LNĐ: Ký sự nhận định dưới đây của nhà thơ Du Tử Lê, viết về nhà thơ Tô Kiều Ngân, được trích từ tác phẩm “Năm Sắc Diện, Năm Định Mệnh” do nhà Tao Đàn Saigon, ấn hành tháng 6 năm 1965, cách nay 46 năm - - Do nhà thơ Thành Tôn, hiện cư ngụ tại Orange County, cho lại. Vì bài quá dài, chúng tôi xin phép tác giả, chia thành nhiều phần, để quý độc giả dễ theo dõi.
Trân trọng,
Trang nhà dutule.com
Khi cuốn “Năm Sắc Diện Năm Định Mệnh” còn nằm trong dự tưởng, tôi đã nghĩ đến sự có mặt cần thiết của một sắc diện quân đội. Một sắc diện khả dĩ phản ảnh trung thực những đớn đau, những dằn vặt, khắc khoải, của thế hệ thanh niên hiện tại, của những người cầm súng hôm nay, trong giai đoạn nghiêng ngửa, điêu đứng của quê hương, của nòi giống.
Nói đến những văn thi sĩ tại ngũ quả thật là không thiếu. Nổi danh có, lu mờ có, nửa mùa cũng có. Nhưng cái khó là lựa chọn sao cho được một khuôn mặt xứng đáng, chữ xứng đáng ở đây tôi dùng với một giới hạn đó là phạm vi quân đội.
Số tác phẩm nói về đời sống, cảm nghĩ của người cầm súng, viết bởi những tác giả quân đội, tôi thấy rất nhiều, nhan nhản ở các tiệm sách, các lề đường. Có điều là hầu hết đều rơi vào hai trường hợp đáng tiếc; hoặc quá lãng mạn hóa cuộc sống thực đầy cam go dằn vặt, đầy bi phẫn, hay chán chường chua xót của người xả thân nhỏ máu tại khắp các chiến trường. Hoặc đề cao một cách lố bịch, thiếu ý htức, theo kiểu văn chương tuyên truyền giai đoạn loại rẻ tiền; khiến chính những người được nói đến, không những không vinh dự chút nào, trái lại còn thấy hổ thẹn, buồn tủi vì bị phản bội, lợi dụng một cách trâng tráo. Họ không hề nhìn thấy vóc dáng họ, dù phảng phất qua suốt tác phẩm.
Tôi không thể chịu nổi những vị văn thi sĩ ngoài mặt ngợi ca đời sống chiến binh, trong tâm thần, sự thực lại chỉ nghĩ tới chuyện giải ngũ, hay lên lon, hay làm cách này, cách nọ, làm sao kéo dài được cuộc sống nhàn hạ “ăn cơm chúa múa tối ngày” tại các văn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất. Hoặc trước khi mặc khoác bộ quân phục, họ đã từng chạy chọt ngược xuôi, tìm đủ mọi cách trốn tránh, cuối cùng sau trăm phương nghìn kế khổ nhục, vẫn không thoát được, họ đành nhập ngũ với bao nhiêu bất mãn than trách… Sau đó, muốn được tiếp tục cuộc sống nhàn hạ cũ, muốn chữ thọ to lớn, đảm bảo hơn kẻ khác, các vị nầy đã không tiếc lời dao to búa lớn, gân cổ, gào thét, hoan hô… Nào là anh hùng dân tộc, anh hùng cứu quốc, nào là thiên thần nọ thiên thần kia. Một mặt những vị này không bao giờ bỏ lỡ những dịp may chê bai, kết án những tác phẩm, tác giả nào xét ra không cùng quan điểm, đường lối tuyên truyền như họ.
Cứ y như chỉ có họ yêu nước thương nòi mà thôi! Họ làm cho người bàng quang lầm tưởng rằng nếu đất nước này không có họ thì mất về tay cộng sản từ lâu. Nếu chính phủ có cho họ giải ngũ hoặc cho lên lon, họ sẽ xua tay, lắc đầu nguây nguẩy kiểu “em chả” bà phó Đoan.
Thật mỉa mai, trong khi những người thành tâm, thiết tha với vận nước, với quê hương lại âm thầm thể hiện nhiệt tâm của mình bằng những hành động cụ thể, những việc làm thiết thực, không ẩn ý không hèn mạt. Vì thế, tôi thấy khó vô cùng trong việc chọn lựa. Không phải tôi đòi hỏi tác giả đó phải què chân cụt tay vì chiến tranh, cũng không bắt buộc tác phẩm của họ phải lột trần được mọi cảm nghĩ, mọi sự thực của đời sống chiến binh.
