Đã gặp, đã mặt nhìn tận mặt tay cầm tận tay hai mươi năm trước, đúng hai mươi năm trước, một lần duy nhất, rồi thôi. Du Tử Lê.
Cứ nghĩ trái đất này cũng nhỏ anh Lê ạ, và người tài thì không có tuổi, em vẫn còn kịp lớn thêm cho những lần hội ngộ sau.
Khi quyết định chọn cho mình một quê nhà nữa, tôi chưa biết gì nhiều về nông nỗi của rất nhiều người Việt khác đã đi những con đường khác để xa quê hương, nhưng tôi đã chạm được ngay vào nỗi tuyệt vọng trong một lời trăng trối "khi tôi chết hãy đem tôi ra biển.“ Du Tử Lê.
Du Tử Lê, tới Mỹ lần thứ hai trên một con tàu chiến, đã hai năm, đủ để hội nhập và an nhiên ở xứ sở người ta vẫn bảo là đáng sống nhất thế giới. Du Tử Lê, ở Mỹ, ba mươi hai tuổi, dặn thế gian:
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vuốt mắt cho tôi,
Tôi, ba mươi hai tuổi, đọc lần đâu câu này. Tôi sẽ không nói về ẩn dụ chưa từng thấy trong thơ Việt, ẩn dụ về một linh hồn muốn được chết – không - nhắm - mắt, muốn nhận chịu tiếp những đọa đày lịch sử cùng quê hương. Tôi muốn kể sự thật: tôi bàng hoàng.
Thơ ca Việt thời hiện đại không chỉ có một Du Tử Lê. Nhưng, ngẫu nhiên, một phần tư thế kỉ trước, ở quê người có ba người thơ làm tôi chấn động, với chỉ một câu. Cao Tần:
sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
những hào hùng uất hận gối lên nhau
kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới
ta làm gì cho hết nửa đời sau?
Chưa bao giờ chết đủ trên quê hương – sao đã mượn quê người kí thác“, của một nhà văn trẻ viết truyện ngắn rất hay nhưng rất không may đi sớm và lại có ông em tài danh Trần Vũ nên ít được nhớ. Và, Du Tử Lê: "Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển“. Tuyệt vọng. Xót xa. Những ai ra đi chỉ vì áo cơm sẽ khó cảm được thơ này. Đấy là thơ của những kẻ từng ngày sống giản dị nhất cũng trở thành kí ức. Với tôi, có kí ức, nghĩa là không biết quên. Quên được là may mắn, nhưng quên cũng là một phản xạ tự vệ của những người vô trách nhiệm trước cuộc đời này.
Lần gặp Du Tử Lê đó tôi còn may mắn biết ba tài danh của miền Nam một thuở: giọng ca Lê Uyên, nhạc sĩ – ca sĩ Từ Công Phụng, nhạc sĩ Vũ Thành An.
Cả ba là ba nỗi bất ngờ. Lê Uyên, đã già, giọng vẫn đầy nội lực và kịch tính mà Thanh Lam, trong nước, trẻ trung hơn rất nhiều, nổi tiếng về chất giọng đầy nội lực chưa chắc đã hơn. Vũ Thành An, cao lớn, thư thái, không hề biết đã làm tôi hiểu vì sao ông viết "khóc cho vơi đi những nhục hình...“ lúc chưa kinh qua mười ba năm tù đày và bây giờ là người giúp việc của Chúa. Từ Công Phụng, người Chăm, lịch lãm kiểu một người Hà Nội không phải của thời tôi, làm tôi tiếc: giá Hà Nội những năm tháng ấy không chỉ có một cõi đi về Trịnh Công Sơn mà thêm Từ Công Phụng, sau nắng nhỏ, buổi chiều, hàng cây, cuối phố.
Du Tử Lê là một bất ngờ lớn hơn: ông biết tôi.
May mắn, chữ bao giờ cũng náo động một mình, người viết bao giờ cũng im lặng sau nhạc sĩ, ca sĩ, và vì thế, tôi với ông có cả một buổi tối chuyện trò.
