Nhận định về tiếng thơ Xuyên Trà, cách đây nhiều năm, tôi từng nhấn mạnh: Ông là một trong rất ít nhà thơ, không lập lại chính mình. Sự vượt qua đựơc chính mình là điều mà, bất cứ một nhà thơ có ý thức nào, cũng mơ ước, cũng khao khát.
Ở thi phẩm “Biển Đã Xanh Dâu,” hôm nay, một lần nữa, nhà thơ Xuyên Trà lại cho thấy, ông không ngưng ném thơ mình, về phía trước.
Từ đó, tôi muốn ví thi phẩm “Biển Đã Xanh Dâu” của Xuyên Trà, như một ngôi nhà mới, có rất nhiều cánh cửa. Với cá nhân tôi (thì,) những cánh cửa sau đây, đáng chú ý nhất.
1- Cánh cửa Thứ Nhất, mở vào quê hương, hướng về đất nước.
- Tôi vẫn nghĩ, những bài thơ viết về tình yêu tổ quốc, tình yêu quê hương, sẽ mơ hồ, thiếu cảm xúc, nếu không đi ra từ tình yêu dành cho một nơi chốn cụ thể.
Với Xuyên Trà, qua “Biển Đã Xanh Dâu” thì, tình yêu dành cho một nơi chốn cụ thể đó là Quảng
-Tôi biết, chúng ta có rất nhiều nhà thơ gốc Quảng
Thơ Xuyên Trà, trong bày tỏ này, đã như một đền đáp quê hương, nơi sinh thành ra ông - - Dù cho mỗi gốc cây, mỗi ngọn cỏ, mỗi địa danh ông nhắc tới, thì, nhìn ngắm cách nào đó, đều treo lửng tang thương, đều vật vờ bất hạnh.
Ở khía cạnh này, tôi muốn nhắc tới những như: “Tâm khúc cho đời,” “Ngày mới về,” “Ta Đi,” “Mùa xuân trên phố cũ,” “Nhớ về Quảng
2- Cánh cửa Thứ Hai, mở vào tình yêu gia đình, bằng hữu.
-Tôi không biết tình yêu gia đình, bằng hữu, là khởi nguồn của tình yêu đất nước? Nhưng qua thi ca, cũng như căn cứ nơi đời thường, chúng ta thấy, bản chất Xuyên Trà, là người chung thuỷ, tình nghĩa. Ông ghi ơn công sinh, dưỡng của mẹ, cha. Ông chung thuỷ với vợ, con; với bằng hữu.
Tôi có cảm tưởng, dường như ông được sinh ra, để sống cạn kiệt đời mình, cho vợ, con. Cho bằng hữu.
Ở khía cạnh này, tôi muốn nhắc tới những bài như: “Tựa cửa ba sinh,” “Ngày giỗ cha,” “Tâm khúc cho mẹ ,” “Lời tự tình,” “Tri kỷ,” “Bài thơ thứ 2 cho Nguyễn Thị Trà Mi,” hoặc “Tuổi ngọ,” “Thêm, một đoá hồ nghi,” vân vân...
3- Cánh cửa Thứ Ba: Cảm nghiệm lẽ vô thường.
Cảm nghiệm này, thể hiện ngay, nơi nhan đề của tác phẩm: “Biển Đã Xanh Dâu” của tác giả. Tôi muốn gọi cảm nghiệm đó là, tính thiền; hoặc “hương vị thiền tính” trong thơ Xuyên Trà.
Tôi có thể kể ra khá nhiều bài, hầu quý vị, như: “Bỉ ngạn,” “Vết tình,” “Ngẫu hứng đêm xuân,” “Chữ không,” “Nẻo đời,” “Không đề 2,” “Em như cổ thụ trên đồi gió”...
4- Cánh cửa Thứ Tư: Tính trào lộng hay, phúng thích.
-Nhìn lại hơn nửa thế kỷ thi ca của chúng ta, tính từ thời điểm 1945 tới hôm nay, (thì,) chiến tranh, đoạ lạc, chết chóc, đã cho thơ của chúng ta quá nhiều nước mắt. Quá nhiều chia lìa. Quá nhiều khăn tang... Thơ của chúng ta thiếu hẳn tiếng cười – (Dù cho tiếng cười cũng chỉ là mặt bên kia của giọt lệ.) Tôi muốn nói tới những bài thơ mang tính tự trào, tự lố bịch hoá mình, của Xuyên Trà.
Ở khía cạnh này, trong ghi nhận của tôi, thì đó là những bài như: “Lục bát rời,” “Kỷ niệm,” “Thời thế,” hoặc “Bóng tình,” “Đổ thừa,” “Tạp thi,” vân vân...
(Và, sau chót,)
5- Cánh cửa Thứ Năm: Xuyên Trà, một lục bát khác.
Vẫn theo ghi nhận của tôi, thi phẩm “Biển Đã Xanh Dâu,” đã cho chúng ta, một lục bát khác. Một lục bát ra khỏi nẻo mòn đắng cay thân phận, nặng nề triết lý. Một lục bát thênh thang, phóng dật. Một lục bát thấp thoáng nhiều nụ cười hơn, nếu so sánh với lục bát của chính ông, ở những thi phẩm trước. Đó là những bài như: “Cám ơn,” “Buổi sáng,” “Mượn,” “Trả,” “Mùa xuân trên phố cũ,” “Bất ngờ,” hay “Lục bát, chiều,” “Không đề 1” vân vân...
Tóm lại,“biển” của Xuyên Trà, tuy “đã xanh dâu,” nhưng không vì thế mà “biển” của Xuyên Trà, không cho người đọc, cho chúng ta, những câu thơ làm đẹp thêm, đất nước. Đẹp thêm, tình người...
Và, tôi thấy cũng nên ghi nhận rằng: Đâu đó, giữa những hàng chữ, ông cũng đã làm đẹp, cả những tình-yêu-bất-hạnh, nữa.