Y Vân, ‘Lòng Mẹ’, như một ‘Tuyên ngôn của tình mẫu tử’

28 Tháng Giêng 20225:37 SA(Xem: 2410)
Y Vân, ‘Lòng Mẹ’, như một ‘Tuyên ngôn của tình mẫu tử’

Y Vân, ‘Lòng Mẹ’, như một ‘Tuyên ngôn của tình mẫu tử’


Tôi vẫn nghĩ, chỉ cần một tinh thần khách quan tối thiểu thì, không ai có thể phủ nhận sự phong phú đầy ý nghĩa của nền tân nhạc miền Nam 20 năm.

Cũng như thi ca, nền tân nhạc miền Nam, với lịch sử ngắn ngủi từ 1954 tới 1975, đã mang lại cho Việt Nam cả một kho tàng văn học, nghệ thuật rực rỡ. Sự giàu có rực rỡ ý nghĩa của bộ môn nghệ thuật này, không chỉ giới hạn ở thể loại tình ca mà, nó lan tỏa, tới mọi giai tầng xã hội. Mọi hạng tuổi. Mọi sinh hoạt xã hội. Tôi muốn nói, dòng tân nhạc ấy, đã ân cần đi tới từng thành phần. Hân hoan, hạnh phúc đáp ứng nhu cầu từng đám đông.

 

Không kể tình ca, ở thể loại còn lại nào, người ta cũng tìm thấy rất nhiều ca khúc có giá trị cao từ giai điệu tới ca từ. Từ những ca khúc dành cho thiếu nhi, thanh niên, tới những ca khúc viết về cho chiến tranh, người lính, thôn quê, nông dân…

 

Ngay những ca khúc có tính chất tuyên truyền, như vào khoảng đầu thập niên (19)60, vì nhu cầu, chính quyền miền Nam phát động một chiến dịch gọi là “Chiêu hồi,” dành mọi ưu tiên cho những sáng tác loại này. Tuy là loại nhạc được các nhạc sĩ viết theo nhu cầu, theo chiến dịch, nhưng trong số những sáng tác đó, người ta vẫn gặp được những ca khúc giá trị. Sâu nặng tình người. Thứ tình cảm được xây dựng trên yếu tính nhân-bản. Không kêu gọi máu đổ, thịt rơi. Không hô hào chém giết hoặc tận diệt kẻ thù!

 

Tôi nhớ hồi còn nhỏ, dường như cuối thập niên (19)50 (?), tình cờ tôi nghe được một ca khúc nói tới mối tương quan đẹp đẽ giữa người lính và người nông dân, cùng nhiều địa danh hoàn toàn xa lạ với tôi thời ấy. Tới bây giờ, tôi vẫn không biết tên tác giả, cũng như tựa đề của ca khúc. Nhưng không hiểu vì đâu, một lời ca trong bài hát ấy, đã ở lại bền lâu trong tôi. Đó là câu:

 

“Khi người lính chiến đã đấu tranh hiến hòa bình cho Đồng Tháp, Cà Mâu,

Ta người nông dân gia công, gắng sức tăng gia cho được mùa mong cầu…” (1)

 

Gần đây, khi lời hát này từ đáy sâu tiềm thức tôi trồi lên, dội đập bốn vách tường tâm trí, tôi đã nói với một vài bằng hữu của tôi rằng, giai điệu của ca khúc tươi vui, đẹp tới lãng mạn. Và, phần ca từ thì, chỉ một câu ngắn thôi, đã tả rõ, thật rõ cả một không gian thanh bình của miền Nam những năm cuối và, đầu thập niên (19)50, (19)60.

 

Nói cách khác, nền tân nhạc của miền Nam, không chỉ phong phú ở thể loại tình ca mà, giới thưởng ngoạn dù ở môi trường nào, giai đoạn nào, lứa tuổi, trình độ, giai tầng xã hội nào cũng vẫn tìm được cho mình một số ca khúc, để yêu thích. Để mãi nhớ. Như một thứ vốn liếng, tài sản tinh thần riêng. Tuồng những ca khúc ấy, được viết cho riêng họ vậy.

 

Nhưng, nếu phải đi tìm một ca khúc, gồm luôn cả tình ca, quê hương, chinh chiến, thảm họa ca… mà, khi bài hát vừa cất lên, dù người nghe lớn hay nhỏ tuổi, giầu sang, trí thức hay không, cũng có thể lầm thầm hát theo thì, trong số hàng ngàn ca khúc của miền Nam, có dễ chỉ vài ba bài đạt tới mức độ phổ cập cực lớn ấy. Trong số vài ba ca khúc hiếm hoi này, theo tôi, có ca khúc “Lòng mẹ” của cố nhạc sĩ Y Vân/ Trần Tấn Hậu:

 

Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào,

Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào,

Lời Mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào.

Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng Mẹ yêu. 

Lòng Mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa Thu.

Tình Mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ.

Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ.

Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát trẻ thơ. 

Thương con thao thức bao đêm trường,

Con đà yên giấc Mẹ hiền vui sướng biết bao.

Thương con khuya sớm bao tháng ngày,

Lặn lội gieo neo nuôi con tới ngày lớn khôn. 

Dù cho mưa gió không quản thân gầy Mẹ hiền.

Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền.

Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ một niềm.

Tiếng ru êm đềm Mẹ hiền năm tháng triền miên.
("Lòng Mẹ" -Y Vân, lời 1, đầu tiên)

 

Toàn vẹn phần ca từ là những lời cực kỳ đơn giản. Không chút cầu kỳ, bóng bẩy. So sánh hay liên tưởng trong toàn bộ lời ca, cũng là những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường ngày của chúng ta…

 

Nhưng chính sự đơn giản, mộc mạc mà chân thật, nồng nàn đã soi rọi, đã phóng chiếu xác thực tình mẹ thương con. Cũng chính những hình ảnh được tác giả nêu ra để so sánh, là những hình ảnh đời thường mà, người nghe cảm nhận được một cách cụ thể tính hy sinh bao la, bất tận của người mẹ Việt Nam. Những người mẹ quên mình vất vả, cực nhọc, ngược xuôi một đời vì các con.

 

Tôi muốn ví ca từ trong ca khúc “Lòng Mẹ” của Y Vân tựa như những cục than hồng thương yêu, những ngọn lửa hy sinh một đời của người mẹ làm phỏng, cháy tâm hồn người nghe. Dù người kia vẫn còn hay đã mất mẹ.

 

(Phải chăng, nhờ những phỏng cháy tâm hồn từ tình mẹ thương con mà, không ít những đứa con đã nên người?)

 

Lại nữa, như tôi biết, tùy tâm trạng, khung cảnh, thời gian… khi bài hát được cất lên, nhiều người đã không ngăn được nước mắt. Những hạt lệ thương tâm, lặng lẽ chảy! Có thể đấy là những giọt lệ muộn màng của những đứa con từng vô tình trước những hy sinh vĩ đại của người mẹ. Nhưng dẫu sao thì, sự “đánh thức” mà ca khúc “Lòng Mẹ” của cố nhạc sĩ Y Vân, trong những trường hợp vừa kể, cũng vẫn là một “đánh thức” hiếm hoi nhiều tình, ý tiềm tàng trong ca khúc.

 

Lịch sử dòng tân nhạc của hai mươi năm văn học, nghệ thuật miền Nam, còn lưu truyền tới nay, có khá nhiều ca khúc nổi tiếng viết về tình mẹ. Nhưng, như đã nói, dường không một ca khúc nào, đạt tới mức phổ cập cùng khắp như “Lòng Mẹ.”

 

Từ đó, tôi muốn được gọi ca khúc “Lòng Mẹ” của cố nhạc sĩ Y Vân, như một “Quốc-ca-của-tình-mẫu-tử” vậy.

Từ ca khúc “Lòng mẹ” tới đời thường của nhạc sĩ Y Vân,

Về thời điểm ra đời của ca khúc “Lòng mẹ” mà, cá nhân tôi muốn được gọi là “Quốc ca của lòng từ mẫu,” đến nay, đã có tới ba ghi nhận khác nhau.

Trước hết, theo trang mạng Wikipedia/ Bách khoa toàn thư mở, phần tiểu sử của cố nhạc sĩ Y Vân, có đoạn ghi nhận nguyên văn như sau:

“Năm 1952 (trước di cư 1954) ông (nhạc sĩ Y Vân) vào Nam, tại đây tiếp tục sáng tác, chơi nhạc và dạy nhạc, ngoài ra còn viết sách dạy nhạc và đàn guitar. Những ca khúc nổi tiếng thời điểm này là: Lòng mẹ, Hồn quê, Đò nghèo..., ngoài ra ông còn là người đi tiên phong cho dòng nhạc nhẹ với những bài hát có giai điệu Cha cha cha, Disco như: Sài Gòn, Ảo ảnh, Sáu mươi năm cuộc đời, Thôi...”

Đoạn văn nay mở ra một cánh cửa mơ hồ khá to lớn! Căn cứ vào mạch văn, không ít người suy diễn rằng, ca khúc “Lòng mẹ” của cố nhạc sĩ Y Vân, đã được sáng tác vào năm 1952.

