn nhưng đẹp và tình tứ.
“đừng tìm dòng sông nơi đáy mắt
đừng tìm chân trời qua đôi môi
(mùa hoa gạo đỏ nghìn năm, cũ
đã bỏ xa người / như thanh xuân).
tôi không tìm em ngày nước lớn.
như nắng, mưa không tự biết đường về.
tôi sẽ tìm em giữa hư không
khi thiên thu cuộn tròn trong dấu chấm.
và, tôi về, như một giọt sương, tan”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 49)
Nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tư từ. Trong đó, nhất là phép so sánh và ẩn dụ. Bởi nhờ đó, nhà thơ có thể mở rộng về số lượng các hình ảnh và hình tượng thơ. Trầm mặc trong giọng điệu còn kéo theo sắc thái biểu cảm của từng con chữ: đó là nỗi cảm hoài u buồn, sầu mộng, lối sầu mộng rất trữ tình và hào hoa (không giống với lối thiên cổ sầu của Đường thi). Đâu đó, trong chất giọng trầm mặc, người đọc cảm nhận ra nỗi trầm buồn mơn manh, nỗi day dứt bang khuâng, nỗi ngậm ngùi cay đắng. Quả thật, việc “phân chất mùi hướng” thường cho thấy sự kết hợp phức tạp của “mùi hướng”. Việc phân chất này, phân tích rõ giọng điệu, chỉ góp phần làm rõ giá trị nghệ thuật của tác giả. Thực tế các khía cạnh giọng điệu hài hòa thống nhất với nhau. Và do dó, ở giọng điệu trầm mặc u uẩn, ta thấy giọng thơ Du Tử Lê có sự kết hợp nhiều sắc thái tình cảm khác, cũng là điều dễ hiểu. Giọng điệu trầm mặc u uẩn do đó, tạo thành một từ trường cảm xúc. Mà hễ người đọc dấn thân vào thế nào cũng “thê thảm” những vết thương, vừa xót vừa rát.
“đêm cắt lát những bình minh lỗi hẹn
Thịt, da khuya: mở cửa đón hương. Nguồn.
Mỗi sợ tóc chờ nghe! Chiều. phiến loạn.
Mưa qua sông. Thập giá cúi thương dòng.
*
Môi an nghỉ chỗ riêng, sau ngấn cổ.
Tiếng hát tìm góc phố: ủ tai ương.
Vai gom giữ những lần răng … thảm thiết …
Sớm mai không độ lượng: vết thương, buồn”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 66)
Cõi người trong thơ Du Tử Lê có thể nói như đang phân hủy. Sự phân rã của ý nghĩa cuộc đời kéo theo sự tan biến của con người. Chẳng khác gì cõi thơ trống không. Giọng điệu trầm mặc thoảng như gió tan vào hư vô. Ý thơ chùng xuống: Cây khô, trần thân, chia ly, sầu khô, héo về, tôi tan,… Ý thơ kết hợp âm sắc của dòng thơ (kết thúc bằng thanh bằng), tạo ra giọng đìu hiu xa vắng, nặng nề. Nhà thơ kết hợp với các vần bằng ở cuối câu thơ và phép điệp từ cho thấy nhịp độ phân hủy của đời sống. Trong giọng trầm mặc là sự u buồn thỉu não, ũ rũ ghê gớm, có thể đến mức như cái chết vậy.
“ngày tôi, trôi trên lưng, đời
Cây khô gốc đợi, lá bồi hồi, reo/.
Sương, trần thân mây, chia, ly
Nhập chung nỗi chết: sầu khô, héo về/.
Môi đêm. Thơm nhang xuân thì
Tháp trong da thịt lời thề bồi, riêng/.
Tôi nằm. tôi nghe tôi tan
Lẫn hơi đất ẩm, chút vàng, son, xưa/.
Khuya tôi trôi trên tay, còn
Lung linh địa ngục: thiêng đàng dấu răng/.
