(Tiếp theo và hết).
Có người hỏi tôi, phải chăng chìa khóa của sự thành công ở thể lục bát, của thơ Ngô Tịnh Yên là chủ tâm chọn lựa những thi-nhãn tương thích?
Tôi nhớ, tôi đã trả lời bạn đọc đó rằng: Không. Thi-nhãn chỉ là “người” dẫn, dắt cho con thuyền thơ trôi thuận chiều, êm đềm trên dòng chảy mượt mà của lục bát mà thôi. Từ trường hay sức quyến rũ của một bài thơ nói chung, lục bát nói riêng, nằm ở giá trị nội tại hay tự thân của bài thơ đó.
Vì thế, tôi rất thích khi tìm thấy một bài của nhà thơ T. Vấn trên trang mạng Wikipedia-Mở, viết về thơ Ngô Tịnh Yên. Bài viết nhan đề “Mụ phù thủy và đôi môi mềm (*) hay ‘Đọc Lục bát khỏa thân’ của Ngô Tịnh Yên”.
Bài của tác giả này, mở ra như sau:
“1.
“Người đi soi cội tìm nguồn
Nghe trong cơ thể hao mòn khớp xương
(Ngô Tịnh Yên)
“Tập thơ không dày lắm - 20 bài. Như lời tác giả, con số 20 tượng trưng cho
tuổi đôi mươi, tuổi của tình yêu. 20 bài Lục bát khỏa thân.
“Tại sao là Lục bát khỏa thân?
“Nói đến lục bát, người ta nghĩ ngay đến hai câu thơ nằm kề. Câu sáu là Adam,
mở lòng mình ra, mở cả thân xác mình ra để đón câu tám - Eva - bước vào cõi
Thiên đường, bước vào lấp cho đầy chỗ cụt của xương sườn. Cái vần của nguồn
trong câu sáu - Người đi soi cội tìm nguồn - phải vận với mòn
trong câu tám - Nghe trong cơ thể hao mòn khớp xương “- Cái mẩu
xương bị lấy ra - tình nguyện cho lấy ra - để được bàn tay mầu nhiệm biến thành
kỳ quan tuyệt vời nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Thượng Đế. Dẫu cho sau đó
là cả một nhân loại dại khờ suốt chiều dài lịch sử của mình.
“Khỏa thân là một đất trời trọn vẹn, một đất trời của thuở hồng hoang trong
vườn địa đàng. Khỏa thân là thực tại bằng xương bằng thịt của khái niệm Tình
yêu, là điều kiện đủ của nhị nguyên triết học, của nhị nguyên trời đất, nhị
nguyên âm dương, của nhị nguyên Trăng và Mật, của nhị nguyên Lục Bát và Khỏa
Thân. Như những nét minh họa của nữ họa sĩ tiếng tăm Nguyễn Thị Hợp, nằm rải
rác suốt tập thơ mỏng manh. Những ‘Giai nhân nằm phơi lõa thể. Bên Ni phố
vắng...’ (Phạm Duy)’ (…)
“3.
“Lần dở những trang thơ. Những trang
thơ mong manh như những thân xác Eva trong cơn lốc thời gian âm ỉ. Trang Thả
lá đề thơ bên cạnh một tác phẩm nhiếp ảnh tuyệt vời của nhiếp ảnh gia Hồng
Nga (lại một nữ nghệ sĩ nữa - tôi tự hỏi!). Nhìn giai nhân trong ảnh - rõ
ràng trong ngọc trắng ngà / giữa trời lồ lộ một toà thiên nhiên (Nguyễn Du)
- tôi liên tưởng ngay đến cái Hữu Hạn của con người và cái Vô Hạn của Nghệ
Thuật. Rồi đây, một trăm năm sau, một ngàn năm sau, hình hài này, sáng tạo
tuyệt vời của Thượng Đế này, sẽ trở thành cát bụi, sẽ là hư không. Nhưng bức
ảnh nghệ thuật sẽ bất diệt, sẽ còn lại mãi mãi, sẽ tươi trẻ mãi mãi như Tuổi
Xuân (tên bức ảnh trong tập thơ), như vào giây phút diệu kỳ trang tuyệt thế
giai nhân từ từ trút bỏ xiêm y, từ từ ngồi xuống cho người nghệ sĩ ghi lại hình
ảnh sẽ được lưu giữ cho nhiều thế hệ mai sau - miễn là lịch sử không đẻ ra thêm
những Tần Thủy Hoàng nào nữa.
“Tôi đọc trang Thả lá đề thơ. "... Từ đó... trái khôn ngoan đã
biến thành trái dại khờ. Bao kẻ dại khờ đã yêu nhau trên trái đất này từ ấy đến
nay? Tôi cũng là một trong những kẻ dại khờ đó, tình nguyện dại khờ... vui vẻ
dại khờ..." (Thả lá đề thơ - Ngô Tịnh Yên)
“Thế ra, tôi đã nghi oan cho cho
những nữ nghệ sĩ khả ái của chúng ta. Tôi tưởng các vị đùa cợt chúng tôi - một
lũ nhân loại đàn ông dại khờ - Thế ra, tác giả NTY cũng là một trong những kẻ
dại khờ đó. Tình nguyện dại khờ. Vui vẻ dại khờ.
“Tôi tưởng... chỉ có chúng tôi - lũ đàn ông tội nghiệp - mới là những kẻ dại
khờ.