Nhưng trong bài viết nhan đề “Vài nét về cuộc đời của nhạc sĩ Y Vân,” tác giả Nguyễn Việt viết:

“… Sau một buổi trình diễn với Phủ Tổng Ủy Di Cư về, Y Vân bị mưa ướt như chuột lột, quần áo dơ hết. Mới di cư còn nghèo, chỉ có một bộ đồ coi được nhất để trình diễn, Y Vân rất lo lắng vì ngay sáng hôm sau lại phải đi đàn nữa. Khuya hôm đó, mẹ ông đã đem bộ quần áo ra máy nước công cộng đầu hẻm giặt sạch rồi về nhà đốt than lên hơ cho chóng khô.

“Sáng hôm sau, Y Vân đã nghiễm nhiên có được bộ quần áo sạch mặc đi diễn. Ông cảm động lắm và cảm hứng viết nhạc phẩm đầu tay “Lòng Mẹ”, một bài hát đã đi vào lòng hằng triệu người dân nước Việt. Và đó là khởi đầu cho sự nghiệp âm nhạc của một trong những nhạc sĩ tài hoa nhất của Việt Nam…” (2)

Trên thực tế, Phủ Tổng Ủy Di Cư được chính quyền miền Nam thành lập vào năm 1954, với nhiệm vụ lo giúp đỡ thiết thực cho hơn một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.

Tài liệu chính thức ghi nhận rằng:

“Sau khoảng một tháng, làn sóng di cư trở nên ồ ạt khiến chính phủ phải thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn. Phủ Tổng Ủy lần lượt do các ông Nguyễn Văn Thoại (từ ngày10.8.1954), Gs. Ngô Ngọc Đối (từ ngày 21.8.1954), Bs. Phạm Văn Huyến (từ ngày 4.12.1954), ô. Bùi Văn Lương (từ ngày17.5.1955) làm Tổng ủy trưởng. Tới ngày 21 tháng 8. Mỗi ban ngành đều có đại diện của Phủ Tổng ủy. Phủ Tổng ủy có 3 nhiệm vụ: - Cứu trợ và di chuyển. - Kiểm soát và tiếp cư. - Giúp đỡ định cư…” (3)

Nếu tư liệu của tác giả Nguyễn Việt về ca khúc “Lòng mẹ” của Y Vân là chính xác thì, thời điểm sáng tác của ca khúc phải nằm trong khoảng thời gian từ 1954, tới 1955. Bởi vì, sau đó, Phủ Tổng Ủy Di Cư không còn nữa.

Chưa hết, nhạc sĩ Y Vũ, em ruột của cố nhạc sĩ Y Vân, lại kể với phái viên báo Thanh Niên rằng:

“Cuối thập niên 1950, anh Y Vân là nhạc công chơi cho các nhà hàng ở Sài Gòn. Hằng đêm, mẹ ở nhà giặt quần áo ở máy nước công cộng, có lần giặt đến 2 giờ sáng thì bị cảnh sát chế độ cũ bắt vì tội phá lệnh giới nghiêm. Đến sáng, anh tôi về nhà, biết chuyện đã khóc và viết ra ‘Lòng mẹ,’ em trai của nhạc sĩ kể lại.

“Câu hát tha thiết: ‘Lòng mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu. Tình mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ. Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ. Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát trẻ thơ... Thương con thao thức bao đêm dài, con đà yên giấc, mẹ hiền vui sướng biết bao. Thương con khuya sớm bao tháng ngày, lặn lội gieo neo, mái tóc trót đành đẫm sương...’ Viết xong, anh hát cho mẹ nghe và bà đã khóc…” (4)

Giống như tác giả Nguyễn Việt, nhạc sĩ Y Vũ cũng không xác định rõ thời gian ra đời của ca khúc “Lòng mẹ.” Nhưng khi ông nói đó là “cuối thập niên 1950…” thì, chắc chắn không phải là khoảng thời gian 1954-1955. Nó càng rất xa điểm mốc 1952 như tài liệu của Wikipedia, khiến nhiều người ngộ nhận(?)

Tuy nhiên, dù “Lòng mẹ” ra đời ở thời điểm nào thì, căn cứ vào những tư liệu có được, (luôn cả lời kể của người em ruột, Y Vũ), tất cả đều cho thấy, nhạc sĩ Y Vân xuất thân từ một gia đình ngặt nghèo về vật chất. Ông sống với một bà mẹ đơn chiếc, tần tảo, ngược xuôi, một mình nuôi bày con.

