Tôi không biết có phải câu thơ “là thi sĩ nghĩa là run với gió / mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” của Xuân Diệu, cách đây hơn nửa thế kỷ, đã trở thành tiêu chí để “xác định” hay “nhận diện” một thi sĩ?
Điều này có thể đúng với giai đọan tiên khởi của phong trào lãng mạn phát xuất từ đầu thế kỷ thứ XX, ở Pháp. (Mặc dù tự thân, thi ca chưa bao giờ thu mình trong cửa hẹp này.)
Tuy nhiên, tiêu chí hoặc định nghĩa trên, đã mang lại cho rất nhiều người trong chúng ta, (kể cả những người có làm thơ,) trải qua nhiều thế hệ, ngộ nhận rằng: Yếu tố cần và đủ cho một thi sĩ là tính dễ xúc động! Mau nước mắt!
Từ ngộ nhận kia, (cũng trải qua nhiều thế hệ,) chúng ta có quá nhiều bài thơ, quá nhiều thi phẩm “than mây, khóc gió!” Tới độ, một số người còn cho rằng, thi ca ra khỏi “phạm trù” này, chỉ là những “quái thai!?!”
Cá nhân, tôi không nghĩ vậy.
Bằng một chút chú tâm, quan sát, ta sẽ thấy chung quanh ta, có biết bao nhiêu người bản chất vốn đa sầu, đa cảm. Chỉ cần một hình ảnh, một câu chuyện thương tâm, hạch nước mắt của họ có thể bật mở, tức khắc. Nhưng không vì thế mà họ là thi sĩ. Ngay cả khi những người mau nước mắt, dễ rung động với mây, nước, gió, trăng… có làm thơ (rất nhiều thơ!) thì theo tôi, họ vẫn không hề là thi sĩ.
Đó chỉ là tiếng ve sầu ra rả, một mùa kêu rêu. Vay, mượn. Khuôn mòn. Ngắn ngủi.
Đó chỉ là sự tự đeo lấy cho mình chiếc mặt nạ - - Rồi mặc nhiên đồng hóa với da mặt - - Để trở thành một chân dung ảo. Tội.
Tôi vẫn nghĩ, thi sĩ là người có cái may-mắn-bất-hạnh, được thượng đế ký thác cho y / thị một gíac quan, riêng.
Tôi không hề có ý muốn nhắc tới cái chúng ta quen gọi là “giác quan thứ sáu.” Lọai giác quan giúp một số người tiên đóan hoặc, thấy trước những điều sẽ xẩy ra.
Tôi cũng không hề có ý muốn nhắc tới cái mà triết gọi là “trực giác.” Một năng lực đặc biệt, không cần kinh nghiệm, học hỏi, vẫn có thể trực cảm những sự kiện mơ hồ.
Tôi muốn nói tới lọai gíac quan không thể đánh số: Giác-quan-thi-sĩ.
Đúng vậy. Đấy là chữ, tôi muốn dùng. Tên, tôi muốn gọi.
Không có giác quan này, thi sĩ không thể tương thông với trời, đất.
Không có giác quan này, thi sĩ không thể “nghe” được tiếng nói của im lặng. Không có giác quan này, thi sĩ không thể “thấy” được hình ảnh của hư vô.
Không có giác quan này, thi sĩ không thể “chạm, đụng” được không gian, thời gian.
Không có giác quan này, thi sĩ không thể “ngửi” được mùi hương siêu tán.
Không có giác quan nay, thi sĩ không thể “nếm” được vị ngọt của chia ly, độ chát của hạnh ngộ.
Tôi không biết may mắn (hay bất hạnh) cho người bạn nhỏ của tôi, Nguyễn thị Khánh Minh, chính là người đã được Thượng đế ký thác cho cô, giác quan đặc biệt ấy.
Với giác-quan-thi sĩ, Nguyễn thị Khánh Minh, theo tôi, trở nên mẫn cảm diệu kỳ với mùi hương.
Cô không chỉ cảm nhận được mùi hương của thân phận, tình yêu, kỷ niệm, tử, sinh (mà,) cô còn cảm nhận được cả mùi phấn hoa của từng con chữ nữa.
Mùi hương, do đấy, trong chừng mực nào đó, đã thành ngải - - Quay lại bỏ bùa thi sĩ. (Hay thi sĩ tự biến thành con tin của “bùa hương,” chính mình?) Để “bùa hương” trở thành linh hồn mỗi con chữ?
Tôi không biết. Tôi cũng không thấy một ai, có thể trả lời rốt ráo câu hỏi này!
Nhưng ở đây, hôm nay, tôi biết, tôi muốn nói với người bạn nhỏ của tôi, Nguyễn thị Khánh Minh rằng, tôi rất mong, tôi mơ ước cô sẽ ở với “bùa hương” của cô, đến cạn, cuối, đời mình.
Bởi vì, (ngay khi có là điều bất hạnh) thì, cách gì, thượng đế cũng đã ký thác cho Khánh Minh, một giác quan, không phải người làm thơ nào cũng có được. Đó là giác-quan-thi-sĩ.
(