*
Tôi tan rồi. tan. Tan. Tan, …”
(Du Tử Lê, 2019, tr. 112)
Trầm mặc và u uẩn cho thấy sự chín muồi trong hồn thơ Du Tử Lê. Đến mức này, nhà thơ đã rất thành thạo và tinh luyện những kỹ thuật về xử lý dòng âm thanh của dòng thơ để tạo ra nhạc điệu. Nhạc trầm buồn cũng là giọng trầm buồn. Hay có thể gọi đó là “tone” của khúc thơ. Có lẽ vì vậy, thơ Du Tử Lê được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc.
Tiểu kết chương 3
Để chuyển tải cảm hứng hiện sinh thông qua thơ ca đến bạn đọc, Du Tử Lê đã sử dụng nhiều phương thức nghệ thuật khác nhau. Tất nhiên, mỗi người hẳn sẽ có góc nhìn và đánh giá khác nhau về đóng góp nghệ thuật của ông. Đối với chúng tôi trong luận văn này, điều đáng kể nổi bật dễ nhận thấy đó là phương thức xây dựng biểu tượng nghệ thuật. Nói đúng hơn đó là phương thức xây dựng biểu tượng bằng giấc mơ và biểu tượng hóa bằng cách luận lý. Cách biểu tượng hóa bằng luận lý khiến cho thơ ca dường như tiệp cận với hình thức tự sự, giàu tính trần thuật hơn, nhưng chính vì thế, thơ ca cũng gần gũi và đời thường hơn. Thông qua giấc mơ, vô thức của người nghệ sĩ bộc lộ trữ lượng phong phú. Ở đó, nhà thơ Du Tử Lê đã khám phá ra nghĩa lý của cuộc hiện hữu. Bằng cách biểu tượng hóa các giấc mơ như là chất liệu và phương liện, Du Tử Lê mang lại cho độc giả nhiều cách giải thích hiện sinh về đời sống. Trong đó: biểu tượng hóa con người nạn nhân; biểu tượng hóa con người giẫy chết; biểu tượng hóa con người tội lỗi; biểu tượng hóa con người nhục cảm; biểu tượng hóa con người ngục tù. Với thơ ca và mộng tưởng, Du Tử Lê đã thi triển tối đa tính chất lãng mạn và trữ tình. Cùng với đó, biểu tượng hóa bằng phương thức luận lý cũng giúp cho thế giới chữ nghĩa của ông có thểm nhiều phương diện hiện sinh đặc sắc. Cụ thể: biểu tượng hóa con người yểu mạng, biểu tượng hóa cuộc đời phi lý; biểu tượng hóa cuộc đời bất hạnh; biểu tượng hóa cuộc đời phân hủy; biểu tượng hóa cuộc đời kích động. Rõ ràng, phương thức biểu tượng hóa góp phần thể hiện và mở rộng thé giới nghệ thuật với cảm hứng hiện sinh trong thơ ca Du Tử Lê.
KẾT LUẬN
Thông qua luận văn này chúng tôi đã làm rõ được cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê. Bắt đầu từ việc xây dựng nền tảng lý luận vần thiết. Cụ thể, chúng tôi đã làm rõ về phương diện lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh. Đây là bước đệm cần thiết, là cơ sở lý luận đồng thời gợi ý về mặt phương pháp để chúng tôi thâm nhập vào cõi thơ Du Tử Lê.
Luận văn đã cho thấy chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học tư tưởng rộng lớn, có sức ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động văn chương thế giới. Trong đó chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một trào lưu gần như phổ biến rộng khắp mọi phương diện của đời sống văn học đô thị miền Nam. Từ môi trường giáo dục, chủ nghĩa hiện sinh đi vào lý luận phê bình văn học, sáng tác văn học, thưởng thức văn học, … Kèm theo đó, luận văn cũng đã trình bày về sự du nhập của chủ nghĩa hiện sinh vào văn học thông qua những con đường nào. Phải nói, trong quá trình du nhập, giáo dục là lĩnh vực có đóng góp đáng kể nhất. Về tác giả Du Tử Lê, chương một đã làm rõ được những nét chung, những đặc trưng cơ bản về con đường sáng tạo nghệ thuật của ông. Làm rõ những chặng đường thơ và thành tựu thơ của ông hàng chục năm qua. Sau hết, chúng ta thấy điều đáng quý nhất ở hồn thơ Du Tử Lê chính là tấm lòng chân thành trước sau như một đối với thi ca và văn học nói chung. Ông là một trong số ít nhà thơ mà sức sáng tác số lượng tác phẩm vẫn đều đặn theo thời gian. Càng về sau, dường như thơ ca Du Tử Lê càng mặn mà và sâu lắng hơn. Đó là độ thâm trầm của thời giăn đã hằn lên chữ nghĩa của ông.