Ở điểm này, tác giả Nguyễn Việt, trong bài viết của mình cho hay, ông biết khá rõ về gia cảnh của cố nhạc sĩ Y Vân; cũng như nguồn gốc của bút hiệu “Y Vân.” Họ Nguyễn viết:

“Nhạc sĩ Y Vân tên thật là Trần Tấn Hậu, sinh năm 1933 tại Hà Nội nhưng quê gốc ở Thanh Hóa. Thuở thiếu niên ông từng theo học nhạc với giáo sư – nhạc sĩ Tạ Phước, và đã tập tành sáng tác từ rất sớm nhưng không mấy thành công.

“Mồ côi cha, nhà nghèo, mấy mẹ con dắt díu nhau nương náu trong một túp lều xiêu vẹo ở ngõ chợ Khâm Thiên. Chính vì thế, Trần Tấn Hậu rất thương mẹ và các em.

“Lúc đó chàng nhạc sĩ nghèo chưa lấy nghệ danh Y Vân, ông phải đi dạy đàn để nuôi gia đình. Có một người bạn thân giới thiệu anh đến dạy đàn cho một tiểu thư khuê các – nàng tên là Tường Vân. Rồi giữa họ hé nở một mối tình đằm thắm. Nhưng… tình đầu tan vỡ cũng là lẽ thường, huống chi chàng chỉ là anh ‘Trương Chi’ si tình khốn khổ, còn nàng lại là một ‘Mỵ Nương’ danh gia vọng tộc. Không thành duyên nhưng… thành danh, một loạt các ca khúc của Y Vân (có nghĩa là Yêu Vân ) ra đời từ đó như : Đò nghèo , Ảo ảnh , Nhạt nắng… với phong cách tha thiết, trữ tình rất được công chúng yêu thích (…)

“Năm 1954, ông cùng 2 em và mẹ di cư vào Nam với hai bàn tay trắng, lúc vừa 21 tuổi. Mẹ hiền buôn bán nuôi 3 con. Còn Y Vân thì đã thích nhạc từ nhỏ, học đàn, sáng tác, hòa âm từ trước năm 54 nên vào Nam đã có thể đi trình diễn giúp vui cho đồng bào di cư…” (5)

Tôi không biết có phải vì gia cảnh ngặt nghèo và, mối tình đầu sớm tan vỡ, đã là hai động lực lớn, thúc đẩy tài năng tiềm ẩn của Y Vân/ Trần Tấn Hậu, sớm phát tiết và thăng hoa?

Nếu quan điểm này có phần đúng thì, chúng ta cũng nên cám ơn hai bất hạnh kia của họ Trần. Và trước khi từ trần ngày 28 tháng 11 năm 1992 tại Saigon, tôi tin, dù bản chất khiêm tốn, thâm tâm cố nhạc sĩ Y Vân cũng hài lòng, hãnh diện về những năm, tháng cơ cực của gia đình và, cá nhân ông - - Qua những gì ông đã cống hiến cho kho tàng tân nhạc Việt Nam. Một cống hiến nghệ thuật lớn lao mà, không phải nhạc sĩ nào cũng có thể đạt được. Dù cho họ may mắn có hoàn cảnh sống đầy đủ, tốt đẹp hơn ông!


Y Vân, tình khúc như nhân chứng kỷ niệm

 

Nói tới đời thường của cố nhạc sĩ Y Vân, tôi nghĩ không ai có thẩm quyền hơn người bạn đời sau cùng, chia sẻ buồn vui với ông mấy chục năm thăng trầm; nhất là những năm tháng biến cố Tháng Tư, 1975. Đó là bà Minh Lâm. Hơn một lần bà tâm sự rằng:

“Nhiều người thêu dệt Y Vân thành một con người đa tình, trăng hoa. Là vợ chồng, mấy mươi năm đầu gối tay ấp nên tôi rất hiểu nhà tôi. Anh ấy là một người đàng hoàng, có gì cũng thật thà kể với vợ (kể cả những việc sâu kín như trường hợp lấy nghệ danh Y Vân). Anh ấy rất có hiếu với mẹ và thương yêu vợ con.

