Nhà xuất bản Hợp Lưu mới ấn hành tập truyện “Mắt thuyền” của Nguyễn Xuân Tường Vy. Tôi cho đây là một chọn lựa và, quyết định ý nghĩa.
Với tôi, ý nghĩa đó, không chỉ nằm nơi cõi văn xuôi của Nguyễn Xuân Tường Vy tách thoát khỏi khuynh hướng bạo liệt, vốn đang được nhiều cây bút nữ trong, cũng như ngoài nước chọn - - như những thế đánh thể hiện mình một cách “hồ hỡi” nhất. Mà, nó còn nằm nơi khả năng vận dụng những kỹ thuật căn bản; hầu từ đó, làm mới được văn chương mình.
Sự kiện này là chỉ dấu cho thấy, tiềm năng một Nguyễn Xuân Tường Vy, rồi đây, sẽ bứt, lìa khỏi đám đông: Những lên đường một lần với cô.
“Mắt thuyền” (MT), tiêu biểu với truyện ngắn “Biển hoa vàng” (BHV), là một trong những trầm trọng ném mình về phía trước của Nguyễn.
Phía của thế giới, chân trời chữ và nghĩa, trước tiên, như cuối cùng, vẫn là những lao động trí tuệ cực lực. Chúng không hề là những nhào nặn dựa trên căn bản gây shock. Chúng không hề là những nháng lửa của scandale. Chúng là những xao xuyến nhân bản thâm sâu, xây dựng trên những câu hỏi lớn của những sinh vật có chung một mẫu số.
Tôi muốn gọi đó là mẫu số: “Con người là con vật cô đơn. Con vật thất lạc. Một đời đi tìm chính mình!”
Tôi rất thích những đoạn văn có những liên tưởng quánh đặc muộn phiền; với những câu hỏi không giải đáp. Nhưng nương náu đâu đó trong chúng, vẫn là cái đẹp của hình ảnh, và của cả chữ, nghĩa nữa.
Thí dụ:
“…Chỉ nhỏ tí tẹo như con chuột nhắt, riêng đôi mắt lại to, hun hút như lòng giếng sâu thẳm. Tôi nhìn đôi mắt chị, rờn rợn. Chị giam ai trong lòng giếng?
“Không có ai. Trống rỗng. Thế nên mới sâu.
“Phải vậy không?
“Tôi nghi ngờ câu trả lời của chị. Tôi soi gương tìm tòi. Chỉ có hai vũng nước nhìn lại tôi. Đăm đăm.
“Em đầy hạnh phúc.
“Nên mắt cạn?
“Tôi chẳng tin được lời chị nói. Tôi vẫn đi tìm hạnh phúc trong hôn nhân. Đêm qua, nằm bên N, tôi hỏi N có thương tôi.” (MT/BHV, trang 151, 152).
Hay:
“…Hai hàng dương vươn những cánh tay dài sần sùi đen đủi bủa chụp. Sương đêm lênh láng dâng lên từ biển hoa. Tôi nhấn mạnh chân ga. Chiếc xe chồm lên phía trước, hai bánh sau nghiến lạo xạo trên đường. Tôi thấy mình trôi trên biển đen, gió đại dương ào ào ập đến. Đằng sau tôi, lửa vẫn lồng lộng cháy. Tôi nhìn vào kiếng xe. Hai vũng đen sậm đặc sệt nhìn lại tôi. Đăm đăm. Lửa bập bùng. Những hạt ngọc trai nở tung, rần rật trên cổ tôi tựa đàn kiến vàng hung hăng cắn xé.
“Rồi thì ra, mắt sâu mắt cạn, cũng buồn như nhau. Hạnh phúc là điều không có thật. Chị ơi.” (MT / BHV, trang 163.)
Hoặc:
“…Những vết trắng nhớp bám dính trên da tôi từ từ queo lại rồi biến mất. Tôi vuốt lên làn da khô nứt, đau đớn hài lòng. Bầu trời đầy những cụm mây hình mặt người bay lướt. Tôi nhìn thấy khuôn mặt của những người đàn ông bay qua không dừng lại. Họ mang theo mật ngọt của đời. Họ lấy lại những gì đã ban phát…” (MT/BHV, trang 176).
Tôi nghĩ, câu hỏi “hạnh phúc” có / không,” được cất lên như một vấn nạn lớn, ngang bằng câu hỏi về sống / chết - - Không chỉ là một câu hỏi trong đời thường. Nó cũng là câu hỏi dành cho nhà văn.
Trong truyện của mình, Nguyễn Xuân Tường Vy khẳng định “hạnh phúc là điều không có thật.” Nhưng đứng về phía người đọc, tôi nghĩ, câu trả lời, nhiều phần, ngược lại.
Từ đây, trở về trang đầu của “Mắt thuyền,” tôi đọc “Mở.” Nguyễn Xuân Tường Vy viết:
“Tôi rời Việt Nam. Hành trang mang theo là chuỗi hạt trai kết bằng chữ của mười bốn năm chào đời. Những hạt trai ngời nắng nhiệt đới. Hơn hai mươi năm hội nhập, tôi đã đánh mất, đã nhặt lại, đã đánh bóng từng viên ngọc của mình. Dù không còn rực rỡ, những viên ngọc đã kết thành chuỗi ngôn ngữ tôi yêu. Vẫn quyến rũ như buổi đầu. Vẫn ngọt ngào như tiếng Mẹ ru đầu tiên trong đời.
“Khi các nhà xuất bản Việt đóng cửa,
“Khi sách Việt phủ bụi thời gian,
“Khi không ai còn muốn đọc tiếng Việt,
“Tôi đã chọn và viết bằng ngôn ngữ của trái tim mình.”
Gấp sách lại, tôi thấy, cảm nghĩ của tôi không sai. Hơn thế, nó còn đúng với cả Nguyễn Xuân Tường Vy nữa.
Một Nguyễn Xuân Tường Vy: Hạnh phúc. Hạnh phúc với chữ nghĩa, làm thành thẻ nhận dạng riêng của cô. Dĩ nhiên.
Hồ Huấn Cao.