Chúng tôi đi sâu vào cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê qua từng phương diện cụ thẻ hơn. Đầu tiên, chúng tôi đã làm rõ được cái nhìn về tha nhân của nhà thơ. Thông qua quan sát nắm bắt thế giới, nhà thơ đã khởi dậy cảm hứng hiện sinh, cảm hứng này góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo. Những vẫn thơ đã ra đời từ cảm hứng hiện sinh trong sự nắm bắt tha nhân như vậy. Cụ thể hơn, trong thơ ca, Du Tử Lê đã đặt ra những vấn đề sống còn của hiện hữu người. Đó là tự do, lựa chọn, tự quyết, và việc phải chịu trách nhiệm về chính cuộc tồn tại của mình. Đó là những vấn đề mà tha nhân và con người nói chung không thể né tránh. Con người âu lo, nặng lòng tìm kiếm một ý nghĩa cuộc đời. Con người ấy buộc phải dấn thân, trải bước vào đời, lăn trở lòng mình vào những biến cố, đổi thay, dịch chuyển. Từ đó, tha nhân mãi mãi bị kéo vào đời sống, hắn buộc lòng phải thực hiện cuộc đời mình. Du Tử Lê thể hiện điều đó qua những vần thơ vừa cay đắng vừa chua xót. Nhưng sau cùng, dư vị mà ông để lại ở mỗi bài thơ lại là sợ ngọt ngào trữ tình, nỗi đìu hiu của phận người.Khởi đầu cho tất cảm cảm hứng hiện sinh trong thơ, nỗi ưu tư. Nỗi ưu tư của tha nhân hay chính là nỗi ưu tư của nhà thơ. Dầu cho nỗi ưu tư không chắc đưa lại một phương hướng nào khả dĩ giải thoát cho con người khỏi vấn nạn đời sống. Nhưng con người phải ưu tư. Du Tử Lê đã bộc lộ nỗi ưu tư ấy một cách đay nghiến dày vò thổn thức thao thiết thống khổ cùng cực. Nhưng càng đi càng trải nghiệm càng cảm thấy vô vọng và trống rỗng, cùng với sự lý giải con người ưu tư dày vò, nhà thơ cũng mang lại cho độc giả cảm nhận vè một thế giới hư vô, tuyệt vọng.
Trải qua một đời thơ đầy biến động và biến cố biến chuyển biến thiên đủ mọi hoàn cảnh khác nhau đến nỗi nhà thơ Du Tử Lê đã nhào nặn và tích cho mình một kho thi pháp nghệ thuật. Những thi pháp nghệ thuật mà Phạm Ngọc Hiền trình bày trong công trình (Thi pháp học) của ông hầu như đều xuất hiện trong thơ Du Tử Lê. Cảm hứng hiện sinh trong thơ Du Tử Lê là một thế giới đa dạng từ việc sử dụng nhiều thi pháp nghệ thuật khác nhau. Thế giới thơ của ông chính vì thế rất điêu luyện và giàu giá trị. Chúng tôi đã làm rõ được phương thức xây dựng biểu tượng nghệ thuật. Đây là khiến cạnh cho thấy rõ nét cảm hứng hiện sinh trong thơ của Du Tử Lê. Ông sử dụng các thủ pháp của giấc mơ, đồng thời lấy giấc làm chất liệu để tạo ra những biểu tượng đầu ám ảnh. Bên cạnh đó, việc sử dụng phương thức tự sự khá gần với văn xuôi thì tính luận lý được đẩy lên cao cũng góp phần xây dựng các biểu tượng thẩm mỹ. Chính những biểu tượng này cho thấy quá trình “biện chứng” các vấn đề hiện sinh trong thơ Du Tử Lê. Cùng với xây dựng biểu tượng hóa, Du Tử Lê đã kiến tạo ra không gian và thời gian nghệ thuật của riêng ông. Dấu ấn cá nhân sáng tạo của Du Tử Lê rất đậm nét. Không gian thơ được ông mang lại chính là một nơi xa cách và rất