Trong năm năm đầu tiên của sinh hoạt thi ca Việt hải ngoại, Cao Đông Khánh là một trường hợp hãn hữu.
Hầu hết những nhà thơ của Việt Nam, cũng như những tài năng lẫy lừng thế giới đều phải trải qua một tiến trình cố định. Đó là tiến trình: dò đường - hủy thể và - định hình.
Như một người thợ mộc trước khi ra nghề phải thực tập trên những súc gỗ của ông ta. Như một bác sĩ, trước khi hành nghề phải thực tập trên những thi thể trong các cơ thể học viện. Nhà thơ cũng thế. Những bản nháp, hay những bài thơ đầu tiên của y là, những bài thực tập thứ nhất. Bước dọ dẵm, bước dò đường thường thấp thoáng hay ắp đầy cá tính, dấu vết của những tài thơ đi trước...
Từ những bài tập kia, thi sĩ trong một tình cờ nào đó của suy nghĩ lao lung, của khát khao tự chứng, y sẽ bước tới giai đoạn khai tử chính y, để tựu thành một kẻ khác. Y mang một dung mạo mới, với những đường nét, cá tính lâu dần làm thành y và, mang tên y. Đó là lúc tiếng thơ đã định hình. Đó là lúc tài thơ đã có được cho chính nó một linh hồn riêng, trong một bình thịt xương riêng.
Trường hợp Cao Đông Khánh, không thế. Trước bảy lăm, không có Cao Đông Khánh. Sau tám mươi, cũng không thể có một Cao Đông Khánh khác.
Như chính họ Cao cho biết, lớn lên giữa một cơ ngơi đồ sộ, Cao Đông Khánh được chuẩn bị để trở thành một tài phiệt. Cao Đông Khánh tự dọn mình để trở thành một "xì thẩu" hạng bự, tham vọng ngang hàng những tầm cỡ làm ăn quốc tế. Trước bảy lăm, Cao Đông Khánh, là một thứ Hắc Công Tử hay Bạch Công Tử của thời đại mới, Cao Đông Khánh của những canh bạc thâu đêm, của những tiệc rượu suốt sáng. Văn chương và chữ nghĩa, không chiếm cứ một diện tích nhỏ bé nào trong tâm trí trùng điệp hàng số, của Cao Đông Khánh.
Trước bảy lăm, thi ca không là mối ưu tư dù thấp thoáng trong trí lự của một Cao Đông Khánh, chủ cây săng lớn ở San Francisco. Một Cao Đông Khánh tay chơi trong night club giữa một Cựu Kim Sơn ngày đêm tiếng nhạc không phân lìa. Trước bảy lăm, Cao Đông Khánh là kẻ lạ mặt. Anh hoàn toàn lạ mặt với thi ca, với chữ nghĩa, Cao Đông Khánh, khi đó, là người đàn ông của một người đàn bà Mỹ. Là cha của hai đứa con, trộn chung hai dòng máu.
Vậy mà, đột nhiên, thơ Cao Đông Khánh xuất hiện trên các mặt báo Việt tỵ nạn. Vậy mà, đột nhiên ở những ngày tháng đầu tiên của thập niên 80, thơ Cao Đông Khánh xuất hiện như những cơn mê sảng. Những dòng thơ đổ mồ hôi trộm trong những đêm, về sáng, giựt mình thức giấc giữa trời xa lạ.
Không chỉ thơ, Cao Đông Khánh trong đời sống thường nhật, cũng xuất hiện như một cơn mê sảng. Cơn mê sảng dội bật những hân hoan, kinh ngạc, thầm lặng và, mỉa mai, chống đối, một cách ồn ào, giận dữ.
Những chê bai, những phê bình bằng nụ cười ngất, chung quanh cõi thơ Cao Đông Khánh, không ngớt tung lên bầu không khí văn chương lưu vong, năm năm đầu, bật gốc .
Đầu thậo niên 80, giữa lúc văn học Việt Nam, quê người, gần như tắt thở, gần như khô héo, với Nguyên Sa, mới trở lại Hoa Kỳ, từ Pháp; Thanh Nam ở Seattle; Mai Thảo vừa tới đảo; Vũ Khắc Khoan ở Minnesota; Ngọc Dũng ở Hoa Thịnh Đốn; Mặc Đỗ ở Texas; Viên Linh ở miền Đông, Võ Phiến mới dọn về Los Angeles từ Minnesota, Lê Tất Điều ở San Diego...