Bởi tôi biết, dưới thời nào, chế độ nào, cũng có những điều muốn nói nhưng không thể nói được vì lý do này, lý do nọ, hay nhiều khi vì chính sự ý thức của người viết. Có khi phải chờ đợi cả năm mười năm sau, cũng có khi chưa kịp nói, chưa kịp viết, đời mình đã không còn
Sau một thời gian dọ dẫm, cho tới khi tôi viết đã được gần nửa suốn sách này, mà vẫn chưa tìm thấy một mẫu người như tôi muốn. Không phải là không có, tôi chưa gặp, đúng hơn, và tôi đành phải tạm gác ý muốn trên lại, rồi tự an ủi rằn,g sau này nếu bất chợt bắt gặp khuôn dáng thích hợp kia, tôi sẽ viết vào cuốn sau.
Thế rồi hôm đó, một buổi sáng đi thâu thanh ở đài Quân Đội, trong Nha CTTL, đầu đường Hồng Thập Tự, ở đây tôi gặp Đại Úy Tô Kiều Ngân. Ông mời tôi và một người bạn vào phòng chơi. Tôi bước vào căn phòng còn ngổn ngang bàn ghế, tủ sách, tài liệu lung tung. Hỏi ra mới biết ông đang dọn phòng về đây. Ông hỏi tôi: “Toa có cuốn thơ của moa chưa?” Tôi trả lời chưa, nhưng đã nghe nói tới. Ông đi lại bàn giấy với lấy cho tôi một cuốn thơ "Trường ca Người Lính Việt Nam." Tôi đón nhận với tất cả lòng cảm khích, cái cảm khích của một người nhỏ tuổi văn nghệ cũng như nhỏ cấp bậc. Sau đó, Đại Úy thi sĩ họ Tô kiếm ghế mời chúng tôi ngồi. Tôi ngắm nghía tập thơ loại bỏ túi này, rồi nhìn ông nói đùa: “Anh có cái tên thật đẹp, đã Tô (ý muốn nói loài ong) lại còn Kiều, đã Kiều lại còn Ngân”. Cả ba chúng tôi cùng phá lên cười vui vẻ.
Đúng lúc ấy, Tường Linh, Nguyễn Uyên cùng vài người nữa ì ạch khiêng chiếc tủ vào. Trong một dáng điệu hết sức nhanh nhẹn, tự nhiên ông để chúng tôi ngồi đó, đứng lên đẩy chiếc ghế băng dài ra tận ngoài cửa kê tủ. Sự việc xảy ra làm tôi hết sức ngạc nhiên. Cả một thân hình mỏng dính, gầy nhom của ông uốn cong xuống, gập hẳn lại, bậm môi, trợn mắt, mặt đỏ phừng phừng trước sức nặng của chiếc ghế dài. Tới đây, độc giả chắc lấy làm lạ và nực cười tôi đã quan trọng hóa một việc cỏn con vặt vãnh này. Nhưng độc giả nào đã là quân nhân sẽ thông cảm và sẽ cùng nghĩ như tôi!
Có ở trong quân đội, sống đời sống quân ngũ, mới thấu rõ cái giá trị quyền uy của một ông “quan ba”. Nhất là ông “quan ba” đó lại làm xếp một phòng, dưới có đủ sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ.
Độc giả hãy thử tính, muốn là chuẩn úy phải qua một năm, muốn làm thiếu úy, phải qua ba hay 4 năm quân trường. Tôi còn nhớ, thời gian thụ huấn tại Thủ Đức, trong phòng chúng tôi, trên bàn thường có khắc những phương trình của các khóa đàn anh để lại như “chuẩn úy = xài xể + mồ hôi + nước mắt”.
Từ chuẩn úy muốn lên thiếu úy xưa phải qua mấy năm vô chừng, nếu không có quan thầy hoặc thiếu mẹo vặt.
Từ thiếu úy lên trung úy bình thường phải trải qua 3 năm với điều kiện không bị tù quá số ngày ấn định. Còn từ trung úy lên đại úy thì phải nhiều năm hơn, dĩ nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ… (Nay quy chế thăng cấp đã có nhiều cải tiến). Đó là tôi chỉ nói tới những vị có xuất thân từ một trường võ bị, chưa nói tới những vị hạ sĩ quan. Sở dĩ tôi phải dài dòng như vậy, để giúp những độc giả không mấy rõ về ngạch trật trong quân độ,i cũng có thể có được một khái niệm tương đối về cái lon đại úy nó to tát, khó khăn vô cùng.
Từ đó, độc giả thấy đại úy họ Tô đáng cho chúng ta cảm phục, khi ông cong lưng đẩy ghế, kê vai khiêng tủ. Nhưng không phải vì thế mà tôi nẩy sinh ý nghĩ viết về ông. Điều thôi thúc tôi viết về ông bắt nguồn từ cuốn thơ “Người lính việt nam”, trường ca.