trơ trọi cô độc. Một nơi mà nhà thơ có thể đổ cái hồn trữ tình của mình vào. Thế giới thơ vừa phia lý đau đơn nhưng cũng rất trữ tình lãng mạn. Có lẽ nên nói tới cảm hứng hiện sinh Du Tử Lê như là sự kết hợp giữa những ưu tư luận đề hiện sinh với chất trữ tình lãng mạn. Về thời gian, ông đã mang lại cho người độc sự nhận ra một hình thức thời gian rất riêng. Kiểu thời gian bị kéo vào quá khứ, hoài niệm và u uất. Người đọc như bị kéo và từ trường cảm xúc của thời gian đã mất. Sự mất mát qua biểu hiện thời gian vì vậy đã khơi dậy cảm hứng hiện sinh trong lòng người đọc thơ. Cùng với đó, Du Tử Lê còn sử dụng khá phong phú và đa dạng muôn màu muôn vẻ giọng điệu. Thể hiện các suy tư âu lo, Du Tử Lê sử dụng chất giọng phản vấn phản tư. Đó cũng là khi ông chuyển tải những cảm hứng về thân phận và cái tôi trữ tình. Còn những khi nói tới tha nhân, ông quan sát và từ đó đưa ra cảm nhận. Ở những chỗ như vậy, Du Tử Lê sử dụng các kiểu giọng điệu triết lý và suy để nghiệm. Nhờ có nghiệm, ông đã đưa ra những cảm nhận về vấn đề tồn tại của con người. Sau hết, với những nghịch dị mâu thuẫn mãi mãi trong đời người, ông kết hợp cảm hứng hiện sinh với cảm hứng tôn giáo trong những bài thờ từ thập niên 1980 trở đi. Có lẽ tuổi càng cao sức càng yếu thì người ta càng cần tìm đến một chỗ dựa tinh thần trong tôn giáo. Ông tìm kiếm trong Thiên Chúa giáo, Phật giáo những khả thi lý giải vấn đề hiện sinh của tồn tại người. Giọng điệu thơ ở giai đoạn này đến cuối đời cơ hồ vừa trong sáng lại vừa u uẩn. Sự u uẩn trầm mặc của tuổi già và những trải nghiệm chồng chất trong tâm hồn.Sau hết, Du Tử Lê đã đi một chặng đường thơ rất dài, đã đóng góp rất nhiều cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Hơn hết, thơ ca của ông đã sống và có chỗ đứng trong lòng bạn đọc. Càng thăng hoa hơn, thơ ca của Du Tử Lê đã vang lên tiếng nhạc, càng bám chặt vào tâm hồn người mộ điệu gần xa.
Xa hơn, luận này còn gợi ra hướng phát triển trong tương lai, đối với những ai yêu mến tìm hiểu thơ Du Tử Lê. Ngoài ra, luận văn này còn có thể tiếp tục phát triển để làm bước đệm cho việc tìm tòi nghiên cứu cảm hứng hiện sinh trong thơ ca đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Giáng dịch và biên soạn (2001), Martin Heiddegger và tư tưởng hiện đại, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Bùi Ngọc Dung (1963), “Albert Camus với nền văn chương triết học”, Tạp chí Văn học, số 13, Sài Gòn.
Bùi Ngọc Dung (1964), “Jean Paul Sartre từ hiện sinh đến biện chứng”, Tạp chí Văn học, số 20, 21(6, 7/1964).
Bùi Ngọc Dung (1965), “Vài nét về tư tưởng triết học Friedrich Nietzsche”, Tạp chí Văn học, số 39, Sài Gòn.
Du Tử Lê (1965), Tình khúc tháng mười một, Nhân Văn xuất bản, Saigon.
Du Tử Lê (1989), Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, Văn học nhân chứng xuất bản, Hoa Kỳ.
Du Tử Lê (1996), Sông núi người thơm nỗi nhớ nhà, Annam xuất bản, Hoa Kỳ.