Chúng tôi không nói với nhau về văn chương. Dĩ nhiên. Tôi không thấy nhiều nhà văn nhà thơ thật sự nói về chữ nghĩa khi gặp mặt.
Chúng tôi nói về một thành phố ở rất xa mà từ đó chúng tôi đã ra đi: Hà Nội, về phố Huế – nơi đã từng có một khoảng bị xóa sổ bởi một vệt bom của không lực Mỹ. Khoảng phố đó có nhà của mấy đứa bạn học cùng tôi. Lúc đó Du Tử Lê chưa về lại được và tôi không biết ở phố đó có còn ngôi nhà của tuổi thơ ông?
Du Tử Lê kể cho tôi nghe một mặc cảm tuổi thơ: bàn tay thừa một ngón. Ngẫu nhiên: tôi cũng có một bàn tay sáu ngón, và chúng tôi cùng cười: đấy chắc là dấu hiệu tài năng chưa được công nhận, và tôi bảo anh thì khác, anh là một tài danh và anh có hẳn hai bàn tay khác đời. Giờ nghe vợ ông – chị Hạnh Tuyền - nói, mới biết Du Tử Lê nói phóng lên để đùa tôi. Tôi cũng đùa với ông thế thôi, tôi rất tự biết mình: tôi không là tài danh, tôi chỉ là người đọc của Du Tử Lê, nhưng khi biết tới mặc cảm ấn định tuổi thơ của ông như đã ấn định tuổi thơ của chính mình, đọc ông, tôi có cảm giác tôi hiểu ông cách khác. Không như Du Tử Lê trên sân khấu kia qua giọng hát, qua sự được phổ nhạc, phải nói là rất hay, nhưng ca từ là những tiếp nối của một cắt dán lại Du Tử Lê, và chưa đủ.
Khi đọc một cuốn tiểu thuyết xứng đáng là tiểu thuyết, người ta được sống qua nhiều tâm trạng, nhiều cuộc đời, người ta được sống qua lịch sử, một lịch sử không gồm nguyên nhân diễn biến, không gồm cứ liệu, con số, không gồm những thắng những thua. Lịch sử qua văn chương phải là lịch sử phận người, lịch sử hồn người. Đọc Du Tử Lê, thơ, chỉ thơ, có đầy đủ cảm giác đó, và lạ lùng: tất cả xoay quanh đúng một cuộc đời, của một con người, nhỏ nhẹ từ giọng nói tới hình hài.
Có phải mặc cảm tuổi nhỏ vì cái sự thêm thừa lại thành khiếm khuyết kia đã theo thời gian phát triển thành một thứ mẫn cảm đặc biệt trước nhân thế, trước tình yêu, thù hận, với một và nhiều người, với cả giống nòi. Ca khúc phổ nhạc thơ ông, "Trên ngọn tình sầu“, "Mắt lệ cho người“, “Khúc thụy du“ tuyệt hay nhưng vì thế dễ khiến người nghe tưởng Du Tử Lê chỉ là thế, chỉ biết yêu thôi, đắm đuối, tuyệt vọng. Nghe, sẽ biết cả nửa thế kỉ trước trước khi có một Mỹ Tâm tóc nâu môi trầm thì âm nhạc Việt Nam đã có "môi trầm“ Du Tử Lê ấm rền qua giọng Từ Công Phụng. Nghe, sẽ thấy lần nào lòng cũng se mình "Ngày nắng hạ khi không mà trở rét… Em ở đó bờ sông còn ấm cát – Con sóng tình vỗ mãi một âm quên.“ "Em ở đó bờ sông còn ấm cát con sóng tình vỗ mãi một âm quên“ mà không hiểu sao nhiều người lại tầm thường hóa thành "Em ở đó bờ sông còn ẩm cát con sóng tình vỗ mãi một âm quen“.