 

“Thời gian sau năm 1975, Y Vân tham gia đoàn ca nhạc Hương Miền Nam, rồi nhận viết nhạc cho nhiều nguồn: phối nhạc cho Saigon Audio, viết nhạc phim, nhạc nền cho sân khấu… Anh làm việc cật lực bất kể ngày đêm. Ban trưa, nhìn anh xoay trần viết nhạc dưới mái tôn thấp nóng hầm hập, thấy thương vô cùng. Trời thương, nên giai đoạn đó anh được ‘đặt hàng’ dồn dập, có thể nói là ‘ăn nên, làm ra’, nhờ đó mà gia đình chúng tôi xây lại được căn nhà tạm gọi là ngăn nắp, nhưng anh làm ra cho mẹ con chúng tôi hưởng, bởi chỉ một năm sau thì anh mất…” (3)

 

Kể lại phản ứng của thân mẫu nhạc sĩ Y Vân/ Trần Tấn Hậu, người đàn bà không đi thêm bước, dù còn trẻ khi người chồng qua đời – (Bà ở vậy nuôi con. Nhờ thế, chúng ta có được ca khúc bất tử “Lòng Mẹ” – người vợ tấm cám của cố nhạc sĩ Y Vân cho biết:

 

“Dạo ấy, đứng trước quan tài của anh đang được quàn tại Hội Âm Nhạc TP. Mẹ chồng tôi không hề khóc một tiếng. Có lẽ tất cả nước mắt để khóc thương con, bà cụ đã âm thầm nuốt ngược vào trong. Chúng tôi nghe bà cụ nói: ‘Người đời thường bảo: Con ‘đi’ trước mẹ là bất hiếu, nhưng mẹ chẳng trách con đâu bởi con đã làm tròn chữ hiếu ngay từ lúc viết xong bài ‘Lòng mẹ’… Con đi trước mẹ nhưng không nợ mẹ, vì mẹ nuôi con 20 năm nhưng con đã nuôi mẹ đến 40 năm… ‘”

 

10 tháng sau, Mẹ nhạc sĩ Y Vân mất. (4)

 

Về âm nhạc của cố nhạc sĩ Y Vân không chỉ có “Lòng Mẹ.” Ông còn để lại cho đời mảng tình khúc, phong phú, như một khu rừng tâm tưởng thăng hoa.

 

Tôi hằng nghĩ, một tình khúc khi đạt được cả hai yếu tố: Giai điệu đẹp, và ca từ ý nghĩa hoặc, tâm lý thì, những tình khúc ấy sẽ có một vị trí, một chỗ đứng như những kỷ niệm bất hoại trong nhiều cuộc tình đôi lứa. Như những hạt giống gieo trồng an ủi những tâm hồn cô độc. Chúng như người bạn đồng hành, như nhân chứng đi theo tới cuối đời kẻ nào từng có đôi lần hát lên trong ánh sáng yêu thương hay, bóng tối đoạn lìa.

 

Theo tôi, hầu hết tình ca Y Vân/ Trần Tấn Hậu đều có được tính chất đặc biệt này.

 

Nhìn lại, chúng ta thấy hàng trăm tình khúc của họ Trần chẳng những được đón nhận một cách nồng nàn ngay khi tác phẩm mới phổ biến mà, chúng còn được yêu quý trải qua nhiều thế hệ – Hiểu theo nghĩa chúng đã ở lại bền lâu trong ký ức.

 

Những tình khúc của Y Vân như “Đồi Thông,” Ngăn Cách,” “Đêm Giã Từ (phổ thơ Thể Vân), “Thôi,” “Đừng Lừa Dối Nhau,” Người Em Sầu Mộng” (phổ thơ Lưu Trọng Lư), “Hãy Yêu Tôi” (phổ thơ Đinh Hùng), “Những Bước Chân Âm Thầm (phổ thơ Kim Tuấn) v.v… dù với nội dung nào, cũng đều như những nhân chứng của kỷ niệm. Như người bạn thân thiết nhất của những kẻ lạc lõng, cô đơn!

 

Bên cạnh đó, ca khúc “Ảo Ảnh” của Y Vân, sớm được nhiều giai thoại (hay huyền thoại) tìm đến, vây quanh!

 

Tôi không biết “Ảo Ảnh” với những chi tiết được báo Thanh Niên, cột mục “Nghệ Thuật Yêu” đăng tải, có nằm trong điều mà, người bạn đời của cố nhạc sĩ Y Vân từng than phiền là “thêu dệt” (?) – Nhưng, cách gì thì, dưới đây cũng là một giai thoại làm mủi lòng nhiều người:

 