Du Tử Lê (2018) , Trên ngọn tình sầu, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội.
Du Tử Lê (2019) , Khúc thụy du, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội .
Du Tử Lê (2019) , Chúng ta, những con đường, Nhà xuất bản Đà Nẵng .
Du Tử Lê (2020), Du Tử Lê toàn tập 2, Nhà xuất bản HT Productions Hoa Kỳ .
Dương Hữu Tình (2014), Lịch sử triết học thời cận đại và hiện đại. Tài liệu lưu hành nội bộ. Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội.
Friedrich Nietzsche (2006), Buổi hoàng hôn của những thần tượng - Hay làm cách nào triết lý với cây búa (Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu), Nxb. Văn học, Hà Nội.
Jean-Paul Sartre (1965), Hiện sinh một nhân bản thuyết (Thụ Nhân dịch), Nhị Nùng xuất bản, Sài Gòn.
Jean-Paul Sartre (1967), Buồn Nôn (Phùng Thăng dịch), An Tiêm xuất bản, Saigon.
Hà Mậu Nhai (1966), “Những độc tố trong thứ văn học phục vụ chiến tranh tâm lý của Mỹ và tay sai ở miền Nam”, Tạp chí Văn học, số 7, tr.95-101, Sài Gòn.
Huỳnh Như Phương (2008), “Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết), Tạp chí Văn học, số 9, tr.91-103.
Huỳnh Như Phương (2015), “Chiến tranh, xã hội tiêu thụ và thị trường văn học miền Nam 1954-1975”, Tạp chí Văn học số 4, tr.27-40.
Lê Doãn Hệ (2011), Tâm thức hiện sinh trong tác phẩm của Franz Kafka, Luận văn thạc sĩ khoa học Văn học, Đại học Khoa học Huế, Huế.
Lê Ngọc Trà (1988), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ TP HCM.
Lê Thành Trị (1974), Hiện tượng luận về hiện sinh, Trung tâm Học liệu – Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh Niên xuất bản, Saigon.
Lê Tuyên (1988). Chinh phụ ngâm và Tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày. Văn Nghệ tái bản, Hoa Kỳ.
Lê Thị Hiền (2011), Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ khoa học Văn học, Đại học Khoa học Huế, Huế.
Lê Tôn Nghiêm (2007), Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Martin Heidegger (2004). Tác phẩm triết học (Siêu hình học là gi?, Thư về nhân bản chủ nghĩa, Triết lý là gì?, Trên đường đến với ngôn ngữ), Nxb. ĐH Sư phạm, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Điệp (2004),Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Hiệu (1973). Con đường sáng tạo. Saigon: Võ Tánh xuất bản.
Nguyễn Hữu Trọng (1960). Con người thời đại. Người Mới xuất bản. Saigon.
Nguyễn Phước Lộc (2020), Tàng thức và Phân tâm học. Trong Thích Đồng Bổn (chủ biên,2020), Phật học Từ Quang tập 34, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr.59-75.
Nguyễn Quang Lục (1970), Mổ xẻ nhà văn Jean - Paul Sartre, Hoa Muôn Phương xuất bản, Sài Gòn.
Nguyễn Tiến Dũng (2005), Chủ nghĩa hiện sinh - lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam, NXB Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trọng Nghĩa (2011), Hiện tượng học của Edmund Huserl và sự hiện diện của nó ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thúy Hồng (2008), Tư tưởng triết học hiện sinh cơ bản của Albert Camus qua một số tác phẩm, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Việt Nga (2012), “Con người cô độc trong tiểu thuyết đô thị miền Nam 1954-1975”, Tạp chí Văn học, số 3, tr.39-48.
Nguyễn Thị Thu Trang (2020), Hiện tượng học Edmund Husserl dưới góc nhìn của Trần Đức Thảo, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Nguyễn Văn Trung (1957), Triết học tổng quát, Vĩnh Bảo xuất bản, Saigon.
Nguyễn Văn Trung (1964), “Một vài cảm nghĩ về con người phản kháng của Albert Camus”, Tạp chí Văn, số 2, Sài Gòn.