Phải "ấm“ mà vẫn mãi "quên“ ở "Trên ngọn tình sầu“, phải "theo những cánh rong cưu mang niềm đau“ chứ không phải "những cánh rong rêu mang niềm đau“ qua "Mắt lệ cho người“ thì mới ra cái tình tri kỉ giữa thơ và nhạc, giữa nhà thơ và nhạc sĩ, mới thật là Du Tử Lê. Đọc và đọc, luôn bất ngờ vì những hình ảnh thật hơn cả thật nhưng chỉ có thể thấy được qua một cách nhìn: "bầy sẻ cũ hom hem chiều ngói xám...“, "những đứa con trai dài và buồn như lá cây...“ Thơ ấy, Du Tử Lê viết trong những ngày đang chiến. Giọng thơ ấy, điệu thơ ấy, những năm tháng từ 1957 tới 1974 người đọc ở một nửa nước thiết tha, ở nửa nước kia, nơi thơ và nhạc là "đường ra trận mùa này đẹp lắm“ người đọc chưa hề biết tới. Bây giờ, sau 40 năm được coi là hòa bình, đôi khi tôi tự hỏi nếu khi lớn lên chúng tôi đã biết và có quyền yêu những Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên thì liệu cuộc chiến sẽ kết thúc theo cách nào? "Nối vòng tay lớn“ của Trịnh Công Sơn sẽ thành hoan ca thật sự chứ không phải mãi mãi là tiếng gọi?
Người đọc tiếng Việt bây giờ nam cũng như bắc, trong nước cũng như ngoài nước, trẻ và già đều quen với tên Du Tử Lê, Du Tử Lê thơ chứ không phải chỉ là Du Tử Lê người làm lời cho những ca khúc tuyệt đẹp trong âm nhạc Việt Nam thời hiện đại của những Anh Bằng, Từ Công Phụng... Khi ông ra đi, tôi đọc thấy trên Fb của rất nhiều bè bạn đang sống ở Việt Nam một câu thơ của ông "chỉ nhớ người thôi đủ hết đời.“ Họ đang nhớ ai? Người – là chàng Du Tử họ Lê, hay đang cùng ông nhớ những "người“ nào khác? Tôi không có trong tay thơ Du Tử Lê in lại ở Việt Nam, không biết ông được in lại những gì? Thơ tình chăng? Hay quá! Nhưng Du Tử Lê không phải là thi nhân chuyên trị thơ tình, và ngay cả thơ tình của họ Lê, cũng phải được đọc trong nỗi đau thời thế. "Khúc thụy du“ chẳng hạn, tình thật đấy, người thật đấy, nhưng nếu chỉ nghe phổ nhạc, thoát li khỏi môi trường xúc cảm là năm 1968 và cuộc công cán kinh hoàng của Du Tử Lê, sẽ khó tìm được những âm vọng thống thiết đằng sau nỗi xót "hãy nói về cuộc đời – khi tôi không còn nữa“ và những "vì sao“ và "vì sao“. Cùng với nhà thơ, mỗi người đọc đều bơ vơ trước điệp trùng câu hỏi phải tự đặt ra cho mình.
Thế nên, theo Du Tử Lê suốt toàn tập cả ngàn trang, từ 1957 tới 1993, thấm tình yêu đau đớn và đắm đuối người thơ gửi cho một người, nhiều người, nhiều nhất là gửi cho chính bản thân mình – TÔI - thấm những cô đơn tuyệt vọng, thấm cả nỗi cô độc bình thản của ông, tôi lại trở về với Tuyên ngôn "Tôi còn tiếng nói – Tôi còn linh hồn – Tôi còn dĩ vãng – Tôi còn quê hương – Tôi còn lịch sử – Tôi còn là tôi – Một trời khốn khổ – Việt Nam – Ơi Việt Nam.“ (Du Tử Lê – Toàn tập tập 1)
Người đã từng tưởng vĩnh viễn chia biệt với quê nhà, đã trăng trối khi còn đang rất trẻ rất khoẻ "khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển“, cuối cùng đã trở lại được đất Việt. Nơi đó, ông từng biết, từng viết "không thể xóa hận thù – bằng máu người xối chảy“ (1969), và suốt đời Du Tử Lê đã cần mẫn xóa, bằng thơ.
Berlin. 11. 2019
Lê Minh Hà