“Y Vân lập gia đình năm 1963, lúc này anh đã là trưởng ban nhạc Y Vân danh tiếng ở Sài Gòn (cùng với sự cộng tác của các ca sĩ Thanh Thoại, Tuyết Mai, Mai Hương…). Một buổi trưa năm 1965, từ đài phát thanh, Y Vân dắt xe máy ra cổng chuẩn bị về thì có một chú bé chạy đến mời anh vào quán nước cạnh đấy. Nơi đây, một thiếu nữ khá xinh ngồi chờ sẵn, chú bé giới thiệu đó là chị của mình, tên Huyền, đang là sinh viên Ban Việt-Hán, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Huyền có đôi mắt to, đen và buồn. Trên bâu áo của nàng có một mảnh tang đen. Y Vân cố nhớ lại xem mình đã gặp cô gái này ở đâu chưa, nhưng chịu thua. Theo phép xã giao anh ngỏ lời chia buồn. Nhưng cô gái lắc đầu, buồn bã: ‘Em đâu có người thân nào qua đời. Mảnh tang này là dành cho mối tình của em đó!’ Y Vân sượng sùng, anh cũng manh nha đoán rằng phải có một điều bí ẩn gì đó mới khiến cô gái này vượt qua nỗi e dè thường thấy của phái nữ, không ngại điều thị phi để đánh bạo gặp anh, nhưng cũng khó mở miệng để hỏi, đành chỉ ngồi nói chuyện bâng quơ một lát rồi viện cớ cáo từ.

 

“Hai hôm sau, Y Vân tìm đến nhà Huyền theo địa chỉ cô đã cho. Đó là một căn nhà vách gỗ đơn sơ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ nằm bên chiếc ao rau muống trong con hẻm đường Trương Minh Giảng (gần chợ Phú Nhuận bây giờ). Huyền không có nhà nhưng cậu em trai đã thổ lộ với chàng nhạc sĩ những điều thầm kín của chị mình. Chú bé cho biết họ là con của một địa chủ tiếng tăm ở Long An, được gia đình gửi lên Sài Gòn trọ học. Huyền rất thích âm nhạc và ca hát, đặc biệt là thích nhạc của tác giả Y Vân. Những cuốn vở học trò của Huyền cũng được cô kẻ khung, chép nhạc (hầu hết là nhạc của Y Vân). Tiền gia đình gửi lên để Huyền hoàn tất chương trình cử nhân Văn khoa lại được nàng đem đóng học phí vào… lớp dạy đàn Tây Ban Cầm. Suốt ngày Huyền chỉ ôm đàn và hát nhạc Y Vân.

 

“Việc học bê trễ, mấy năm liền chẳng đậu thêm được chứng chỉ nào. Thấy vậy, ông bố đã bắt hai chị em về quê, ép gả Huyền cho một anh trung úy hải quân. Huyền quyết liệt từ chối. Bẽ mặt với nhà trai, ông bố đăng báo từ con. Huyền đau khổ, trút tâm sự với em trai rằng đã yêu nhạc sĩ Y Vân. Sau khi bàn tính, hai chị em trốn nhà lên Sài Gòn, Huyền phải tìm việc làm để mưu sinh và nuôi hy vọng có ngày sẽ được cùng người trong mộng kết tóc se tơ. Sau nhiều lần dò hỏi, biết chắc nhạc sĩ Y Vân đã có gia đình, Huyền làm một mảnh tang đen, luôn đeo nó trên bâu áo…” (5)

 

Tác giả bài báo kết luận, ca khúc “Ảo Ảnh” ra đời từ chuyện tình tuyệt vọng ấy.


Y Vân, Thêu dệt và sự


Tôi vẫn nghĩ, cái giá mà một người nổi tiếng phải trả, chính là những tin đồn, những dư luận xấu/ tốt thêu dệt bên cạnh hào quang của người ấy. Nhất là với các nghệ sĩ ở lãnh vực âm nhạc và trình diễn.

Mức độ tin đồn, thêu dệt xấu/ tốt thường tỷ lệ thuận với tiếng tăm mà nghệ sĩ ấy đạt được.

Trước đây nhiều năm, khi công nghệ thông tin chưa phát triển, tin đồn hoặc những thêu dệt quanh đời riêng một nghệ sĩ nổi tiếng, chỉ được phổ biến bằng phương tiện truyền tai. Người này kể với người kia những điều mà họ hãnh diện cho rằng chỉ mình họ biết được!

Nếu những dư luận mang nhiều tính “hư cấu” kia, có được phổ biến trên mặt báo thì, cách gì nó cũng vẫn bị giới hạn với số lượng ấn bản tờ báo đó bán được.

Nhưng từ khi Internet ra đời thì, đây là một biến cố lớn của sinh hoạt nhân loại. Hiểu theo cả hai nghĩa tốt và xấu; đúng và sai...

