Nhiều nhà thẩm định nghệ thuật khởi từ Aristotle đã khẳng định rằng, thi sĩ cũng như họa sĩ là người diễn tả chân thật những gì nhìn thấy ngay tại lúc này, trong quá khứ, hay nghe được từ người khác, và cả những gì nên được hiện hữu. Sau Aristotle khoảng hơn 300 năm, Horace xác định: “Ut pictura poesis” (Họa phẩm thế nào thì thi ca cũng vậy). Và nhiều nhà phê bình nghệ thuật ở Âu Châu (nhất là từ thế kỷ 16 sang đến thế kỷ 18) quan niệm hội họa và thi ca là hai bộ môn nghệ thuật có tính liên đới mật thiết. Nói cách khác, họa sĩ sáng tác thơ bằng hình ảnh và màu sắc, còn thi sĩ vẽ tranh bằng ngôn ngữ và vần điệu.
Thật ra quan niệm về sự tương quan giữa hội họa và thi ca không chỉ phát xuất từ Hy Lạp và Âu Châu, nhưng hầu hết nghệ thuật thuộc các nền văn minh và văn hóa trên thế giới đều chia sẻ quan niệm này. Quan niệm cổ điển về nghệ thuật cũng cho rằng mục đích của hội họa và thi ca là diễn tả vẻ đẹp của đời sống bao gồm những gì ta nhìn, cảm thấy được, và cả những vẻ đẹp cần có hay nên có cho cuộc đời. Như vậy nghệ thuật-hội họa và thi ca-vừa phản ảnh vừa tạo ra nét đẹp cho đời sống.
Nếu ta chấp nhận rằng họa sĩ sáng tác thơ bằng màu sắc và hình ảnh còn thi sĩ vẽ tranh bằng ngôn ngữ và vần điệu thì việc Du Tử Lê bước vào con đường hội họa là điều rất bình thường và cần thiết. Tôi vẫn nghĩ khi Nguyễn Du viết “Vầng trăng ai xẻ làm hai/ Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm đường/,” ông đã vẽ lên trong tâm trí mình một bức tranh chia lìa tan tác. Và gần đây, khi Du Tử Lê Viết: “Tôi thấy dòng sông trong mắt em/quê người in vách bóng chim/. câm./ đèn hoa trôi giữa đôi vai Huế/ cùng với tình-yêu-tôi-xốn-xang/” (dutule.com), ta cũng nhìn thấy một bức tranh đầy hình bóng và ấn tượng. Như vậy khi Du Tử Lê mở cánh cửa hội họa, ông đã mang vào thế giới ấy hàng trăm họa phẩm bằng thơ của mình.
Trong lịch sử hội họa Âu Châu, thi ca đã đóng góp tích cực vào nguồn cảm hứng của nhiều thiên tài hội họa và đã để lại cho đời bao nhiêu tuyệt tác. Một trong những hình ảnh diễn tả bằng ngôn ngữ trong thi ca Hy Lạp đã thôi thúc nhiều thiên tài hội họa đó là hình ảnh về thế giới thiên thai-thanh bình-thơ mộng-hồn nhiên (Arcadia). Mùa hè vừa qua, tại bảo tàng mỹ thuật Philadelphia, nhà quản thủ mỹ thuật (curator) Joseph J. Rishel và John G. Johnson thu góp một số tranh của các thiên tài hội họa vẽ về một cõi thiên thai dựa và nguồn cảm hứng từ 10 bài thơ cổ “The ten Eclogues” hay 10 Bài Thơ Đồng Nội, pastoral poems”của thi hào Ý, Virgil, với chủ đề “Gauguin, Cézanne, Matisse: Visions of Arcadia” (Gauguin, Cézanne, Matisse: Viễn Tượng Thiên Thai). Cuộc triển lãm trưng bày tranh của 25 họa sĩ danh tiếng kể cả Picasso. Những bức tranh triển lãm đều lãng đãng hình ảnh về con người sống hồn nhiên trong chốn thiên thai nào êm đềm thơ ảo. Cuộc triển lãm qui mô này khẳng định lại quan hệ mật thiết giữa thi ca và hội họa, một quan niệm cổ điển nhưng vẫn còn gần gũi với giới thưởng lãm và phê bình nghệ thuật.