Nguyễn Văn Trung (1967), Ca tụng thân xác, Nam Sơn xuất bản, Saigon.
Nguyễn Văn Trung (1968), Ngôn ngữ và thân xác, Trình Bày xuất bản, Saigon.
Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp.
Phạm Ngọc Hiền (2019), Thi pháp học. Nxb. Tổng hợp TPHCM.
Phương Lựu (2001), Lý luận và phê bình văn học Phương Tây thế kỷ XX, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Phùng Quý Nhâm (2003), Văn hóa và văn học từ một góc nhìn, Nxb. Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
Trần Hoài Anh (2009), “Khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo ở đô thị miền Nam 1954-1975”, Tạp chí Văn học, số 11, tr.91-100.
Trần Giải (2004), Con người hiện sinh và sự biểu hiện của nó trong văn học đô thị miền Nam trước 1975, Luận văn thạc sĩ triết học, Đại học Khoa học Huế, Huế.
Trần Nhật Thu (2016). Cái chết từ góc nhìn Phân tâm học – hiện sinh (qua một số truyện ngắn Việt Nam đương đại). Tạp chí Nghiên cứu văn học số 3, tr.57-64.
Thái Phan Vàng Anh (2012), “Con người hiện sinh trong tiểu thuyết Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XX, Tạp chí Văn học, số 8, tr.53-61.
Trần Thiện Đạo (1965), “Jean Paul Sartre thân thế và sự nghiệp”, Tạp chí Văn, số 31, Sài Gòn.
Trần Thiện Đạo (2008), Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Trần Văn Hiến Minh (1965), Triết học tổng quát, Tủ sách Ra Khơi in lần thứ bốn, Saigon.
Trần Thị Như Ngọc (2012), Thơ Du Tử Lê dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật, Luận văn thạc sĩ Lý luận văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Trần Văn Toàn (2000), Vị trí của trào lưu hiện sinh trong lịch sử triết lý, Tạp chí Dòng Việt, Hoa Kỳ.
Thân Văn Tường. "Gabriel Marcel hay con người là một huyền nhiệm". Đại Học, số 18, năm 1960, trang 49-72.
Thích Đức Nhuận (1965), “Một cuộc tự vượt trong tư tưởng giới Âu châu”, Tạp chí Vạn Hạnh số 5, Sài Gòn.
Võ Quốc Việt (2013), Từ biểu tượng tâm lý đến biểu tượng thẩm mỹ, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TPHCM số 52, tr.141-150.
Võ Quốc Việt (2013). Biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Thanh Tâm Tuyền: Luận văn Thạc sĩ Văn học chuyên ngành Lí luận văn học, Trường Đại học Sư phạm TPHCM.
Võ Quốc Việt (2020). Chối bỏ hệ giá trị và ý hướng tính lập thành sự hiện hữu thế tính trong tiểu thuyết Mù Khơi của Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM, Tập 17, Số 7 (2020), tr.1196-1197 (1189-1205).
Vũ Thị Thu Hương (2017), Xuân Diệu – Từ quan niệm nghệ thuật đến sáng tạo thơ. Luận văn tiến sĩ Văn học. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Internet
https://dutule.com/p123a1214/thai-tu-hap-du-tu-le-nguoi-tinh-thuy-chung-voi-van-chuong
https://www.dutule.com/p130a283/anh-huong-phat-giao-trong-thi-pham-vi-em-toi-da-lam-sa-di
https://www.dutule.com/p130a294/anh-huong-nghiep-luc-trong-tho-du-tu-le
https://www.dutule.com/p130a2804/su-phong-phu-cua-tieng-viet-qua-nhung-ang-tho-hay-dan-bai-chi-tiet-
https://www.dutule.com/p130a294/anh-huong-nghiep-luc-trong-tho-du-tu-le