Thí dụ, ở một nơi xa xăm hay một quốc gia nào đó, thiên tai xẩy ra; tức thì, chỉ ít phút sau, mọi người đều biết. Thay vì chúng ta phải đợi, để biết sau nhiều giờ, do báo chí, truyền thông loan tải. Tiếp theo mức độ nhanh nhậy này, là sự lên tiếng chia buồn, tiếp tay cứu trợ nạn nhân, giúp đỡ của các quốc gia khác; tùy theo hoàn cảnh, phương tiện của từng quốc gia ấy. Sự liên đới mang tính tương thân, tương ái này, theo tôi, là một hành động rất ý nghĩa của cộng đồng nhân loại. Từ đó, dù bị bất hạnh bởi thiên tai, các nạn nhân cũng được an ủi, cảm thấy ấm áp phần nào khi họ thấy rõ mình không bị lãng quên.

Nhưng mặt trái của sự nhanh nhậy kia, lại là tính chất vô trách nhiệm: Không thể kiểm chứng những tin tức, bài vở thuộc loại tin đồn, thêu dệt chung quanh đời riêng của các văn nghệ sĩ - Một khi loại tin tức, bài vở ấy được phổ biến trên on-line, tức không-gian-ảo.

Lại nữa, những nhân vật bị/ được nói tới, hay những người có liên hệ hầu như không có thói quen lên tiếng đính chính, hoặc chỉnh sửa những dữ kiện thiếu trung thực.

Vì thế, những người muốn nghiên cứu, viết về một tác giả nào đó, vào on-line để tìm thêm tin tức như tiểu sử, sự nghiệp, đời thường một nhân vật, không có cách nào để kiểm chứng đúng/ sai - Ngoài sự chọn lựa một trong hai điều, tùy mục đích người viết là:

- Lọc ra những gì được coi là tốt đẹp, hoặc ngược lại về nhân vật mình định viết... (6)

Với nhạc sĩ Y Vân, ông không chỉ nổi tiếng với hàng trăm ca khúc trữ tình mà, còn là tác giả ca khúc “Lòng Mẹ” một ca khúc mà tôi muốn được ví như một thứ “quốc ca của tình mẫu tử” thì, tin tức, bài viết liên quan tới ông, từ tiểu sử, sự nghiệp sáng tác tới sinh hoạt đời thường của ông, đương nhiên được nhiều người ghi nhận. Thậm chí, có tác giả vì quá yêu mến ông (?) mà, tạo thêm những “huyền thoại” bao quanh đời thường của ông.

Trước những tin tức, bài vở không đúng hoặc, mang tính “thêu dệt” phổ biến trên các trang mạng, sau khi nhạc sĩ Y Vân từ trần, thân nhân (tôi muốn nói vợ, con) của tác giả “Ảo Ảnh” đã không hề có lời đính chính, giải thích.

Tuy nhiên, may thay, sau loạt bài viết về cố nhạc sĩ Y Vân/ Trần Tấn Hậu, chúng tôi đã nhận được những tin tức chính xác, rất hữu ích cho những ai muốn nghiên cứu sâu xa về đời riêng của tác giả “Biển Sầu.”

Số lượng tin tức quý báu mà chúng tôi vừa nhắc tới, được cung cấp bởi bà Như Hường, người bạn đời thứ nhất của cố nhạc sĩ Y Vân/ Trần Tấn Hậu. (7)

Từ bà Như Hường, tương lai, những ai muốn nghiên cứu hay viết tiểu sử về cuộc đời tác giả “quốc ca của tình mẫu tử” sẽ có những dữ kiện xác thực sau đây:

Năm 1959 (không phải 1962 hay 1963), nhạc sĩ Y Vân chính thức kết hôn lần thứ nhất với bà Như Hường.

Một năm sau, năm 1960, họ có với nhau, con trai đầu lòng. Sau đó, là 3 ái nữ.

Những ca khúc nổi tiếng, còn lưu truyền tới bây giờ của cố nhạc sĩ Y Vân/ Trần Tấn Hậu như “Ảo Ảnh,” “Ngăn Cách” v.v... được họ Trần sáng tác trong thời gian chung sống với người bạn đời thứ nhất của ông.

Riêng “Biển Sầu” và “Người Vợ Hiền” là hai ca khúc nhạc sĩ Y Vân viết cho bà Như Hường, như một bày tỏ cụ thể tình yêu, lòng trân trọng của ông dành cho người bạn đời thứ nhất của ông.

Hơn mười năm sau, tức năm 1970, với sự hy sinh rất hiếm xẩy ra trong thời hiện tại, bà Như Hường đã đi cưới vợ cho nhạc sĩ Y Vân.