“Thế ra, các dòng sông, mọi lạch nguồn, đều chảy về một chỗ trũng. Thế ra,
những tư tưởng... lớn cũng đều gặp nhau ở một chỗ rất bé nhỏ nào đó (ngoài trần
gian ngắn ngủi này)…” (Nđd)
Ở một phân đoạn khác, phân đoạn số 5, của bài viết, vẫn tác giả T. Vấn đi sâu vào nội dung hay giá trị tự thân của thơ Ngô Tịnh Yên, qua thi phẩm “Lục bát – khỏa thân”, ông ghi nhận:
“5.
“Lục Bát như cô gái vừa đẹp, vừa duyên dáng mặn mà nhưng cũng khá là đỏng đảnh.
Lần đầu tiên đến với thơ, người ta tưởng chừng như dễ dàng chinh phục được nàng
Lục Bát. Nhưng không phải vậy. Càng lưu luyến với thơ, càng thấy rằng khó mà
đến gần được cái hồn của Lục Bát. Cái mà thi sĩ Luân Hoán gọi là "uyên
nguyên căn bản". Từ xưa tới nay có bao nhiêu người làm thơ, nhưng chạm tay
được vào Lục Bát - theo tôi - không hẳn là có nhiều. Với tôi, Ngô Tịnh Yên chỉ
cần kiễng chân lên một chút nữa là có thể với tới được cái hồn Lục Bát mà nhiều
người làm thơ thèm khát. Trong tập 20 bài này, có những bài mà duyên nữ tính
bộc lộ rất rõ nét, từ vần điệu đến câu chữ. Bằng vào cảm quan của một kẻ
thuộc... nòi tình, tôi nhận ra ngay cái nét nữ kia.
“Thí dụ như bài Hôn:
“Yêu nhau yêu cái răng khôn
Lỡ mai răng lệch biết hôn chỗ nào
Yêu cái răng khểnh thấp cao
Nếu như răng lệch chỗ nào mình hôn
Đã yêu đâu sợ mất còn...
Răng long đầu bạc vẫn hôn như thường
(Hôn - Ngô Tịnh Yên)
“Có những bài lại nhẹ nhàng mộc mạc ý nhị như ca dao:
“Chỉ tại con mắt lá dăm
nên tằm mới chịu ăn nằm với dâu
còn tôi có tại gì đâu
cũng đòi bắt chước theo dâu với tằm
...
chỉ tại cái nết không chừa
thế nên trúc cứ lẳng lơ với mành
còn tôi giả bộ vô tình
cũng đòi bắt chước trúc mành lăng nhăng
...
ghét tôi cũng chẳng ăn nhằm
trăm dâu cứ đổ đầu tằm là xong
(Trăm dâu cứ đổ đầu tằm - Ngô Tịnh Yên)
“Làm nhớ đến câu ca dao đọc lên nghe như da thịt có gai: Kim chích vô thịt
thì đau, thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời.
“Một tập thơ có 20 bài, mà được đến như thế, tưởng cũng là... hơi nhiều”
(Nđd).
Cùng một quan điểm, lục bát Ngô Tịnh Yên gần với ca dao, về phương diện nội dung, nhà báo Mặc Lâm viết:
“…Nhưng không phải thơ Ngô Tịnh Yên lúc nào cũng đằng đẵng như thế. Dòng lục bát của chị đôi khi trở thành ca dao, một thứ ca dao của người thành phố biết làm thơ và biết nghĩ ngợi về nó. Nét ca dao trong thơ Ngô Tịnh Yên tuy không thoát hẳn ra để đứng riêng như những nhà thơ lớn, nhưng thành thật mà nói, khi đọc lục bát Ngô Tịnh Yên, người nghe không cảm thấy bị xúc phạm vì thần tượng Nguyễn Du của mình bị người khác lem luốc.
“Tôi buồn, buồn sững - buồn câm
Trăng không đốt
nến sao trầm hương bay?
Tôi buồn, buồn
đắng - buồn cay
Đường không
ngăn ngõ nhưng dài lối đi
Tôi buồn, buồn
lạ - buồn kỳ
Không ai trăn
trối sao đi chẳng đành?
Tôi buồn, buồn
quẩn - buồn quanh
Buồn da buồn
diết buồn thanh thoát đời
Tôi buồn, buồn
đất - buồn trời
Mành se chẳng
đặng tiếc thời chiêm bao.
“Buồn đến như thế thì chỉ có ca dao mới diễn tả nổi. Thì ra, nhà thơ của chúng ta rất tinh tế khi mượn ca dao để làm tình làm tội nỗi buồn của mình. Chưa hết, trong một bài thơ khác, Ngô Tịnh Yên đã rất cứng tay không ngần ngại dùng hồn vía ca dao để dẫn người đọc về một vùng quê nào đó nơi đồng bằng sông Cửu để hò hát cùng nhà thơ trong những mùa gặt đầy trăng...” (Nđd).
.
Tóm lại, sự thành công của Ngô Tịnh Yên, ở thể thơ lục bát theo tôi, là tổng hợp của ba yếu tố: thi-nhãn, bệ phóng ca dao và, nội dung tự thân văn bản.
Du Tử Lê,
(Dec. 2014)
___________
(*) Giải thích câu thơ “Mụ phù thủy và đôi môi mềm” được dùng làm nhan đề của bài viết, nhà thơ T. Vấn giải thích: Đó là nhan đề bài thơ đầu đời, ông viết và, đăng trong Đặc san Xuân trường Trung học Pétrus Ký niên khóa 69-70 ở Saigon.