https://www.dutule.com/p130a283/anh-huong-phat-giao-trong-thi-pham-vi-em-toi-da-lam-sa-di
https://ichi.pro/vi/so-sanh-giua-hien-sinh-va-trong-rong-tam-linh-225912946274410
Huỳnh Như Phương (18/7/2018). Hiện sinh, tình yêu, cái chết trong ca từ ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/van-hoa-lich-su-triet-hoc/7083-hi%E1%BB%87n-sinh,-t%C3%ACnh-y%C3%AAu,-c%C3%A1i-ch%E1%BA%BFt-trong-ca-t%E1%BB%AB-%E1%BB%9F-mi%E1%BB%81n-nam-giai-%C4%91o%E1%BA%A1n-1954-1975.html
Lê Công Sơn (09/10/2019). Nhà thơ Du Tử Lê, tác giả 'Khúc thụy du', qua đời. Báo Thanh Niên online. https://thanhnien.vn/van-hoa/nha-tho-du-tu-le-tac-gia-khuc-thuy-du-qua-doi-1135131.html
https://trandinhsu.wordpress.com/2021/04/26/khong-gian-nghe-thuat/
https://tranngochuynh.wordpress.com/2019/10/07/huu-the-nguoi-mot-hien-huu-lo-au-theo-s-kierkegaard/
https://vanhocsaigon.com/nhung-vat-lieu-kien-tao-the-gioi-tuong-trung-trong-tho-bich-khe-ky-2/
http://vietvan.vn/vi/bvct/id3197/Su-hien-dien-cua-triet-hoc-va-van-hoc-hien-sinh-o-do-thi-mien-Nam-1954–1975/
[1] Trần Thị Như Ngọc (2012), Thơ Du Tử Lê dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật, Luận văn thạc sĩ Lý luận văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
[2] https://www.dutule.com/p123a5027/23/doan-quoc-sy-doc-tho-du-tu-le-
[3] https://www.dutule.com/p123a225/23/ta-ty-du-tu-le-nha-tho-cua-kham-pha
[4] https://www.dutule.com/p123a2758/22/nguyen-sa-coi-tho
[5] https://www.dutule.com/p123a298/14/nguyen-sa-tu-chieu-doc-thi-ca-viet-nam-toi-tho-du-tu-le-
[6] https://www.dutule.com/p123a2833/22/lm-thach-son-nguyen-huy-tuong-du-tu-le-va-triet-ly-dong-phuong-
[7] https://www.dutule.com/p123a5659/20/mai-thao-tho-du-tu-le
[8] https://www.dutule.com/p123a2001/24/cham-dut-luan-hoi-co-cau-an-du-va-hoan-du-trong-tho-du-tu-le
[9] https://www.dutule.com/p123a4327/17/duy-thanh-du-tu-le-da-cho-doi-them-mot-dau-an-tuyet-voi-
[10] https://www.dutule.com/p123a4211/17/luan-hoan-phac-hoa-du-tu-le
[11] https://www.dutule.com/p123a230/16/cung-tram-tuong-ngon-ngu-va-khong-gian-tho-du-tu-le
[12] https://www.dutule.com/p123a314/15/le-huy-oanh-ke-nhan-lanh-su-mang-rao-giang-phuc-am-buon-du-tu-le
[13] https://www.dutule.com/p123a300/15/rev-nguyen-huy-tuong-tho-du-tu-le-va-ton-giao
[14] https://www.dutule.com/p123a1087/14/tran-van-the-triet-ly-va-nhung-dau-cham-pha-co-tinh-trong-tho-du-tu-le
[15] https://www.dutule.com/p123a3888/11/trang-ng-du-tu-le-nhung-nguoi-nu-trong-thi-ca
[16] https://www.dutule.com/p123a7625/11/bon-muoi-nam-tho-viet-hai-ngoai-du-tu-le
[17] https://www.dutule.com/p123a8202/10/thanh-thao-me-ve-bien-dong-mot-khat-mong-day-dut
[18] https://www.dutule.com/p123a8203/10/thanh-thao-nhung-cuoc-tro-ve-cua-tho-viet-hai-ngoai-ky-1-noi-so-cua-du-tu-le
[19] https://www.dutule.com/p123a10000/2/nguyen-quang-thieu-nha-tho-du-tu-le-giac-mo-trong-nhung-cau-chuyen-
[20] Chu Văn Sơn (2003). Ba đỉnh cao Thơ mới. Hà Nội: NXB Giáo dục, tr.37.
[21] Nguyễn Tiến Dũng (1999). Chủ nghĩa hiện sinh: Lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.98.