Theo tiết lộ của Như Hường thì người vợ thứ hai của cố nhạc sĩ Y Vân, tên Minh Lâm - Là em con cô, con cậu với bà Như Hường. (Thân phụ của bà Minh Lâm là em trai của thân mẫu bà Như Hường.) Cảm thông trước mối tình mãnh liệt của em gái, bà Như Hường đã có quyết định trên, mặc dù bà gặp nhiều phản đối trong gia đình. Điều đáng nói thêm, hai chị em rất hòa thuận.

Nhạc sĩ Y Vân ăn ở với người bạn đời thứ hai của ông, có thêm 4 người con. Cũng gồm có 1 trai và 3 gái. Nói cách khác, cố nhạc sĩ Y Vân có tất cả 8 người con, gồm 2 trai 6 gái.

Bà Như Hường còn xác nhận, bản chất cố nhạc sĩ Y Vân rất đứng đắn. Bà nêu thí dụ chuyện cô Huyền yêu nhạc sĩ Y Vân, từng được đề cập trên báo Thanh Niên, cột mục “Nghệ thuật yêu,” sau đấy phổ biến trên Internet, là một trong những “thêu dệt” do người viết vì quá yêu mến (?)nhạc sĩ Y Vân, nên đã gán ghép cho ông!

Để kết luận, tôi nghĩ, tuy thiếu thời, nhạc sĩ Y Vân/Trần Tấn Hậu không được thong thả như những người bạn cùng trang lứa với ông - Nhưng bù lại, với lòng hiếu đễ, bản chất nghiêm túc và, tài năng thiên phú, tác giả “Lòng Mẹ,” xứng đáng nhận được tình yêu thương, sự hy sinh cao cả mà, người bạn đời thứ nhất, bà Như Hường, đã dành cho ông.

(Ca. Tháng Mười, 2012)
 Du Tử Lê
_________

Chú thích:


(1) Vì không biết tên tác giả, tựa đề ca khúc, nên người viết không có dữ kiện để tra cứu. Do đó, có thể trích dẫn này có một số từ không đúng nguyên bản. Xin quý bạn đọc niệm tình thứ lỗi.

(2) Theo dactrung.com.

(2), (3), (4), (5): Nguồn đd.

(6): Cá nhân tôi, trong hầu hết các bài viết của mình, những ngày gần đây. Vì không thể kiểm chứng tin tức được phổ biến trên online/ không-gian-ảo, nên tôi luôn ghi chú rõ tư liệu được trích dẫn từ đâu, cũng như danh tánh trang chủ (web-site) tức nguồn của những bài vở ấy.

(7): Bà Như Hường và 4 con đã thành đạt, hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Mười Một 202312:00 SA(Xem: 16702)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
14 Tháng Chín 202312:00 SA(Xem: 11969)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
12 Tháng Chín 202312:00 SA(Xem: 18744)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
06 Tháng Chín 202312:00 SA(Xem: 8940)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
02 Tháng Tám 202312:00 SA(Xem: 8008)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
21 Tháng Năm 202312:00 SA(Xem: 33252)
Bài thơ đầu tiên (?) của Tô Thùy Yên được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết tháng 4 năm 1956.
27 Tháng Tư 20239:42 SA(Xem: 5228)
Nói cách khác, theo tôi, Vĩnh Quyền nhà văn đã vượt trên chính mình. Điều không dễ với khá nhiều người cầm bút, còn lại.
16 Tháng Ba 202312:00 SA(Xem: 9082)
Người đầu tiên hăm hở xắn tay áo, bước vào lãnh vực xuất bản, giai đoạn sơ khai, là ông Đỗ Ngọc Tùng, nhà Đại Nam
02 Tháng Ba 202312:00 SA(Xem: 9905)
Tôi không rõ thời gian ở VN trước tháng 4-1975, nhà báo Ngọc Hoài Phương có làm thơ nhiều không?
18 Tháng Hai 202312:00 SA(Xem: 19297)
Nếu không kể những nhà xuất bản chuyên nghiệp như nhà Sống Mới, Khai Trí, Đồng Nai, Nguyễn Đình Vượng, hay Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn, Trí Đăng…thì, những nhà xuất bản được điều hành bởi các nhà văn, nhà thơ cũng đã tạo được ít, nhiều tiếng.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 16702)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 11969)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18744)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 8940)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8008)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 416)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 755)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 981)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22283)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 13822)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19049)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7736)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8633)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8342)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 10885)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30528)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20707)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25300)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22779)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21556)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19611)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 17921)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19109)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16789)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 15987)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24313)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31733)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34784)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,