Nếu thi ca có sức mạnh thôi thúc các danh họa sáng tác những tuyệt tác như thế thì việc một họa sĩ làm thơ hay thi sĩ vẽ tranh thì cũng chỉ là việc bình thường. Ở thế kỷ 16, khi đã đến tuổi 60, thiên tài Michelangelo bắt đầu làm thơ và sáng tác các thi khúc tình yêu (love sonnets) và ông được coi như một nhà thơ họa sĩ đầu tiên ở Âu Châu.
Không phải là người có kiến thức và năng khiếu về hội họa, nên, tôi không thể phê bình về tính nghệ thuật chuyên môn trong tranh Du Tử Lê. Tuy thế, nếu hiểu theo cái nhìn về nghệ thuật của Nietchez, thì chẳng có gì là chất liệu (facts), nhưng chỉ diễn tả (interpretation) mà thôi. Từ quan niệm nghệ thuật này ta có thể nói tranh Du Tử Lê là loại tranh diễn tả tình cảm dựa theo ký ức và cảm tính. Xem tranh ông, ta mường tượng được những vần thơ ẩn lấp sau màu sắc và hình ảnh ông phô bày trên canvas. Ông có lẽ không phải là họa sĩ có kỹ thuật tả chân như nghệ nhân nhiếp ảnh để vẽ lại như in những hình ảnh thu nhận trước mắt. Xem qua vài bức tranh gần đây của ông, người thưởng lãm thấy những chủ đề được diễn tả phát xuất từ một ký ức chứa đựng tràn ngập kỷ niệm và khắc khoải về cuộc đời. Chẳng hạn như bức sơn dầu “Boston Trong Ký Ức Tôi, 2012,” ông tả một Boston chứa đựng nhiều “trí tuệ.” Thành phố ông đã đến, đã dừng chân, và để sót lại trong trí nhớ ông những ấn tượng về một thế giới chất chứa sách vở, hay nói cách khác, một thế giới của tri thức, tò mò, và tìm kiếm. Một bóng đèn vàng, vài quyển sách, trên nền đêm đen sâu đậm là những biểu tượng sót lại trong ký ức từ những gặp gỡ thân hữu, hay nơi chốn đã đi qua như các sân đại học hay thư viện tại Boston năm nào.
Hội họa của Du Tử Lê không thoát ra từ nguồn cảm hứng thi ca thu nhận từ các thi sĩ khác, nhưng là một “phương tiện-media” để ông tiếp tục nguồn thơ của ông, nguồn thơ đã tuôn ra ngay từ chính tâm não của ông mấy chục năm qua trên chữ nghĩa vần điệu. Xem tranh Du Tử Lê không nên xem bằng mắt nhưng phải xem bằng trái tim. Có thể hiểu rằng, khi đứng trước bức tranh của Du Tử Lê, ta đừng cắt nghĩa hay phân tích về kỹ thuật, về màu sắc, hay bố cục, nhưng hãy để màu sắc, hình ảnh trong tranh ông tự nói lên nhưng gì cần nói.
Đối với Plato, nghệ thuật (hội họa) không cần thiết cho đời sống. Giả dụ như họa sĩ vẽ được bức tranh chai rượu đẹp tuyệt vời, ta cũng không khui ra uống được. Aristotle thì khác, ông xác định giá trị của nghệ thuật trên phương diện trị liệu bệnh lý. Aristotle quan niệm rằng nghệ thuật có khả năng trị liệu, giảm bớt nỗi thống khổ hay đau đớn của người thưởng thức nghệ thuật. Cả Plato và Aristotle đều đồng ý rằng nghệ thuật là phản ảnh (imitation, minesis) của thực tế hay của thế giới hiện hữu. Cái đẹp hay giá trị trong tranh Du Tử Lê là những gì còn sót đọng lại trong ký ức và được tả lại, kể lại bằng màu sắc và đường nét trên những đường cọ tâm hồn.
Trần Thu Miên,
Viết trên chuyến bay Boston-San Diego, CA tháng Giêng 2013
Gửi ý kiến của bạn