Tất cả hầu như không còn viết nữa. Hoặc có viết, nhưng không còn muốn đưa ra (?)
Lớp người mới, cầm bút sau biến cố 30-4, cũng chưa đông đảo. Đội ngũ này, đa số chọn thi ca, làm đất trời để tung hoành, để thi thố tài năng, như một hốt hoảng trước bơ vơ, nhiều hơn một chọn lựa sinh tử và, trí tuệ. Có dễ vì thế, không một tên tuổi nào, cho thấy triển vọng bứt, thoát khỏi những người đồng hành. Giữa cảnh tình đó, thơ Cao Đông Khánh, xuất hiện.
Cao Đông Khánh hiện ra với những câu thơ vô nghĩa. Những câu thơ không văn phạm, chẳng chính tả. Nhưng lạ lùng thay, đâu đó, giữa thế giới thi ca ngổn ngang, hà rầm này, thơ họ Cao lại rất giầu có những danh từ mà, những người làm thơ cùng thời hoặc, trước ông, ít dùng hoặc, không hề dùng tới. Ở đây, phải nói tới sự táo tợn, bất ngờ tới kinh ngạc mang tên Cao Đông Khánh.
Nếu trước tháng 4-75, không ít người khâm phục Trần Thy Nhã Ca, khi Nhã Ca nói về những chuyển động tâm lý của mình trong thời kỳ kinh nguyệt; thì, Cao Đông Khánh đã đi xa hơn một bước nữa, khi đề cập tới những người nữ vượt biển, dấu của cải, kim cương, hột soàn trong âm hộ...
Trong bài Hạt Kim Cương Di Tản, Cao Đông Khánh viết, từ tư cách một nhân chứng, đúng hơn, một nạn nhân sớm sủa của vượt biển, của hải tặc:
một người ngồi hát trong trại tỵ nạn
những vết muỗi đỏ trên thân thể nàng
những chỗ rối rắm những chỗ chí rận
dấu trong chỗ kín một hạt kim cương
một hạt kim cương lọt vô tử cung
những cuộc bạo dâm đứt giây trí nhớ
cây lá một ngày trổ trái héo hon
đứa trẻ sơ sinh dính dầy cát bụi.
Cũng là Cao Đông Khánh, khi ví quần áo lót của người nữ, bay phất phới, như cờ xí.
Và, cũng Cao Đông Khánh với ngôn ngữ miền Nam, thứ văn nói, đã chi phối hầu như, cùng khắp cõi thơ họ Cao.
Saigòn Chợ Lớn mưa như chớp
nát cả trùnng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về Xóm Chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm dấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông?
Saigòn Khánh Hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiếng
ngã tư Quốc Tế đứng xàng xê....
Hoặc:
em hãy kể tôi như trái cây lột vỏ
để quá đêm ngày hôi gió thit xương tôi
như gái tỉnh lẻ thất than nơi tị trấn
lỡ một lần lơ thêm nữa chẳng sao!
Chúng ta khó thể phủ nhận rằng, ngôn ngữ đường phố, địa phương rất ít được sử dụng trong văn chương 20 năm, miền Nam. Bất thành văn, những người này, cho rằng văn nói của miền Nam thiếu chất thơ, nếu không muốn bảo là không có thi tính, nói theo ngữ học. Thậm chí, những thi sĩ sinh trưởng ở miền Nam, điển hình như nhà thơ Tô Thùy Yên, cũng không dùng nhiều ngữ vựng đặc thù của vùng đất này.
Nhưng, ở Cao Đông Khánh thì, ngược hẳn..
Chính sự "nghèo túng" về một mặt nào đó của Cao Đông Khánh ở phương diện ngữ vựng, chính sự việc là kẻ lạ mặt với dòng văn học miền Nam mà, khi làm thơ, họ Cao buộc phải sử dụng vốn ngôn ngữ miền Nam, ẩn tàng, luân lưu trong ông.
Chỉ trong cõi thơ Cao Đông Khánh, người ta mới bắt gặp văn nói, rặc "Nam kỳ" và, những hình ảnh tiêu biểu lục tỉnh, miền Nam... Thơ ông, tựa một nhánh sông khác. Một nhánh sông không có khởi nguồn nhưng, cùng chảy vào biển văn học ta, nơi đất nước người.